Khi
chúng tôi vừa bước chân về đến nhà, thì mẹ tôi hỏi ngay.
-
Thế nào? Ông xã trưởng bảo sao?
-
Tôi không đến trụ sở xã.
-
Sao không đến?
-
Không đến, vì tôi gặp mấy ông bạn ở quán cà phê Đức Bà giữ lại ngồi chơi. Khi ở
đấy ra thì muộn quá. Để mai đi vậy.
Như
vậy, ông Giêrôm đã thôi việc giao dịch với ông già có đàn chó rồi.
Trên
đường về, nhiều lần tôi tự hỏi, chắc là lại có mưu mẹo gì đây. Nhưng nghe câu
cuối cùng ông vừa nói, thì tôi yên tâm và không ngờ vực gì nữa. Vì ngày hôm
sau, chúng tôi lại phải đến trụ sở xã, thì chắc chắn rằng ông Giêrôm đã bỏ việc
bán tôi cho ông Vitali.
Mặc
dầu ông Giêrôm đã đe dọa tôi, nếu được lúc thuận tiện thế nào tôi cũng kể lại
chuyện cho mẹ tôi nghe. Nhưng suốt cả buổi chiều, ông Giêrôm không đi đâu cả. Tối
đến, tôi phải đi ngủ, tiếc không sao có dịp nói với mẹ tôi được.
Tôi
lên giường ngủ, định tâm đến hôm sau thế nào cũng nói cho mẹ tôi hay.
Nhưng
sáng hôm sau, khi tôi dậy thì không thấy mẹ tôi đâu cả.
-
Mẹ ơi!
-
Bà ấy vào làng đến chiều mới về.
Tôi
không hiểu sao sự vắng mặt của bà làm cho tôi lo âu ghê gớm. Hôm qua, bà không
nói là hôm nay có việc phải vào làng. Sao bà không đợi chúng tôi cùng đi, vì
trưa nay ông Giêrôm sẽ đưa tôi đến chỗ xã trưởng? Trước khi chúng tôi đi không
biết bà có kịp về không?
Một
sự sợ hãi mơ hồ làm hồi hộp trái tim tôi. Không biết rõ cái nguy hiểm đang đe dọa
tôi là gì, nhưng tôi cảm thấy có một tai nạn sắp xảy đến cho tôi. Ông Giêrôm cứ
chòng chọc nhìn tôi.
Tôi
phải ra vườn lánh mặt ông ta.
Cái
vườn đó, không to lắm nhưng đối với nhà tôi, rất có giá trị vì chính nó nuôi
chúng tôi, trừ lúa mì ra, hầu hết các thức ăn hàng ngày, nào khoai, đậu, nào bắp
cải, củ cải trắng, đỏ... Vì thế, không một tấc đất nào bỏ không. Thế mà mẹ tôi
cũng dành cho tôi một góc nho nhỏ để trồng những cỏ, những cây, những rêu mà
tôi nhặt ở rìa rừng hay ở bờ giậu khi đi chăn bò, tất cả những thứ đó được cắm
dày đặc trong góc vườn của tôi.
Vườn
của tôi không phải là một hoa viên với những lối đi rải sỏi, với những luống
hoa xinh đẹp mà những khách qua đường phải dừng chân bên hàng giậu xén đều để
ghé trông. Nhưng tôi thấy nó đẹp và quý nó vì nó là của tôi, của riêng tôi.
Mùa
hè trước, tôi kiếm được ít hạt giống về trồng. Tính đến mùa xuân tới thì mới nở
hoa. Nhưng đó là những giống hoa sớm, nên không đợi hết mùa đông, nó đã lần lượt
khai hoa. Tính tò mò của tôi lúc này càng được kích thích. Cây trường thọ đã có
nụ vàng. Cây tử đinh hương đã đâm mấy cành chi chít những điểm tim tím. Và
trong đám lá của cây ngọc trâm nụ trổ lên mấy búp như sắp nở tung ra. Tôi thích
thú vô cùng.
Nhưng
còn một khoảng vườn mà tôi lưu tâm nhất là chỗ tôi đã trồng một thứ cây lạ,
không có ở vùng này, mà người ta đã cho tôi, đó là cây cúc-vu. Người ta đã bảo
giống cây này có những củ như khoai tây, nhưng thơm ngon hơn. Những hứa hẹn tốt
đẹp đó đã khiến tôi nảy ra một ý là sẽ làm cho mẹ tôi một bữa phải ngạc nhiên.
Vì thế tôi không nói gì cho mẹ tôi biết. Nó có nảy mầm, mọc lá, mẹ tôi sẽ tưởng
là một giống hoa. Rồi đến ngày nào đó có củ, nhằm lúc mẹ tôi vắng nhà, tôi bới
lên, làm món súp tân kỳ - tôi chưa nấu súp bao giờ, nhưng chắc cũng dễ - và múc
ra đĩa.
Ai
sẽ phải ngạc nhiên? Mẹ tôi.
Ai
sẽ được vui sướng? Mẹ tôi.
Thế
là chúng tôi có một món ăn mới thay cho món khoai thường xuyên và mẹ tôi cũng bớt
đau khổ về việc bán con Russet tội nghiệp. Người sáng chế ra món ăn đó là tôi,
là Rêmi. Như vậy tôi cũng có ích cho gia đình tôi đấy chứ.
Với
dự định lớn lao ấy, ai cũng hiểu rằng tôi chăm chú đến cây cúc-vu biết là dường
nào. Ngày nào tôi cũng ra xem nó đã mọc đến đâu. Vì tôi nóng lòng chờ đợi, nên
thấy nó chẳng lớn được tý nào. Tôi quỳ xuống đất, chống hai tay cúi đầu nhìn
đám cây cúc-vu.
Bỗng
có tiếng gọi tôi rất gấp. Tiếng ông Giêrôm. Ông ấy muốn gì tôi?
Tôi
vội vàng chạy về nhà. Tôi tái mặt lại, khi thấy ông Vitali với đàn chó đứng trước
lò sưởi. Tôi hiểu ngay ông Giêrôm muốn gì. Biết là không hy vọng gì ông Giêrôm
thường tôi, cứu tôi, tôi liền chạy đến ông già.
-
Ông ơi! Ông thương con. Ông đừng bắt con đi.
Rồi
tôi òa khóc lên. Ông già nhẹ nhàng bảo tôi:
-
Nín đi. Con ơi! Đi với ta, con sẽ không khổ đâu, ta không hay đánh trẻ con. Rồi
con có những học trò ta làm bạn, chúng rất vui. Con còn luyến tiếc gì nữa?
-
Mẹ tôi! Mẹ tôi!
Ông
Giêrôm kéo tay tôi và nói: Dù sao, mày cũng không được ở cái nhà này nữa. Đi với
ông già hay đi trại trẻ rơi. Mày chọn đằng nào thì chọn!
-
Không! Tôi ở với mẹ tôi.
Ông
Giêrôm nổi giận đùng đùng gầm thét:
-
À! Mày nhiễu tao có phải không? Nếu mày muốn đánh, để tao đánh cho mày ngay bây
giờ đây.
Ông
Vitali can:
-
Thằng bé này nó nhớ mẹ nó. Không nên vì thế mà đánh nó. Nó có tình có nghĩa đấy.
-
Nếu ông thương hại nó, nó lại gào lên!
-
Bây giờ ta thanh toán cho xong đi.
Nói
xong, Vitali xỉa lê bàn tám đồng năm phơ răng. Ông Giêrôm vơ luôn bỏ túi.
Ông
Vitali hỏi:
-
Gói đồ đâu?
Ông
Giêrôm đưa một bọc, gói bằng chiếc khăn xanh thắt bốn góc, nói:
-
Đây!
Ông
Vitali cởi nút mùi khăn xem: trong có hai áo sơ mi và một cái quần vải của tôi.
Ông Vitali nói:
-
Không đúng như giao ước. Quần áo lành đâu? Đây ông đưa toàn đồ rách.
-
Không có đồ nào khác.
-
Nếu tôi hỏi thằng này, tất nó sẽ nói là không đúng. Nhưng thôi, tôi không muốn
cãi với ông vì tôi không có thì giờ. Tôi phải đi bây giờ. Đi, bé con! À, tên nó
là gì?
-
Rêmi.
-
Vậy Rêmi, hãy cầm lấy gói đồ, đi trước con Capi. Tiến lên trước, tiến!
Tôi
khóc và giơ hai tay về phía ông già, rồi về phía ông Giêrôm, nhưng cả hai người
đều ngoảnh mặt đi. Tôi thấy bàn tay ông già cầm cổ tay tôi kéo đi. Đành phải đi
thôi.
Chao
ôi! Ngôi nhà yêu dấu, khi bước chân khỏi cửa, tưởng chừng như tôi đã để lại cả
miếng da, miếng thịt của tôi.
Tôi
vội nhìn chung quanh, nhưng mắt tôi mờ đi vì giàn giụa nước mắt, tôi chẳng nhìn
thấy ai để kêu cứu cả. Không có một ai trên đường và cũng không có người nào ở
cánh đồng cỏ gần đó. Tôi cất tiếng gọi:
-
Mẹ ơi! Mẹ Bacbơranh ơi!
Nhưng
không ai trả lời. Tiếng kêu của tôi nghẹn dần. Tôi phải theo, ông Vitali không
buông cổ tay tôi. Ông Giêrôm nói theo:
-
Lên đường mạnh giỏi!
Rồi
ông ta vào nhà.
Ôi
thôi! Thế là hết!
-
Rêmi! Con đi đi chứ!
Và
bàn tay ông kéo tôi đi.
Lúc
đó, tôi đi cạnh ông. May sao ông không bắt tôi đi nhanh và hình như ông theo bước
tôi, đi chậm lại.
Con
đường chúng tôi đi dần dần lên dốc và theo hình chữ chi. Mỗi một chỗ ngoẹo, tôi
lại nhìn thấy nhà mẹ tôi nhỏ dần, nhỏ dần đi. Nhiều lần tôi đã đi qua con đường
này, nên tôi biết rằng chỉ còn một chỗ ngoẹo nữa là còn trông thấy nhà tôi
thôi. Qua chỗ này vài bước, lên tới cao nguyên thì hết, hết cả, không còn nhìn
thấy gì. Trước mặt tôi, phong cảnh xa lạ, sau lưng tôi là căn nhà, ở đấy, cho tới
ngày nay, tôi đã sống sung sướng, mà rồi đây có lẽ không bao giờ tôi lại được
nhìn thấy nữa.
May
sao cái dốc đó khá dài. Nhưng đi mãi rồi chúng tôi cũng lên đến đầu dốc. Ông
Vitali vẫn nắm cổ tay tôi. Tôi nói:
-
Ông cho con nghỉ một chút.
-
Được. Con cứ nghỉ đi.
Thế
là lần đầu tiên ông già buông cổ tay tôi ra. Nhưng đồng thời, ông đưa mắt nhìn
Capi và ra hiệu. Con này hiểu ngay. Lập tức, nó bỏ đàn chó và đến ngồi chồm hỗm
bên tôi. Tôi hiểu là ông già đã ra lệnh cho con chó gác tôi. Nếu tôi làm một cử
động gì để trốn, nó sẽ nhảy vào cắn chân tôi.
Tôi
tìm chỗ ngồi trên một thảm cỏ êm. Capi theo sát tôi.
Ngồi
trên thảm cỏ tôi đưa mắt tìm nhà mẹ tôi, nước mắt cứ trào ra.
Dưới
chân tôi là một thung lũng mà ở đó, chúng tôi vừa đi qua, cánh rừng và cánh đồng
cỏ, rồi đến chỗ thấp hơn hiện ra ngôi nhà lẻ loi, cô quạnh của tuổi thơ tôi,
ngôi nhà mẹ tôi.
Ngôi
nhà đó dễ nhận vì ở giữa đám cây cao, có một làn khói xanh xanh từ mái bếp tỏa
lên trên trời và bay về phía tôi ngồi. Không rõ vì quá tưởng tượng hay vì thực
sự mà làn khói đó đưa đến bên tôi một mùi quen thuộc của cành sồi. Thứ củi duy
nhất mà chúng tôi đã dùng trong suốt mùa đông. Tôi mường tượng như là đang ngồi
cạnh bếp nhà tôi, trên chiếc ghế dài, hai chân vùi vào đống tro, gió luồn vào
nóc bếp hắt khói vào mặt chúng tôi. Mặc dầu, tôi ở xa và ngồi cao, trông về nhà
tôi, mọi vật đều giữ nguyên hình rất rõ, duy có phần bị thu nhỏ đi thôi.
Trên
đống phân khô, con gà mái nhà tôi, con gà cuối cùng còn lại, đang đi kiếm ăn,
nhưng nó trông nhỏ đi nhiều. Nếu người không biết nó thì cho đó là con chim
câu. Đầu nhà, tôi nhìn thấy cây táo thân cong mà tôi vẫn giả làm ngựa để cưỡi.
Rồi, bên cạnh dòng suối như một dải bạc trên đám cỏ xanh, tôi nghĩ đến cái rãnh
sâu mà tôi đã hì hục, xẻ để chạy cánh cối xay, một thứ chong chóng tôi chế mất
bao nhiêu công sức mà nó không sao quay được.
Tất
cả mọi vật đều ở chỗ cũ, từ cái xe một bánh của tôi, cái cây làm bằng cành cây
của tôi, cái chuồng thỏ khi chúng tôi còn nuôi thỏ, cho đến cái vườn, góc vườn
thân yêu của tôi, nhìn rõ mồn một.
Ai
sẽ ngắm nó nở những bông hoa xấu số của tôi? Ai sẽ sờ đến khóm cúc-vu của tôi?
Chắc hẳn là ông Giêrôm, con người độc ác.
Chỉ
bước thêm một bước nữa là tôi mất tất cả những thứ thân yêu đó.
Chợt
trên con đường về nhà, tôi nhìn xa xa thấy bóng cái mũ vải trắng. Nó biến vào
trong đám cây, rồi lại hiện ra.
Từ
chỗ tôi đến đó xa quá, nên tôi chỉ nhìn thấy màu trắng của cái mũ lượn trong
đám cành cây như một cánh bướm mùa xuân. Cũng có những lúc lòng người nhìn rõ
hơn mắt, dù là những con mắt tinh nhất. Vì thế, tuy đứng xa, tôi biết ngay là mẹ
tôi. Phải, chính mẹ tôi đấy. Không còn nghi ngờ gì nữa.
Ông
Vitali chợt gọi tôi:
-
Rêmi ơi! Ta tiếp tục đi đi!
-
Ôi! Thưa ông, con xin ông cho con...
-
Ông Giêrôm nói đúng. Con không có chân. Mới đi có thế đã nhọc. Như thế thì còn
làm ăn gì được. Tôi không trả lời. Tôi cứ nhìn về phía nhà tôi.
Chính
mẹ tôi. Chính cái mũ vải của bà, chính chiếc áo xanh của bà. Chính bà đó. Bà rảo
bước, hình như mong cho chóng về tới nhà. Về đến cổng, bà đẩy cửa vào, đi qua
sân rất nhanh.
Tôi
liền đứng choàng dậy trên bờ cỏ, không để ý đến con Capi nhảy đến bên tôi. Mẹ
tôi không ở trong nhà lâu mà ra ngay và hớt hải chạy ngang chạy ngửa trong sân,
hai cánh tay giơ lên thất vọng. Mẹ tôi đang tìm tôi đấy.
Tụ
nhiên tôi chồm mình về đằng trước và gào to:
-
Mẹ ơi! Mẹ ơi!
Nhưng
tiếng gọi của tôi không xuống tới chân núi, không át nổi tiếng suối rì rào. Nó
tắt hẳn trong khoảng không. Ông Vitali hỏi tôi:
-
Gì thế? Con điên à?
Không
trả lời, tôi đứng trơ, hai mắt dõi sâu về phía mẹ tôi, nhưng mẹ tôi nào có biết
tôi còn đang đứng gần mẹ, nên mẹ không ngẩng đầu lên.
Mẹ
tôi lại đi qua sân, ra hẳn ngoài đường nhìn tứ phía. Tôi lại gào to hơn, nhưng
cũng như lần trước, vô ích thôi. Bấy giờ, ông Vitali nghi hoặc, cũng leo lên
trên bờ cỏ chỗ tôi. Ông nhận ngay thấy cái mũ trăng trắng đang cử động. Ông nói
một mình:
-
Tội nghiệp cho thằng bé!
Nghe
câu nói của ông, tôi liền kêu lên:
-
Ông ơi! Ông thương con! Ông cho con về với mẹ con.
Nhưng
ông cầm cổ tay tôi, dắt xuống và nói:
-
Con ơi! Chúng ta nghỉ đã lâu rồi. Bây giờ đi đi.
Tôi
định giật tay ông ra, nhưng ông già giữ chặt quá. Ông gọi:
-
Capi đâu! Decbinô đâu!
Tức
thì, hai con chó đến vây tôi. Decbinô đi trước, Capi đi sau. Đi được vài bước,
tôi quay đầu lại. Chúng tôi đã qua đỉnh núi. Tôi không nhìn thấy thung lũng và
nhà tôi nữa. Xa xa, chỉ thấy những ngọn đồi xanh lô nhô trên nền trời cao rộng.
Mắt tôi nhòa đi trong khoảng không gian vô tận.
xem tiếp: * Chương 5 - Lên Đường
xem tiếp: * Chương 5 - Lên Đường
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...