I. Định Nghĩa
Giáo lý Phật giáo khẳng định rằng: Muốn thấu triệt một sự vật hiện
tượng nào, nhất thiết phải dùng phương pháp quán niệm. Không có quán niệm thì
không thể đánh giá được sự vật chân thật, khách quan được. Quán là dùng trí tuệ
để tư duy, soi rọi và phân tích đối tượng, để thấu triệt được bản chất sự vật.
Niệm được hiểu một cách đơn giản là nhớ nghĩ đến đối tượng để thực hiện một quá
trình quán sát, tư duy. Ở giai đoạn sơ khởi thì niệm là tiền đề cho quán. Nếu
không có niệm thì quán không thể xảy ra. Niệm còn có nghĩa là ký ức lưu giữ đối
tượng sau khi quán. Nếu đối tượng cho ta một kết quả tích cực, lợi ích cho việc
tu tập dẫn đến giác ngộ, thì ta dùng niệm để nhớ nghĩ mà hành trì. Trong giáo
lý Tứ Diệu Đế, Bốn đề mục quán niệm được Thế Tôn tuyên giảng ở phần Đạo Đế. Trước
hết, đây là một pháp môn tu tập quân bình về chỉ và quán.
Gồm có:
1. Quán niệm về thân
2. Quán niệm về thọ
3. Quán niệm về tâm
4. Quán niệm về pháp.
Theo dõi về sự có mặt của thân, các cảm thọ, tâm thức và các pháp,
đây gọi là thiền chỉ. Đi sâu vào quán tánh sanh diệt để thấy được bản chất của
chúng, đây gọi là thiền quán.
II. Nội Dung Bốn Đề Mục Quán Niệm
1. Quán Niệm Về Thân
Quán niệm về thân có nghĩa là thực hành thiền định về thân. Thực
hành phép quán niệm này để ý thức được về sự bình yên, thanh thản trong cuộc sống
hiện tại, để thực hành nếp sống oai nghi và để thấy được mặt trái của thân
này.
a/ Quán thân thông qua hơi thở
Đây là hình thức quán sổ tức (đếm hơi thở). Tuy nhiên, quán thân
thông qua hơi thở không chỉ có đếm hơi thở mà còn phải theo dõi hơi thở vào,
hơi thở ra dài ngắn như thế nào và biết rõ như vậy. Nói cách khác, lúc ấy ta
đang ý thức và nhận biết chính mình. Hơi thở đối với sự sống con người là tối
quan trọng. Con người có thể nhịn ăn, nhịn uống trong một thời gian dài, nhưng
mạng sống sẽ kết thúc nếu thiếu thở trong vài phút đồng hồ. Trong kinh Tứ thập
nhị chương, Đức Phật hỏi các vị Sa môn: Mạng người sống được bao lâu? Vị thứ nhất
trả lời trong vài ngày. Vị thứ hai trả lời trong một bữa ăn. Phật bảo hai vị ấy
chưa hiểu đạo. Vị thứ ba trả lời mạng sống trong chừng hơi thở. Phật khen vị ấy
là người hiểu đạo. Chúng ta thở suốt ngày suốt đêm, nhưng ít khi chúng ta nắm bắt
được hơi thở của mình. Chúng ta quá bận bịu lo cho cái ăn cái mặc mà quên đi
tính diệu dụng của hơi thở. Chúng ta chưa quan tâm hơi thở cho buồng phổi và
trái tim của chúng ta. Khi lo lắng, cáu giận làm cho tim đập nhanh, phổi khó hấp
thu không khí, thì chính lúc này việc nắm bắt hơi thở là hết sức quan trọng,
giúp ta lấy lại trạng thái bình tĩnh của tâm và điều hòa của thân. Khi hơi thở
và thân thể được điều hòa thì trạng thái an tịnh của thân sẽ sanh khởi.
Thật ra, việc hít vào thở ra sâu cạn chưa phải là điều quan trọng.
Điều quan trọng hơn cả là ta có ý thức được trong khi thở. Phật dạy khi hít vào
thở ra ta phải ý thức theo dõi hơi thở ấy. Hơi thở ra dài, ngắn thì phải biết
là dài, ngắn thật sáng suốt và tỉnh táo. Ngày nay trong cuộc sống văn minh hiện
đại, con người hoạt động như con thoi trong khung cửi. Con người có thể thực tập
phép quán niệm hơi thở để đem lại sức khỏe cũng như năng suất công việc. Ở mức
độ cao hơn, nó giúp hoàn thiện và phát triển trí lực.
b/ Quán thân thông qua các cử chỉ hoạt động
Đây là hình thức quán thân thông qua đi, đứng, ngồi, nằm, các hoạt
động khác của thân, nhằm kiểm soát hoạt động của thân bằng chánh niệm. Có nghĩa
là dùng chánh kiến để duy trì và phát huy chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.
Thật ra, ý nghĩa của việc quán niệm là nhằm tập trung tư tưởng để
sanh khởi ý thức. Đức Phật khuyến cáo người Tu Đạo phải ý thức trong từng hành
động dù nhỏ nhặt nhất. Cũng như ý thức về hơi thở, khi đi ta biết mình đang đi,
khi đứng biết mình đang đứng,... Biết như vậy để cảm nhận hành động được trọn vẹn
trong giây phút hiện tại. Sống như vậy là sống trong chánh niệm, sống trong tỉnh
thức và trong an lạc. Ý thức về bước đi của mình để thấy rằng ta đang đi giữa đất
trời mây nước, với cỏ cây hoa lá chim muông,... Mỗi bước đi của ta đang hòa với
cảnh vật, không gian và thời gian, hòa với cả vũ trụ bao la, và vũ trụ bao la
đang có mặt trong mỗi bước đi của mình. Ý thức rằng lời nói ta đang nói có mặt
của tham lam, sân hận hay không. Bởi vì ngôn từ mà ta nói ra đều hàm chứa những
tâm tư, suy nghĩ của mình. Trong cuộc sống, đôi lúc chúng ta không có đủ bản
lĩnh để ý thức và kiểm nghiệm về mình. Cuối cùng ta chỉ có ý thức về sự nông nổi,
và cuộc sống bị đánh mất trong giây phút hiện tại.
Thường thì trong cuộc sống, chúng ta bị chi phối bởi quá khứ và
tương lai. Do vậy, ta không thưởng thức được hạnh phúc hiện tại. Hãy nhìn một
người đang ngồi trong giảng đường nghe pháp, nhưng tâm người ấy đang nghĩ đến số
tiền cho vay chưa lấy lại được và đang tìm cách lấy lại trong một ngày gần đây.
Thử hỏi người ấy có cảm nhận trọn vẹn nguồn pháp lạc hay đang vun đắp cho một mối
lo toan sầu não? Do vậy, ý nghĩa thật sự của việc tỉnh thức đối với hoạt động của
thân là sống với hành động hiện tại. Khi ta ý thức, tỉnh táo trước một hành động
thì có hai khả năng xảy ra: hoặc ta đang đắm mình trong hành động, sống với
hành động mà không nghĩ gì khác ngoài chánh niệm, giác tỉnh, không thấy mình
trong hành động thì ngay đó đã là một kết quả tốt đẹp rồi. Hoặc là ta tự ý thức
đến cái "tôi" trong hành động, tức tư duy hữu ngã gắn liền với hành động.
Như vậy, ý thức về hành động của thân để nhiệt tâm tinh cần thì đó là ý nghĩa
đích thực của chánh niệm tỉnh giác. Còn khi ý thức ta đang hành động gắn liền với
cái "tôi" thì đó là bước đầu quay về với sự tự chủ trong dòng vận
hành của tự thân.
Như vậy, quán thân thông qua các hành động nhằm giúp ta kiểm soát
hoạt động của thân bằng chánh niệm, để thực tập oai nghi chánh hạnh, đưa ta trở
về sống với hiện tại; xa lìa lối sống tìm cầu hạnh phúc bằng tưởng tượng, bằng
mong cầu và bằng hồi tưởng.
c/ Quán thân bất tịnh qua các bộ phận sai biệt cấu thành
Bình thường ta ít khi để ý đến thân thể của mình một cách chi tiết.
Ta chỉ quan tâm nó về những nhu cầu như ăn uống, ngủ nghỉ,... làm thế nào cho
có sức khỏe, cho thân hình cân đối đẹp đẽ. Ta tự hào và trân quí thân ta, vì dưới
con mắt mọi người ta có được một thân thể đẹp đẽ, nhan sắc,... Ta nâng niu,
nuôi dưỡng và bảo vệ nó tối đa. Ngược lại ta thật khổ đau và hổ thẹn khi ta có
một khuyết tật nào đó trên thân như mắt lé, mũi tẹt,... ta cảm thấy khổ tâm khi
đối diện với mọi người.
Thế nhưng dù đẹp hay xấu, thân này vẫn là bất tịnh, là duyên sinh,
vô thường, vô ngã. Trong quan điểm truyền thống của Phật giáo, thân con người
là do tứ đại hợp thành, tức bốn yếu tố: đất, nước, gió, lửa, hay còn gọi là bốn
giới: địa giới là chất rắn (xương, thịt), thủy giới là chất lỏng (máu, mủ...),
hỏa giới là sức nóng (nhiệt độ), phong giới là sức động (hơi thở).
Trong kinh Niệm xứ (Trung Bộ I), Đức Phật đã dạy phương pháp quán
sát thân tứ đại như sau: quán từ lòng bàn chân lên đến đỉnh tóc được bọc bởi lớp
da và chứa đầy những thứ sai biệt bất tịnh. Không những thế, thân này bất tịnh
ngay khi còn nằm trong bụng mẹ, hấp thụ huyết khí mà sống. Sự bất tịnh và tính
giả hợp của thân này càng được biểu lộ rõ hơn, mạnh mẽ hơn khi ta quán một thi
thể quăng ngoài nghĩa địa. Bước thứ nhất là quán thi thể trương phồng lên, thối
rữa ra. Bước thứ hai quán thi thể ấy bị các loài chim và côn trùng ăn thịt. Bước
thứ ba quán thi thể ấy chỉ còn lại bộ xương kết dính với nhau nhờ vào các sợi
gân. Bước thứ tư là quán thi thể ấy chỉ còn lại các đốt xương trắng rời rạc,
theo thời gian tan hoại thành bột trắng. Trong khi quán niệm như vậy, người Tu
Đạo biết rõ rằng: "Thân này tính chất là như vậy, bản tánh là như vậy,
không vượt khỏi tánh ấy". Đấy là lời khẳng định chắc thật của Thế Tôn.
Thân này chịu sự chi phối của sanh, già, bệnh, chết. Thời gian trôi qua thì mạng
sống cũng giảm dần. Một thân thể mà ta yêu chuộng ngày nào giờ đây chỉ còn lại
đống tro tàn nguội lạnh. Xấu đẹp, giàu nghèo, sang hèn,... đều như thế cả.
Tuy nhiên, quán thân là bất tịnh, là vô thường không có nghĩa là ta
bi quan về nó, bỏ rơi hay hủy diệt nó. Đức Phật không cho phép người Tu Đạo bi
quan về bất cứ một điều gì trong cuộc sống. Nếu chúng ta thấy được mặt trái của
thân mà bi quan, tức chúng ta tự hủy hoại thân mình. Đó là đi ngược lại lý tưởng
cao đẹp của Thế Tôn.
Bởi lẽ, mục đích của quán thân bất tịnh là nhằm đưa con người vượt
khỏi những vướng mắc, qụy lụy đau khổ chấp trước vào thân này. Quán như vậy nhằm
để đối trị lòng ham muốn sắc dục.
Tóm lại, quán thân có thể được hiểu trên hai mặt: quán phần thô và
quán phần tế. Phần thô là quán các hoạt động bên ngoài của thân như đi, đứng,
ngồi, nằm,... Phần tế là quán thân này do tứ đại hợp thành, được kết cấu với
nhau qua các thứ bất tịnh.
2. Quán Niệm Về Thọ
a/ Thọ là gì?
Thọ là nói tắt của cảm thọ. Khi nhận lấy một vật gì, hay chấp nhận
một điều gì thì gọi là thọ. Thọ gồm có thân thọ và tâm thọ. Hai mặt này tương
tác với nhau. Có thể thân thọ mà tâm không thọ, hoặc thân và tâm đồng cảm thọ.
Từ ý này, ta có nội dung của thọ gồm có ba trạng thái: lạc thọ là tâm lý hưng
khởi sung sướng, thích thú trước đối tượng. Khổ thọ là trạng thái tâm lý khổ
não, buồn chán,... Bất khổ bất lạc thọ là tâm lý trung dung, không thiên lệch về
phía lạc cũng như về phía khổ. Ta có thể hiểu rằng: lạc thọ và khổ thọ là tâm
lý chủ quan, bất khổ bất lạc thọ là tâm lý khách quan.
Cảm thọ là cơ sở không thể thiếu được trong việc hình thành tâm thức
của con người. Do vậy, quán niệm về cảm thọ chính là khảo sát tâm lý con người.
b/ Nội dung của quán niệm về thọ
Để cảm thọ có mặt, điều tất yếu phải hội đủ ba yếu tố: nội căn, ngoại
trần và xúc. Kinh Tương Ưng III, Đức Phật dạy rõ: "Thọ do nhãn xúc sanh,
thọ do nhĩ xúc sanh,... thọ do ý xúc sanh. Do xúc sanh khởi nên thọ sanh khởi,
do xúc đoạn diệt nên thọ đoạn diệt". Sáu xúc xứ là những ấn tượng về tình
cảm liên hệ mật thiết với tất cả nhận thức của sáu giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân và ý khi đối diện với sáu cảnh trần tương ứng: sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp.
Cơ sở của những cảm thọ khổ, vui, trung tính là gì? Đức Phật dạy:
"Này các Tỳ kheo, do duyên tiếp xúc với lạc nên lạc thọ khởi. Do duyên tiếp
xúc với khổ nên khổ thọ khởi. Do duyên tiếp xúc với bất khổ bất lạc nên bất khổ
bất lạc thọ khởi" (theo kinh Trung Bộ III, số 140). Và làm thế nào để nhận
diện được thọ? Đó là phải có mặt của ý thức. Khi căn và trần duyên nhau, nếu
không có ý thức về nó thì sẽ không có cảm tưởng về lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ
bất lạc thọ. Khi ta nhìn vào một bông hoa thì có hai khả năng xảy ra: hoặc có sự
đánh giá xấu đẹp, hoặc không có một sự đánh giá nào. Nếu ý thức được bông hoa đẹp,
có hương thơm,... thì cảm giác lạc thọ sẽ sanh khởi. Nếu bông hoa có những điểm
dị ứng với ta thì ta cảm thấy khó chịu, khi đó cảm giác khổ thọ sanh khởi. Còn
khi nhìn bông hoa ta vẫn cảm nhận được sắc đẹp, hương thơm hoặc những dị ứng
khó chịu, nhưng ta không bận tâm về nó, không thích thú cũng không buồn chán.
Đó là trạng thái tâm lý không khổ không vui sanh khởi. Đức Phật khẳng định:
"Khi thức được trong sạch, trong trắng, vị ấy biết được một số sự việc nhờ
thức ấy. Vị ấy thức tri được lạc, được khổ, được bất lạc bất khổ".
Chúng ta thọ những gì và tại sao nói thọ là khổ? Cả ba trạng thái lạc
thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ có thể thuộc về vật chất, có thể không thuộc
về vật chất; thuộc về nội thọ hay thuộc về ngoại thọ. Ta thọ nhận cái thân này
là của ta, là ta. Muốn thân này tồn tại và đẹp đẽ, ta thọ nhận thực phẩm và y
phục, những nhu cầu trang bị cho cuộc sống; và luôn có khuynh hướng muốn thọ
nhiều hơn để chứng tỏ "cái ta" với cuộc đời. Thọ càng nhiều chúng ta
càng thấy hạnh phúc, nhưng thực ra sự đau khổ luôn có mặt cùng niềm hạnh phúc.
Con người luôn lo sợ cái thân này chết sớm không thọ hưởng được của cải vật chất
đã tạo ra. Đồng thời họ luôn lo sợ của cải bị đánh cắp và thật khổ đau khi điều
ấy xảy ra. Khi sa cơ lỡ vận trở nên trắng tay con người lại càng đau khổ, cuộc
đời đối với họ bây giờ là một bờ vực thẳm. Đó là nỗi khổ của những lạc thọ thuộc
vật chất. Cảm thọ tiền tài, danh vọng địa vị, tiếng khen, lời chê, lòng tham,
sân hận, lòng yêu thương của người,... là những cảm thọ không thuộc vật chất.
Khi sáu căn duyên sáu trần sinh ra cảm thọ thì đây thuộc về ngoại thọ. Cảm thọ
về các trạng thái thiền lạc gọi là nội thọ. Chung qui dù cảm thọ thuộc vật chất
hay không vật chất đều do tâm bị ràng buộc trong ngũ dục: tài, sắc, danh, thực,
thùy tức các ham muốn về tiền bạc (của cải), sắc đẹp, danh vọng (địa vị), ăn
ngon, ngủ kỹ. Tuy nhiên, cảm thọ đưa đến khổ đau hay an lạc tùy thuộc rất nhiều
vào mức độ giác ngộ của chúng ta. Đối với người Tu Đạo có tu tập, có trí tuệ
quán chiếu thì luôn làm chủ được tâm mình trước những cảm thọ. Biết cảm giác ấy
là vô thường và sẽ dễ bị trói buộc bởi cảm giác ấy, người Tu Đạo không nhận cảm
thọ ấy bằng dục vọng. Sống trong lạc thọ nhưng không hệ lụy, sống trong khổ thọ
nhưng không khổ đau cùng cực vì có quán sát và liễu tri được bản chất của
chúng.
3. Quán Niệm Về Tâm
a/ Tâm là gì?
Khi bàn về tâm là bàn đến một vấn đề phức tạp bởi vì khó mà định
nghĩa tâm như thế nào. Ta không thể nói tâm là... như nói đến một sự vật cụ thể.
Vì lẽ, nói đến con người là nói đến hoạt động của thân và tâm. Hoạt động của
thân thuộc phần thô, hoạt động của tâm thuộc phần tế. Tuy thế, ta vẫn nắm bắt
và nhận diện được nó. Ta vẫn thường nghe nói đến tâm qua các khái niệm: tâm thiện,
tâm ác, tâm ích kỷ, tâm tham, tâm sân,... Tất cả đều là những biểu hiện của tâm
trong đời sống. Trong cùng một thời điểm không thể có hai niệm đồng tồn tại.
Tâm thiện đang hoạt động thì vắng mặt tâm ác, tâm tham hoạt động thì vắng mặt
tâm bố thí (tâm từ)...
b/ Nội dung của quán niệm về tâm
Quán tâm tức là ta đang dùng tâm để quán tâm, ngay trong bản thân của
tâm mà không phải quán sát một đối tượng nào khác ngoài tâm. Tức là ta đang ý
thức về tâm mình để thấy được sự có mặt và hoạt động của nó. Như đã đề cập, con
người năm uẩn được chia làm hai phần thân và tâm. Thân thuộc về sắc, và tâm
chính là thọ, tưởng, hành, thức. Thân và tâm có một sự liên hệ mật thiết với
nhau. Thân là cơ sở hoạt động của tâm và tâm mượn thân để biểu hiện. Tâm là vô
hình nhưng nó có những đặc tính của thân. Nó có thể xúc chạm được (giao cảm),
nó cũng có cảm giác đau khổ và an tịnh. Vì vậy mà con người luôn tồn tại một
căn bệnh trầm kha khó chữa: tâm bệnh. Thân bệnh là do năm căn bất hòa (thiếu
ăn, thiếu uống, thiếu thuốc men,...). Tâm bệnh thì có nhiều nguyên nhân, nhưng
nguyên nhân chính là do tham, sân, si: những vi trùng gây bệnh. Tham về của cải
vật chất, địa vị, tình cảm,... Tham không được thì sân hận, khổ đau sầu não mà
sinh ra bệnh. Và thân bệnh có thể đưa đến tâm bệnh và ngược lại. Có khi thân bệnh
nhưng tâm không bệnh, và có khi tâm bệnh đưa đến thân bệnh.
Tâm chúng ta không cố định tại một chỗ nào cả, mà nó thường xuyên
biến chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác, tùy theo điều kiện khách
quan hay chủ quan của chủ thể và đối tượng. Trong Phật giáo, tâm thường được ví
như con vượn leo cây, chuyền từ cành này sang cành khác suốt ngày. Niệm trước
như vậy niệm sau đã khác, sanh diệt liên tục như dòng thác đổ. Hôm nay yêu
thương người hết mực, ngày mai lại ghét bỏ. Tâm là do nhân duyên sanh diệt. Do
vậy, tâm không phải là một thực thể tồn tại độc lập. Trên cơ sở đó, tâm không
có cái ngã của nó. Tâm sanh là do sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Bản thân của
các yếu tố này cũng do duyên sinh, vô thường, vô ngã. Cho nên tâm cũng vô thường,
vô ngã. Đức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, chấp tâm thức là thường còn, còn
sai lầm và tệ hại hơn là chấp thân xác là thường còn. Vì thân xác người còn có
thể tồn tại vài chục năm cho tới một trăm năm, còn tâm thức của người thì sanh
diệt đổi thay trong từng giây phút" (Tạp A Hàm, T.II). Thật nguy hiểm khi
chấp rằng tâm là thường còn, là bất biến. Nếu chấp như vậy thì cuộc đời này quả
là một xã hội bất bình đẳng và mãi mãi rối loạn, băng hoại. Vì nhân tâm con người
không thể thay đổi được. Vai trò của giáo dục, đạo đức sẽ không có giá trị. Người
tham vẫn cứ tham, người sân vẫn cứ sân. Không có quá trình tu tập đi đến giác
ngộ giải thoát. Chúng ta biết rằng nghiệp là do tâm tạo, mà đã chấp tâm là thường
thì làm sao chuyển đổi được nghiệp. Như vậy, trầm luân vẫn cứ trầm luân, không
thể khai phóng trí tuệ để đi vào giác ngộ.
4. Quán Niệm Về Pháp
a/ Pháp là gì?
Chữ "pháp" không có nghĩa giới hạn ở những sự vật cụ thể
thuộc về thế giới vật chất không tri giác. Theo giáo lý đạo Phật, chữ pháp được
hiểu với ý nghĩa rộng rãi, bao hàm cả vũ trụ và nhân sinh, vật chất và tinh thần,
tâm lý và vật lý. Pháp được chia làm hai nhóm: sắc pháp và tâm pháp. Sắc pháp
có hình chất gây trở ngại và không có tri giác; như cái bàn, cái cây, ly nước,...
Tâm pháp là pháp không có hình tướng, không thể nhìn thấy được, nhưng có tri
giác. Ở đây, con người hội đủ hai pháp ấy. Đó chính là con người ngũ uẩn: sắc,
thọ, tưởng, hành và thức. Sắc pháp là sắc trong 5 uẩn (thân thể vật lý). Tâm
pháp là thọ, tưởng, hành, thức; là thế giới tâm thức nội tại mà tác dụng của nó
là suy lường, tư lự,... để biểu hiện các trạng thái tâm lý buồn, vui,... Ví dụ
sự dao động của tâm khi hoạt động của năm Triền cái và năm Thiền chi (1),
hay hoạt động của Thất giác chi (2).
b/ Nội dung của quán niệm về pháp
Con người là đối tượng để thực hành quán niệm pháp. Vì nó hợp đủ sắc
pháp và tâm pháp. Người Tu Đạo quán chiếu thân ngũ uẩn để ý thức được mối liên
hệ giữa bản thân và vũ trụ vạn hữu. Nếu không có vũ trụ thì hợp thể ngũ uẩn này
không có được. Từ thực tính này ta càng thấy rõ về ý nghĩa vô ngã của các pháp.
Trong các kinh, luận của Phật giáo Phát triển, vô ngã bao gồm pháp
vô ngã và nhân vô ngã, hay sắc pháp vô ngã và tâm pháp vô ngã. Ở đây sắc pháp
được chỉ chung cho thân người và các pháp ngoại giới. Sắc pháp và tâm pháp đều
nương vào nhân duyên mà thành nên chúng là hư vọng. Kinh Lăng Nghiêm dạy:
"Nhân duyên hòa hợp hư vọng hữu sanh, nhân duyên ly tán hư vọng hữu diệt".
Khi nhìn vào cốc nước chanh, nó không có tự ngã của nó. Vì nó không phải là một
thực thể độc lập, mà nó chỉ có mặt trong mối tương quan duyên khởi: nào là nước,
nào là đường, là chanh,... Tâm của ta cũng vậy, nó tùy thuộc vào nội căn ngoại
cảnh, vào xúc, thọ, tưởng, hành, thức. Khi chủ thể nhận thức và đối tượng nhận
thức đều duyên sinh vô ngã thì còn một cái ngã nào để tồn tại mà chấp trước.
Cần nói thêm rằng, thân và tâm chỉ tồn tại trong một thời gian nào
đó rồi theo qui luật sinh, thành, hoại, diệt mà mất đi. Thân không thể tồn tại
ngoài tâm, tâm không thể tồn tại ngoài thân. Cũng như sắc không thể tồn tại
ngoài thọ, tưởng, hành, thức. Do vậy, Phật giáo không chấp nhận một linh hồn
trường cửu sau khi sắc thân hủy diệt. Sở dĩ có một tư tưởng về một linh hồn trường
cửu và xem đó là ngã, là do khẳng định tính tự tồn của con người theo thời gian
vô tận. Ý tưởng về một linh hồn, ngã như vậy, theo Phật giáo là thật sai lầm và
trống rỗng. Đó chỉ là một khái niệm vọng tưởng của tâm thức sai lạc không thể
có mặt trong thực tại.
III. Ý Nghĩa Nhất Quán Và Lợi Ích Thiết Thực Khi Tu Tập Bốn Đề Mục
Quán Niệm
Khi chọn Bốn đề mục quán niệm để tu tập, chính là tu tập tự thân. Bởi
vì giải thoát sanh tử luân hồi cho con người là mục tiêu chính mà Đức Phật nhắm
vào cuộc đời này. Hiểu được chính mình thì hiểu được tha nhân và vạn hữu. Thấy
được nhân duyên sanh diệt, vô thường, vô ngã trong con người thì thấy được các
pháp khác cũng như thế.
Tính vô thường nơi con người là ấn tượng mạnh mẽ nhất làm ta thức tỉnh.
Một con vật hay một cây xanh chết không đủ sức mạnh cho ta giác tỉnh bằng chính
bản thân con người. Trong quá trình quán niệm các đề mục ấy, ta thấy chúng có
chung một đặc điểm về mặt bản thể đó là tính nhân duyên sanh diệt, vô thường,
vô ngã. Đó cũng là đặc tính chung cho tất cả các pháp hữu vi (3). Thật ra,
nói quán thân bất tịnh, quán tâm vô thường chỉ là một cách nói để làm nổi bật
lên đặc điểm biểu hiện rõ nét nhất của chúng mà thôi. Ví dụ thân bất tịnh thì rất
dễ nhận diện. Thân bất tịnh là chính nó bất tịnh. Còn tâm vô thường thì vi tế
hơn.
Do vậy, pháp quán niệm này trước hết là đưa thân và tâm trở về sống
với giây phút hiện tại. Xua đuổi quên lãng và phân tán để duy trì chánh niệm và
duy trì sự sống. Bốn đề mục quán niệm là giáo lý thực tiễn được rút ra từ những
thể nghiệm thiết thân trong đời sống. Đó cũng là yếu lý trong giáo lý đạo Phật:
không tách rời cuộc sống, mà liên hệ mật thiết với đời sống. Khi quán niệm về
thân là quán niệm về phương diện vật lý, tức là thấy được sự tổng hợp các yếu tố
vật chất cụ thể tạo nên thân người và thấy được sự bất tịnh của thân khi còn sống
cũng như khi chết nhằm đối trị lòng ham muốn sắc dục. Quán niệm về cảm thọ và
tâm thức là quán niệm trên phương diện tâm lý, tức là thấy được sự sanh khởi và
sự biến chuyển vô thường của tâm, nhằm để hiểu biết tâm và làm tâm thanh tịnh.
Quán niệm về pháp để thấy tính vô ngã mà xa rời chấp trước. Bát Nhã Tâm kinh dạy:
"Khi Bồ tát Quán Thế Âm quán chiếu về hợp thể ngũ uẩn và phát hiện ra cái
trống rỗng của tự ngã thì Ngài vượt qua tất cả mọi khổ đau ách nạn". Khi sự
thăng trầm và tính cách vô thường của vạn hữu không chi phối đời sống tâm linh
nội tại thì ta vượt qua được khổ đau như Bồ tát Quán Âm vậy.
Đức Phật đã khẳng định lợi ích của việc tu tập Bốn niệm xứ này:
"Đây là con đường duy nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu
não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết bàn" (Kinh Niệm
xứ, Trung Bộ I).
IV. Kết luận
Đối với cuộc sống thực tại, nếu Bốn đề mục quán niệm được tu tập
thì con người sẽ phần nào vượt qua được những chướng ngại liên hệ đến thân và
tâm. Tập khí thế gian khiến con người khó có thể vượt qua những căn bệnh tâm
sinh lý được xem như là bản năng tiềm ẩn. Con người luôn có chiều hướng sống
trong dục vọng, khát ái. Khi bản năng không được giáo dục thì khổ đau vẫn còn
chồng chất. Hướng giáo dục của Bốn đề mục quán niệm lấy tự tâm và tự thân làm
cơ sở. Dù được giáo dục qua Bốn đề mục quán niệm, thấy rõ bản chất con người và
sự vật là như vậy, thấy được sự tác hại khi đắm trước, thấy được lợi ích khi xuất
ly, nhưng thông thường chúng ta chưa có đủ bản lĩnh để tự chủ và giới hạn mình
trước sức mạnh của lòng ham muốn. Đó là do chúng ta chỉ mới hiểu vấn đề mà chưa
thực sự hành trì. Cần chú ý rằng, người học Phật khác với người tu Phật. Học Phật
chỉ để làm giàu kiến thức Phật học, thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu, là người chỉ mới
đứng ngoài ngõ mà chưa vào trong nhà. Người học Phật lại vừa tu Phật mới chính
là người thực sự sống và hành trì theo chánh pháp. Chính những người này mới có
được hạnh phúc lâu dài, thành tựu đạo hạnh và có khả năng chứng ngộ. Cái hiểu
chưa phải là vốn sống thực sự của người cầu đạo. Hành trì mới là vốn sống, là cốt
lõi của người Tu Đạo trên bước đường tìm về giải thoát.
Chú thích
(1) Năm triền cái: là năm sự ngăn che trí tuệ, là chướng ngại cho
việc tu tập thiền định gồm: tham dục, sân hận, hôn trầm (thụy miên), trạo cử,
nghi.
Năm thiền chi: có bản chất ngược lại với năm triền cái. Chúng là những
yếu tố nhiếp phục năm triền cái để đưa tâm vào định. Gồm: tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất
tâm.
(2) Thất giác chi (còn gọi là Thất Bồ Đề phần): là bảy phương tiện
đưa đến giác ngộ, gồm: trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, niệm, định, xả.
(3) Pháp hữu vi: các pháp sinh ra do nhân duyên tạo tác, đối lại với
pháp vô vi là không do nhân duyên tạo tác, đó là chân như, Phật tánh.
Nguồn internet