Tứ Chánh Cần là hành phẩm thứ hai trong bảy hành phẩm trợ đạo của
ba mươi bảy phẩm đạo, là bốn phương tiện siêng năng tinh cần trong nổ lực hằng
ngày qua hiện quán ngăn ngừa các việc ác tâm chưa phát sinh và, không tái phạm
những việc ác lỡ đã phát sinh bằng vào ý nghĩ hay hành động tạo tác của thân
hay miệng, cùng lúc hiện quán thực hành các việc thiện chưa phát sinh cho phát
sinh và, việc thiện đã đang phát sinh trong nổ lực tiếp nối tu tập theo luật tắc
nhân quả qua việc chỉ ác hành thiện.
Tứ chánh cần, có chỗ gọi là Tứ chánh đoạn, Tứ ý đoạn, Tứ ý đoan, Tứ
chánh thắng hay Tứ đoạn. Chữ cần và chữ đoạn ở
đây có nghĩa là tinh cần để đoạn trừ, tức là dùng bốn pháp này trong
việc siêng năng tinh tấn (cần) để có thể đoạn trừ (đọan) ác cùng mọi sự giải
đãi biếng nhác của chúng ta trong việc hành thiện. Về chỉ ác thì
dùng mọi sự siêng năng tinh tấn của mỗi chúng ta vừa nổ lực đọan trừ những việc
ác mà chúng ta đã lỡ làm ra và dứt khóat không bao giờ tái phạm và, nổ lực
siêng năng tinh tấn trong việc ngăn ngừa những việc ác chưa phát sinh ra ngay từ
trong ý nghĩ, không cho chúng phát sinh ra trong tự ý (ý hành) và ngoài hành động
của thân (thân hành) của miệng (khẩu hành) làm di hại tự chúng ta và cho người
khác. Về hành thiện thì hành giả chúng ta cũng dùng siêng
năng tinh tấn trong việc vừa khơi dậy những việc làm thiện chưa phát sinh ra
trong ý nghĩ thì khiến cho chúng phát sinh ra trong tự ý và thể hiện ra ngoài bằng
những hành động của thân mình và miệng mình, đồng thời cũng dùng siêng năng
tinh tấn trong việc tiếp tục tiếp nối làm cho những việc làm thiện đã đang phát
sinh tăng trưởng ngày càng nhiều hơn trong việc lợi mình lợi người. Đó là ý
nghĩa của Tứ chánh cần hay Tứ chánh đoạn trong việc chỉ ác hành thiện lợi mình
lợi người trong cuộc sống.
Pháp Tứ chánh cần này được đức Phật dạy cho môn đồ của mình rất nhiều
cũng tùy theo trình độ căn cơ của hàng đệ tử mà Ngài chỉ dạy. Pháp này được ghi
lại rải rác trong ba tạng giáo điển khởi nguyên cũng như phát triển sau này rất
nhiều, như trong Trung A-Hàm q . 21, q . 52; Tạp A-hàm q . 26, 30, 31; Tăng Nhất
A-Hàm q . 18. Ở đây chúng tôi xin ghi lại một số kinh luận tiêu biểu và thông dụng.
Căn cứ vào Pháp giới thứ đệ sơ môn (phần cuối của
quyển trung) thì Tứ chánh cần được ghi lại như sau:
1. Vì muốn đoạn trừ những việc ác đã sinh, mà siêng năng tinh tấn.
2. Vì muốn khiến cho những việc ác chưa sinh không cho phát sinh,
mà siêng năng tinh tấn.
3. Vì muốn khiến cho những điền thiện chưa phát sinh có thể phát
sinh, mà siêng năng tinh tấn.
4. Vì muốn khiến cho những điều thiện đã phát sinh có thể làm tăng
trưởng hơn lên, mà siêng năng tinh tấn.
Nhờ nổ lực một lòng siêng năng tinh tấn hành bốn pháp này cho nên gọi
là Tứ chánh cần.
Nhưng theo Kinh Trung A-hàm 21 Hán tạng Kinh Thuyết Xứ 86, tương
đương với Trung bộ kinh bên Pāli tạng M. 148 Chachikka-suttaṃ, đức Phật dạy cho
người đệ tử thân cận của mình rằng:
“A-nan, trước kia Ta
đã nói cho ông nghe về bốn chánh đoạn, Tỳ-kheo đối với pháp ác bất thiện đã
sanh, vì để đoạn trừ chúng nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết
tâm, đoạn trừ. Đối với các pháp ác bất thiện chưa sanh, vì để chúng không phát
sanh nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết tâm, đoạn trừ. Đối với
các pháp thiện chưa sanh, vì để cho phát sanh nên khởi ước muốn, nỗ lực hành,
tinh cần, dốc hết tâm, đoạn trừ. Đối với các pháp thiện đã sanh, vì để chúng
kiên trụ, không bị quên lãng, không bị thoái hóa, được bồi bổ tăng tiến, được
phát triển rộng rãi, được viên mãn cụ túc, nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh
cần, dốc hết tâm, đoạn trừ. A-nan, bốn chánh đoạn này, ông hãy nói để dạy cho
các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về bốn chánh
đoạn này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt,
trọn đời tu hành phạm hạnh.”
Ở đây, đức Phật cũng đứng trên lập trường nhân quả ‘Chỉ ác hành thiện’
mà Ngài dạy cho chúng đệ tử của mình phương pháp nổ lực siêng năng tinh tấn đoạn
trừ: Một mặt ác đã sinh và chưa sinh, đoạn trừ chúng bằng cách không được tái
phạm cùng, nổ lực ngăn ngừa không cho phát sinh và, mặt khác siêng năng tinh tấn
đọan trừ ma tâm biếng nhác, nổ lực phát huy nuôi dưỡng lớn thêm hơn, thành tựu
những điều thiện đã phát sinh rồi và, nổ lực khởi phát những ước muốn, tạo điều
kiện để cho những điều thiện chưa phát sinh xuất hiện trong cuộc sống, sinh hoạt
hằng ngày của mỗi hành giả chúng ta, ngày càng hòan thiện hơn. Đây là bốn
phương tiện được đức Phật chỉ dạy cho tôn giả A-nan để dạy lại cho những Tỳ-kheo
còn nhỏ tuổi một cách tổng quát được áp dụng hằng ngày trong hiện quán qua việc
đoạn trừ ác pháp và nuôi lớn hành thiện.
Ở chỗ khác như trong kinh Tăng nhất A-hàm 18, tương đương Tứ chánh
cần Pāli, D 33 Saṅgīti (R. iii.221) Cattāro Sammappadhānā. Bấy giờ, Thế
Tôn bảo các Tỳ-kheo:
«Tỳ-kheo không phóng
dật tu bốn ý đoạn, tu tập nhiều tứ ý đoạn. Những gì là bốn? Ở đây, Tỳ-kheo,
pháp tệ ác chưa sanh, tìm cầu phương tiện khiến không cho sanh, tâm không rời
xa, hằng muốn khiến nó không sanh. Pháp tệ ác đã sanh, tìm cầu phương tiện khiến
diệt, tâm không xa lìa, hằng muốn khiến diệt. Pháp thiện chưa sanh, tìm cầu
phương tiện khiến sanh. Pháp thiện đã sanh, tìm cầu phương tiện khiến tăng nhiều,
không để thoái thất, tu hành đầy đủ, tâm ý không quên.” Trong kinh này tuy
ngoài hình thức lời dạy có khác, nhưng về ý nghĩa thì cũng như các kinh trên nhằm
lọai bỏ trước hết là ba nghiệp ác của thân khẩu ý trong tác nhân trực tiếp sinh
ra quả khổ cho tương lai gần và xa theo nhân quả nhị nguyên và, mặc khác hòan
thành tác nhân thiện cũng thuộc ba nghiệp thân khẩu ý trong việc hoàn thành quả
vui gần hay xa trong tương lai dành cho những căn cơ còn lệ thuộc vào ba cõi
sáu đường luân hồi sinh tử. Ở đây đức Phật cũng đặt nặng vấn đề cần thiết của mọi
sự nổ lực tinh cần đoạn trừ pháp ác bất thiện không cho sinh, nếu lỡ đã phát
sinh rồi thì vẫn phải nổ lực ăn năn hối lỗi không tái phạm lại nữa, và canh giữ
cái tâm của hành giả trong mọi ý nghĩ mọi hành động một các liên tục trong việc
làm thanh tịnh hóa ba nghiệp ác và, hòan thành ba thiện nghiệp một cách đầy đủ
cũng qua ba nghiệp thân khẩu ý.
Cũng theo Tăng nhất A-hàm 18 thì bốn chánh đọan nếu tu ập thực hành
đầy đủ thì tâm ý không quên; tức là trong ý lúc nào cũng nhất quyết thực hành
việc đoạn trừ ác pháp và thực hành thiện pháp. Cho nên gọi Tú ý đọan. Ngoài ra
đối với trong ba nghiệp thân khẩu ý nó rất cần mọi sự nổ lực siêng năng đọan trừ
trong việc chỉ ác hành thiện. Như vậy Tứ chánh đoạn là tối thắng. cho nên nó
cũng được gọi là Tứ chánh thắng.
Và cũng như ý nghĩa của các kinh trên, nhưng tiến lên một bậc nữa,
đức Phật theo căn cơ của môn hạ mình dạy về bốn pháp này chi tiết hơn như trong
kinh Tạp A-hàm 31 thuộc Hán tạng, tham chiếu S. 49.1-12. Gaṅgā-peyyāla, tương
đương Cf. D. 33. Saṅgīti, của Pāli.thì bốn chánh đoạn này được đức Phật dạy và
có những cách đặt tên cho bốn hình thức này cùng mỗi ý nghĩa của chúng định
nghĩa khác nhau trên hình thức khi Ngài dạy cho các đồ đệ của mình từ kinh
875-879. Trong năm kinh này về hình thức tên gọi của bốn chánh đọan này là nhật
thống, nhưng trên mặt nhận thức và định nghĩa thì có khác nhau về mặt triển
khai chi tiết và đi sâu hơn những kinh mà chúng tôi vừa đề cập đến.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Có bốn Chánh đoạn. Những gì là bốn? Một là đoạn đoạn, hai là
luật nghi đoạn, ba là tùy hộ đoạn, bốn là tu đoạn.”
“Thế nào là đoạn
đoạn? Tỳ-kheo, pháp ác bất thiện đã khởi thì đoạn trừ, khởi dục, phương tiện,
tinh cần, nhiếp tâm gìn giữ. Đó gọi là đoạn đoạn.
“Thế nào là luật
nghi đoạn? Pháp ác bất thiện chưa khởi thì không cho khởi, khởi dục, phương tiện,
tinh cần, nhiếp tâm gìn giữ. Đó gọi là luật nghi đoạn.
“Thế nào là tùy hộ
đoạn? Pháp thiện chưa sanh thì khiến cho sanh khởi, khởi dục, phương tiện, tinh
cần, nhiếp tâm gìn giữ. Đó gọi là tùy hộ đoạn.
“Thế nào là tu đoạn?
Pháp thiện đã khởi, khiến tu tập thêm ích lợi, khởi dục, phương tiện, tinh cần,
nhiếp tâm gìn giữ. Đó gọi là tu đoạn.” Ở hình thức này tuy đức Phật có đặt cho bốn chánh đoạn này mỗi pháp
một tên riêng và, cũng theo đó mà ý nghĩa của chúng được xác lập theo ý nghĩa
tên gọi của chúng.
Tóm lại, qua Tứ chánh đoạn này, hành giả nếu tu tập trong hiện quán
theo chỉ ác hành thiện thì quả vị của các bậc Thánh đang nằm trong tầm tay của
mọi hành giả qua việc thanh tịnh hóa ba nghiệp thân khẩu ý. Đây là một phương
pháp không có gì gọi là khó khăn cho lắm nếu hành giả nổ lực siêng năng tinh tấn
trong việc kiểm sóat ý nghĩ, hành động của mình một các miên mật để đọan trừ mọi
thứ tạp nhiễm của vọng và, làm chủ được ý nghĩa và hành động của chúng ta trong
việc chỉ ác hành thiện. Vì vậy cho nên Kinh Tứ chánh đoạn này được đức Phật liệt
kê vào một trong bảy hành pháp của Ba mươi bảy phẩm trợ đạo cần thiết dành cho
những hành giả muốn đi vào con đường Thánh đạo thật sự.
Nguồn internet