Thuở Phật còn tại thế, có một thiếu nữ
dáng vẻ mảnh khảnh, ốm yếu, nghèo khổ, sống tại thành Xá Vệ, tên là Kisa (có
nghĩa là cô gái ốm yếu). Khi lớn lên, cô cũng có chồng như bao người con gái
khác; nhưng bị mọi người bên chồng khinh khi, coi thường, vì cô thuộc giai cấp
hạ liệt, thấp kém, ở đợ, làm mướn.
Từ khi đứa con trai đầu lòng ra đời, cuộc
sống của cô bắt đầu thay đổi, cô được mọi người bên chồng đối xử tốt đẹp và quý
mến hơn. Nhưng bất hạnh thay, chẳng được bao lâu, đứa con của cô qua đời vì cơn
bạo bệnh. Đứa con chết làm người con gái ấy gần như điên loạn; dù đau khổ đến tột
cùng, cô vẫn hy vọng sẽ có người cứu được đứa con của mình sống lại, nên ôm xác
con đi tìm thầy cứu chữa.
Nhìn cảnh tượng thảm
não, thất tha thất thểu lê từng bước chân để tìm thuốc cải tử hoàn sinh cho con
mình, mọi người nhìn theo chỉ biết ngậm ngùi, thương tiếc; bởi việc cứu sống đứa
trẻ là điều không thể được mà người con gái ấy vẫn nuôi hy vọng.
Có người vì quá xót thương, nên đã hướng
dẫn cô đến gặp Như Lai Thế Tôn, mong nhờ đức Phật tế độ. Khi đến, cô tha thiết
cầu xin Như Lai Thế Tôn cứu sống cho con mình. Biết được nhân duyên sâu xa, đức
Phật liền hứa sẽ giúp cô cứu sống đứa trẻ. Nghe vậy, lòng cô dâng trào lên niềm
hy vọng vô biên, cô nghĩ con mình chắc chắn được cứu sống.
Chờ cho nhân duyên đã chín mùi, Đức Phật
liền chỉ dạy, “này thiếu nữ, con hãy đến nhà nào chưa từng có người chết xin về
đây cho ta vài hạt cải, ta sẽ cứu sống đứa bé cho con. Tin chắc rằng con mình sẽ
được cứu sống nếu có được vài hạt cải trong một gia đình không có người chết,
cô liền phấn khởi ra đi, trong lòng mừng thầm vô hạn. “Hạt cải nhà nào cũng
có”, cô nghĩ như thế, nên sung sướng đến tột cùng, lòng tràn đầy hy vọng, vì
trong chốc lát đây, con cô sẽ được cứu sống nhờ những hạt cải nhiệm mầu ấy.
Hạt cải thì nhà nào cũng có, nhưng tìm
nó trong một gia đình không có người chết thì quả thật là không thể được. Bởi
vì sao? Vì nhà nào cũng có người chết. Cô thất tha, thất thểu đi hết làng trên
xóm dưới, từ làng này qua xóm nọ, cô đi khắp hang cùng hốc hẻm, nhưng không tìm
ra một gia đình nào không có người chết như yêu cầu của Như Lai Thế Tôn.
Quá thất vọng và mệt mỏi, cô ngã quỵ bên
lề đường, trên tay vẫn còn ôm chặt xác con của mình. Thế là bao nhiêu hy vọng
không còn nữa. Cô nhìn con với lòng trìu mến, dù xác đứa bé đã cứng đờ. Lúc
này, cảm giác rùng rợn cùng với sự thương tâm phủ đầy trong lòng cô; bỗng
nhiên, tâm trí cô loé lên một tia sáng, cô hiểu rằng, trên đời này, ai rồi cũng
sẽ chết, chỉ đến sớm hay muộn mà thôi, đau thương mất mát là một sự thật của kiếp
người, yêu thương mà phải xa lìa đó là một nỗi khổ, niềm đau, có hợp phải có
tan, đó là định luật nhân duyên quả của cuộc đời.
Trong sự đau khổ tột cùng, cô đã nhận
ra, có sinh là có chết, ai rồi cũng phải lần lượt như vậy, chỉ đến sớm hay muộn
mà thôi. Từ nhận thức sáng suốt đó, cô không tìm hạt cải nữa, mà đem xác con
mình vào rừng Thi Lâm (theo phong tục, tập quán Ấn Độ, xác người chết đem bỏ
vào rừng cho thú ăn), rồi thanh thản trở về bạch Phật, “Kính bạch Thế Tôn, con
đã tìm ra hạt cải của sự vô thường rồi, con đã đưa xác đứa bé bỏ vào rừng. Bây
giờ con cảm thấy trong lòng thoải mái và nhẹ nhõm hơn”.
Nhân đó, Đức Phật khai thị đạo lý duyên
sinh trong cuộc sống cho cô nghe, “trên đời này, có sinh là có tử, yêu thương
xa lìa khổ, không có cái gì là cố định cả, tuỳ theo nhân duyên, tuỳ theo điều
kiện mà nó đổi thay sớm hay muộn mà thôi”.
Ngang đây, cô chứng được quả Dự Lưu, tức
đã vào dòng Thánh, từ nay về sau không còn đoạ vào ba đường ác: địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh. Sau đó, cô phát tâm xin đức Phật cho xuất gia làm Tỳ kheo ni; nhờ
luôn siêng năng, tinh tấn tu hành, cuối cùng cô đã chứng quả A-La-Hán.
Khổ đau luôn bám víu thân phận con người,
khổ đau về vật chất như thiếu cơm ăn, áo mặc, rồi đến cái khổ vì già-bệnh-chết,
nên ngày xưa người ta hay cố gắng luyện thuật trường sinh bất tử để sống đời,
nhưng có ai không chết bao giờ đâu?