1.
Tự do tư tưởng: Đạo Phật không có hệ thống tín điều, không lấy tín điều
làm căn bản như hầu hết các tôn giáo.
Đức
tin của đạo Phật luôn đi đôi với cái "thấy", một trong những định
nghĩa về giáo pháp là "đến để mà thấy", chứ không phải "đến để
mà tin". Vì vậy, chánh kiến luôn đứng đầu trong các đức tính.
Phật
dạy cho dân Kàlama được các nhà học giả phương Tây coi là bản tuyên ngôn về tự
do tư tưởng của nhân loại: "Này các Kàlama, đừng để bị dẫn dắt bởi những
báo cáo, hay bởi truyền thống, hay bởi tin đồn. Đừng để bị dẫn dắt bởi thẩm quyền
kinh điển, hay bởi lý luận suông, hay bởi suy lý, hay bởi sự xét đoán bề ngoài,
hay bởi vì thích thú trong những lý luận, hay bởi những điều dường như có thể xảy
ra, hay bởi ý nghĩ đây là bậc Đạo sư của chúng ta. Nhưng này các Kàlama, khi
nào các ông biết chắc rằng những điều ấy là thiện, là tốt, hãy chấp nhận và
theo chúng" (Tăng Chi I).
Bác
bỏ các tín điều và đức tin mù quáng, khuyến khích tự do phân tích, khảo sát, đó
là một đặc điểm của Phật giáo.
2. Tinh thần tự lực: Đấng Thượng đế hoặc tạo hóa hay các thần linh được con người tin tưởng thở phụng, vì các đấng ấy có thể ban phúc hay giáng họa. Ấy là quan điểm của tâm lý sợ hãi, yếu đuối, mất tự tín đã sản sinh ra thần thánh (hoặc đa thần hoặc nhất thần).
Đạo
Phật với chủ trương luật nhân quả, nghiệp báo đã nói lên tinh thần trách nhiệm
cá nhân và cộng đồng trước sự đau khổ và hạnh phúc của chính mình. Đức Phật dạy:
"Chính ta là kẻ thừa kế của hành động của ta, là người mang theo với mình
hành động của mình" (Tạp A Hàm, 135).
Đức Phật không phải là đấng thần linh ban cho ta sự thay đổi hoàn cảnh hay tình trạng khốn đốn của mình. Đức Phật tuyên bố: "Như Lai chỉ là người chỉ đường, mỗi người phải tự đi đến, không ai đi thế cho ai được". Công trình khơi mở kho tàng tri kiến Phật là công trình của mỗi cá nhân. Con đường tự lực ấy được Đức Phật dạy như sau: "Này các Tỳ kheo, hãy tự mình thắp lên ngọn đuốc của chính mình, thắp lên với chánh pháp, đừng thắp lên vơ1i một pháp nào khác. Hãy tự mình làm chỗ nương tựa của chính mình, nương tựa với chánh pháp, đừng nương tựa với một pháp nào khác" (Trường A Hàm I).
Tinh
thần tự lực mang tính triệt để nhân bản này là một đặc tính của đạo Phật.
3. Tinh thần từ, bi, hỷ, xả: Chúng sanh còn khổ thì đạo Phật còn vai trò và vị trí ở cuộc đời; đạo Phật thường được gọi là đạo từ bi, đạo cứu khổ. Ở đâu có đạo Phật, ở đó có tình thương, ở đó hận thù được hóa giải. Bởi lẽ phương châm tu tập của Phật giáo là từ, bi, hỷ, xả, còn gọi là Tứ vô lượng tâm. Người Phật tử lấy từ, bi, hỷ, xả làm nền tảng cho sự phát triển thánh hạnh; tâm từ bi được coi là tâm Phật.
Trong
quá trình truyền giáo, đạo Phật chưa bao giờ gây chiến tranh hay đổ máu, thông
điệp tình thương cứu khổ, giúp đời đã được Đức Phật tuyên thuyết ngay từ thời kỳ
sơ khai thành lập Giáo đoàn: "Này các Tỳ kheo, hãy du hành vì hạnh phúc
cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc
cho chư Thiên và loài người".
Tâm
từ là khả năng hiến tặng niềm vui cho tha nhân. Tâm bi là khả năng làm vơi đi nỗi
khổ đang có mặt. Tâm hỷ là niềm vui, lòng thanh thản do từ bi đem tới. Tâm xả
là thư thái nhẹ nhàng, tự do, không kỳ thị. Đức Phật dạy người Phật tử tu tập Tứ
vô lượng tâm: "Vị ấy tâm an trú biến mãn một phương cho đến mười phương với
tâm từ, bi, hỷ, xả quảng đại vô biên, không hận, không sân... đối với mọi hình
thức của sự sống, không bỏ qua và bỏ sót một ai mà không biến mãn với tâm giải
thoát cùng với từ, bi, hỷ, xả (Trường Bộ I)". Thương yêu đồng loại và vạn
loại chúng sanh là chất liệu sống của đạo Phật.
4. Tinh thần thực tiễn: Một trong những định nghĩa về pháp là "thiết thực hiện tại", nghĩa là giáo lý đạo Phật là thiết thực, không mơ hồ, mang tính thực tiễn, có tác dụng cụ thể, không phải lý thuyết suông. "Hiện tại" có nghĩa là không chờ đợi kết quả của tương lai, có tu tập là có hướng thượng, có giải thoát ngay hiện tại, đời này. Vì vậy, giáo lý đạo Phật là giáo lý thực nghiệm, không chờ đợi một ân sủng hay một mặc khải nào. Đức Phật thường từ chối trả lời những câu hỏi về những vấn đề siêu hình. Ngài chỉ dạy những gì cần thiết cho cuộc đời, cho con đường thoát khổ. Có lần ở Kosambi, Đức Phật dạy: "Những gì Như Lai biết ví như lá trong rừng, còn những gì Như Lai giảng dạy như nắm là ở trong tay, nhưng đây là những phương pháp diệt khổ" (Tương Ưng V).
Đạo
Phật cho rằng phần lớn những nỗi khổ của con người do họ không sống thật với hiện
tại, họ thường nuối tiếc quá khứ, mơ tưởng tương lai; do đó, ý nghĩa của cuộc đời
bị đánh mất:
"Do
mong việc sắp tới
Do
than việc đã qua
Nên
kẻ nghi héo mòn
Như
lau xanh lìa cành" (Tương Ưng I)
Hoặc:
"Đừng tìm về quá khứ
"Đừng tìm về quá khứ
Đừng
tưởng tới tương lai
Quá
khứ đã không còn
Tương
lai thì chưa tới
Hãy
quán chiếu sự sống
Trong
giờ phút hiện tại..." (Kinh Trung Bộ)
Tính
thực tiễn, thiết thực hiện tại là một đặc tính của đạo Phật.
5. Tinh thần không chấp thủ: Đạo Phật là giải thoát và tự do; vướng mắc vào bất cứ điều gì cũng đều đưa đến đau khổ. Đức Phật dạy: "Cuộc đời là vô thường, nên nó đem đến đau khổ (vì chấp là thường). Cái vô thường mà ta cho là của ta, là ta thì hoàn toàn không hợp lý". Giải thoát là vượt thoát mọi ràng buộc, bám víu vào cuộc đời.
Nhờ tinh thần không chấp thủ nên thái độ củ đạo Phật rộng rãi, bao dung, tinh thần tu tập của người Phật tử rất thoáng. Kinh Ví dụ con rắn (Trung Bộ), Đức Phật ví dụ giáo pháp như chiếc bè để qua sông, không phải để nắm giữ; chánh pháp như chiếc bè, chánh pháp cũng phải xả huống là phi pháp. Tương tự, kinh Kim Cang cũng nói: "Giáo lý như phiệt dụ giả chánh pháp thương ưng xả hà huống phi pháp", hoặc nói: "Cái gọi là Phật pháp tức chẳng phải là Phật pháp nên gọi là Phật pháp".
Tinh thần không chấp thủ là nội dung trí tuệ của đạo Phật; tác dụng của tinh thần ấy ngoài, sự đem đến giải thoát, còn đem đến sự giải tỏa tất cả mọi áp lực, ức chế của đời sống lên trên tâm lý của con người. Đây là một đặc tính của Phật.
Kết luận
Sự
có mặt của đạo Phật đã đem lại nguồn khí mới cho xã hội Ấn Độ thời ấy, đã mở ra
một lối thoát cho con người trước những bế tắc, những khủng hoảng về xã hội, về
tư tưởng triết học và đạo học. Lời tán dương Đức Phật của người đương thời còn
ghi chép lại đã chứng minh diều đó: "Thưa Ngài Cồ Đàm, thật vi diệu, như
người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che
kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để cho
ai có mặt có thể thấy" (Nikàya).
Trải
qua hơn 2.500 năm, đạo Phật đã được thử thách, cọ xát với thời gian và không
gian; giá trị, tác dụng của đạo Phật vẫn như xưa. Ngày nay, trước tiến bộ văn
minh vật chất quá độ đã xô đẩy con người vào trong hố thẳm của tham vọng, hận
thù. Chiến tranh vẫn diễn ra khốc liệt trên thế giới, nghèo đói, bệnh tật,
thiên tai vẫn đe dọa đời sống của nhân loại. Càng văn minh, con người càng có
nhiều nỗi lo lắng, sợ hãi mới: nạn nhân mãn, ô nhiễm mo6i trường, hủy diệt sinh
thái, áp lực kinh tế xã hội đè nặng lên trên tâm trí của con người tạo nên ức
chế tâm lý. băng hoại về đạo đức làm mất thăng bằng giữa đạo đức và hưởng thụ.
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ
xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
Tất
cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có khả năng giác ngộ, có khả năng thực hiện
niềm hạnh phúc chân thật trên cõi đời này. Đó là lời dạy của Đức Phật.
theo lyhocdongphuong.org.vn
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...