HỎI: Pháp Danh bắt đầu
bằng họ Thích có ở Việt Nam từ bao giờ: Chúng tôi là một nhóm e-mail thường
trao đổi nhau về những kinh sách và lời Phật dạy. Hầu hết anh chị em trong nhóm
đều là Phật tử. Chúng tôi có cái thắc mắc mà không ai giải đáp được, đó là Pháp
danh bắt đầu bằng họ của Đức Thế Tôn như HT Thích Thanh Từ, TS Thích Nhất Hạnh,
HT Thích Minh Châu... có ở Việt Nam từ hồi thế kỷ nàọ?
Thí dụ vua Trần Nhân Tôn khi quí y thì
được gọi là Điều Ngự Giác Hoàng và tự xưng là Trúc Lâm Đầu Đà.. Vậy thì vào lúc
đó đã có pháp danh Thích chưa?
TRẢ LỜI: Phật Giáo Việt Nam theo
truyền thống Bắc tông, chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi PG Trung quốc, thế nên việc lấy
họ Thích làm pháp danh cũng là do Phật Giáo Trung quốc truyền sang. Người đầu
tiên trong lịch sử PG Trung Quốc sử dụng pháp danh họ Thích là ngài Đạo An
(312-385), một danh tăng lỗi lạc thời Đông Tấn. Suốt đời Ngài chỉ lo hoằng
dương chánh pháp, đệ tử theo học có đến hàng ngàn người, đều đuợc Ngài ban cho
pháp danh mở đầu bằng họ Thích, vì tự xem mình như là những trưởng tử của Như
Lai (Thích tử), nên Ngài cũng có tên là Thích Đạo An. Trước Ngài, pháp danh của
các Tăng sĩ đều lấy tên quốc gia hay tên của thầy mình để làm họ, ví dụ như sư
phụ của Ngài là Trúc Phật Đồ Trừng (người nước Thiên Trúc). Ban đầu pháp danh của
Ngài lấy theo họ của Thầy là Trúc Đạo An, sau này mới đổi lại là Thích Đạo An.
Chúng tôi mời quý độc giả xem bài dưới đây để biết rõ lai lịch về chữ Thích:
LUẬN GIẢI VỀ CHỮ THÍCH
Gần đây, có nhiều người nêu ra một thắc
mắc khi thấy danh hiệu của các vị Tăng Sĩ đều mở đầu bằng chữ Thích tỷ dụ như
Thích-Tâm-Châu, Thích Tâm Giác, v.v… và do đó nêu lên những câu hỏi:
- Chữ Thích có nghĩa gì?
- Tại sao người tu theo hạnh xuất thế mới
dùng chữ Thích? Người tại gia tu Phật có dùng chữ Thích được không?
- Chữ Thích nếu là một họ thì họ ấy phát
sinh tự đâu, thịnh hành vào thời nào?
với mục đích diễn xướng và luận giải về chân nghĩa những danh từ Phật Giáo, đặng làm tài liệu nhận xét chung, nơi đây đề cập đến từng vấv đề giải đáp để cùng liễu giải và xác luận:
I. Chữ Thích có nghĩa gì?
Theo sự dịnh nghĩa danh tự thông thường
thì chữ Thích có nghĩa: cởi ra, nới ra, giải thích rõ ràng nghĩa sách tỷ dụ như
chữ Thích-Hỗ là giải thích cho rõ nghĩa một chữ, một câu: Thích Huấn là giải
thích cho rõ những lời huấn giáo.
Ngoài ra, chữ Thích lại cũng có nghĩa
buông thả như trong sách có chữ: “Kiên trì bất thích” tức là giữ vững không
buông, và, chữ “Khai thích vô cô” tức là buông tha cho kẻ không tội.
Chữ Thích cũng lại còn có nghĩa tiêu tan
hết những nỗi sân hận trong lòng như giảng câu “Tâm trung vi chi thích nhiên”
phải hiểu rằng trong lòng đã được tiêu tan hết cả phần nào điều sân hận không
còn vướng vấp một chút ân hận, não phiền gì nữa.
Tuy nhiên, chân nghĩa chữ Thích mà các vị
tu hành đặt trước pháp hiệu chỉ có nghĩa đơn thuần là:
a) coi mình là Thích tử, tức là đệ tử của
Phật, bởi theo quan niệm Trung-Hoa từ đời Tấn cho rằng những ai theo đạo của đức
Thích-Ca phải nên lấy theo họ Thích mà chữ Thích tức là họ Thích-Ca cho dễ xưng
hô.
b) một vị tu theo hạnh khoáng nhiên
không vướng mắc phiền não thế cảnh.
Tóm lại thì chữ Thích chư Tăng hay dùng là theo họ Phật Thích-Ca, ngụ kỳ chung còn có ý nghĩa hiểu rành sự lý, tâm hồn buông thả, tiêu hết não phiền, không còn mảy may trần lụy.
II. Tại sao người tu theo hạnh xuất
thế mới dùng chữ Thích? Người tại gia tu phật có dùng chữ Thích được không?
Thật ra, khi Phật giáo truyền qua
Trung-Hoa vào khoảng thời Hán, những vị mặc dầu tu theo đạo Phật, trở thành
Tăng-sĩ có bỏ đi giòng họ thế tục, nhưng thường theo hai điều kiện:
1. Tự đặt cho mình theo họ Trúc có nghĩa
tu theo nguyên tắc tu trì của các bậc Tăng-Già từ Tây-Trúc truyền sang.
2. Hoặc theo họ của bậc Sư-Trưởng đã
truyền giáo cho mình tỷ dụ như Ngài Chi-Tuần nguyên trước họ Quan, nhưng vì thụ
giáo với ngài Chi-Khiêm nên đổi thành họ Chi, ngài Bạch-đạo-Hiển nguyên họ
Phùng nhưng học thầy là Bạch Thi Ly Mật nên đổi thành họ Bạch v.v…như vậy là
khi đạo Phật mới truyền qua Trung-Hoa từ đời Hán, khoảng 25 - 220 T.L. hầu như
theo một tục lệ thông thường như vừa trình bày. Kịp đến thời Đông-Tấn khoảng
317 - 349 T.L. Ngài Đạo-An người Thường-Sơn, tỉnh hà-Bắc, sinh năm
312, xuất gia từ 12 tuổi, học hạnh rất siêu việt đã đề xướng việc cải biến để
những vị tu hạnh xuất-gia theo Phật nên theo họ của Phật, và do đó, những
Tăng-sĩ thụ đại-giới (Giới Tỳ Khưu: 250 giới) lấy theo họ Thích tử.
Viện dẫn lý do này, Ngài Đạo-An nêu ra một
đoạn trong kinh Tăng-Nhất A-Hàm có chép: “Bốn con sông lớn chảy vào bể cả, tự
nó không còn danh tự gốc của con sông mà chỉ có danh tự là “bể cả”. Việc định họ
cho người tu hành cũng như thế. Xưa ở Ấn-Độ có 4 giòng họ là: Sát-Lỵ, Bà-La-Môn,
Trưởng-giả, Cư-sĩ. Đối với những ai gọt bỏ râu tóc, khoác 3 tấm áo pháp như Phật
chế định, nguyện xin xuất gia học đạo thì không còn giữ giòng họ gốc mà chỉ kêu
là: Sa-Môn tức là đệ-tử của đức Phật Thích-Ca mà thôi.
Trong kinh Đại-Bát Nhã xác định rằng:
“Phi sa-Môn, phi Thích-Ca tử” có nghĩa nếu không phải là bậc Sa-Môn tức là bậc
xuất-gia theo Phật thì chưa phải là đệ-tử của đức Thích-Ca.
Bởi những lý do trên, chỉ khi nào
phát nguyện xuất-gia và đã thụ đại-giới mới được xưng là thuộc giòng họ
Thích tức là đệ-tử chính của Phật và sau nầy coi các bậc Tỳ-Khưu là hàng trưởng-tử
của Phật nên được đổi họ thế gian mà lấy theo họ Thích vậy.
III. Chữ Thích nếu là một họ thì họ
ấy phát sinh tự đâu?
Thịnh hành vào thời nào?
Đúng ra họ Thích-ca là họ của đức Phật
mà theo lịch sử là một giòng họ quý tộc trước đó kêu là Sát-Lỵ mà sau đổi ra là
Thích -Ca (Sakya).
Theo kinh điển ghi chép thì 10 vị đại đệ-tử
của Phật như Ma-Ha Ca-Diếp, Mục Kiền Liên, Tu-Bồ-Đề v.v… không dùng họ Thích mà
khi Phật-Giáo truyền qua Trung Hoa tới thời nhà Tấn, Ngài Đạo-An xướng xuất việc
lấy họ Thích làm họ cho người đi xuất-gia, rồi từ sự kiện, chính Ngài theo
phong tục cổ truyền, trước đó theo học với Ngài Trúc-Phật Đồ-Trừng ngài Đạo-An
lấy luôn tên là Trúc Đạo An và sau vì lấy cớ những người đi xuất-gia đều lấy đấng
Thích-Tôn làm gốc, vì thế Ngài đổi tên là Thích-Đạo-An cho đến sau nữa
Ngài Thích-Tuệ-Viễn nối nghiệp thầy mà cũng xưng là Thích-Tuệ-Viễn. Kịp đến thời
nhà Đường, Ngài Tuệ-Năng khi dâng sớ lên Vua Đường Cao -Tôn để xin cáo từ việc
cớ già yếu hay bệnh cũng xưng là Thích-Ca Tuệ-Năng.
Như thế, họ Thích là sự thay đổi của
giòng họ Sát-đế-Lỵ, một giòng họ quý phái thuộc Ấn-Độ, cho đến khi Phật-Giáo
truyền qua Trung-Hoa và thịnh hành từ sau sự khởi xướng của Ngài Đạo-An thời
Đông-Tấn.
Riêng tại Việt-Nam có lẽ cũng chỉ quan
niệm một vị xuất gia theo Phật là thuộc giòng Thích-tử, còn trong sử sách, danh
hiệu các vị Thuyền-sư không mấy khi có thêm chữ Thích, ví dụ như Ngài Cảm-Thành,
Ngài Khuông-Việt, Ngài Viên Chiếu v.v… Cho mãi đến thời gần đây mới có Điều-Ngự-Tử Thích-Mật-Thể,
một vị khởi xướng dùng chữ họ Thích để ký tên trong văn liệu là cuốn Việt-Nam
Phật Giáo Sử Lược ấn hành vào năm 1943 và có thể là một khởi đoan phong
trào lấy họ Thích đối với Tăng chúng Việt-Nam.
Tóm lại, chữ Thích là danh xưng của một
giòng họ y theo giòng họ của đấng Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, có nghĩa theo chữ
Phạn Sakya tức là bậc Năng-nhân tức là một bậc có năng lực phát hiện tấm lòng
nhân từ vô lượng.
Ngoài ra, theo chân nghĩa thế gian thì
chữ Thích cũng có nghĩa khiến lòng mình tiêu tan hết mọi phiền não, một hạnh
quý giá của người tu hành những pháp môn quý giá. Do đó, chỉ những vị nào đã thụ
đại-giới tức là một vị chính thức gia-nhập Thích-Môn mới được coi là hàng Thích-Tử.
Cũng vì thế, những người tại gia cho đến
hàng Sa-Di mà lấy họ Thích là một sự kiện tiếm xưng, và cũng nhân y theo
chân nghĩa luận giải, những vị nào dù có hình tướng xuất-gia mà không
giữ theo giới hạnh của bậc xuất-gia mà dùng chữ Thích cũng là tiếm xưng họ
Phật, bởi những người tu hành mà không giữ giới thì không còn Tăng cách và
không xứng đáng là người Thích-Tử nữa vậy.
Họ Thích rất cao đẹp, nhưng phải được
nêu lên đối với những bậc tu hành chân chính, đầy đủ đức hạnh đáng cho tín đồ củng
phục thì không cần phải xưng họ Thích mà thiên hạ đều tôn là bậc xứng đáng
trong giòng họ Thích-Ca vậy.
Trích: Giải Luận Giáo Lý của tác giả Giác Không do Nha Tuyên Úy Phật Giáo Quân
Lực Việt Nam Cọng Hòa xuất bản năm 1969 tại Sài Gòn.