Tôi
bắt đầu ngày hôm sau bằng việc viết thư cho má Barberin kể về những gì mình biết,
việc này không phải nhỏ. Chẳng nhẽ khô khan bảo má là chồng má đã chết?
Cuối
cùng tốt xấu gì chăng nữa thì tôi cũng viết xong bức thư nhắc đi nhắc lại niềm
yêu thương không gì thay đổi của tôi đối với má.
Tôi
đề nghị má cho tôi hay nếu như gia đình tôi có viết thư hỏi tin tức ông
Barberin, nếu người ta cho địa chỉ thì má chuyển cho tôi.
Bốn
ngày sau tôi nhận được thư má Barberin nhờ người viết cho tôi.
Má
cho tôi biết má đã được báo trước về cái chết của ông chồng, trước đây ít lâu
má có nhận được một bức thư của ông ta. Má nghĩ bức thư này có ích cho tôi nên
gửi cho tôi, thư có những chỉ dẫn về gia đình tôi.
-
Nhanh lên, Mattia, ta cùng đọc nào..Tay tôi run lên, tim tôi thắt lại khi đọc bức
thư đó.
Nhà
nó yêu quý của tôi, Tôi đang nằm bệnh viện, ốm lắm khó lòng còn dậy được. Tôi
muốn nói rằng nếu như tôi không qua khỏi thì nhà viết cho Hãng Greth và Galley,
Quảng trường Green, Lincohn's lin, Londres, đó là những người của Hãng Luật có
nhiệm vụ đi tìm Rémi. Nhà nó bảo họ là chỉ có nhà mới có thể cho được tin tức đứa
bé và cẩn thận bắt họ phải trả tiền vì những tin tức này.
Tiền
này phải được dùng để làm nhà nó sung sướng trong tuổi già. Nhà nó sẽ biết Rémi
ra sao khi viết thư cho ông Acquin, vốn làm nghề làm vườn nay bị giam trong nhà
tù Clichy ở Paris.
Tôi
đã gặp ông này. Hãy nhờ ông mục sư viết tất cả mọi thư từ vì trường hợp này
không thể tin ai được. Đừng làm gì cả trước khi biết tôi không còn sống nữa. ạm
hôn nhà nó lần cuối cùng.
Barberin
Tôi chưa kịp đọc đến chữ cuối của bức thư thì Mattia đã nhảy dựng lên:
-
Tiến về Londres!
Tôi
vẫn đang còn ngạc nhiên vì những gì đã đọc thành ra cứ nhìn Mattia chẳng hiểu
gì cả.
-
Bởi vì thư của má Barberin bảo là những người hành nghề luật Anh chịu trách nhiệm
đi tìm cậu, điều đó có nghĩa cha mẹ cậu là người Anh. Phải đi sang Anh, đó là
cách tốt nhất để gần lại cha mẹ cậu. Ta có đủ tiền làm cuộc hành trình. Ta sẽ
xuống tàu ở Boulogne, tàu đưa ta tới Londres. Không tốn kém lắm đâu.
-
Thế thì ta đi. - Tôi bảo.
Chỉ
trong hai phút chúng tôi gài xong túi, xuống nhà chuẩn bị đi. Tôi không muốn đi
khỏi Paris mà không thăm cha Acquin và cho ông biết những tin tức trên.
Ông
rất mừng biết tôi sắp tìm lại được gia đình.
-
Mong sớm gặp lại con, con trai ạ, may mắn nhé! Nhớ viết thư cho cha.
Chúng
tôi mất tám ngày để đi từ Paris đến Boulogne vì dọc đường còn dừng lại đôi chút
ở những thành phố chính làm vài cuộc biểu diễn.
Tới
Boulogne trong túi chúng tôi có hơn ba mươi phrăng, có nghĩa nhiều hơn số tiền
cần chi cho đi tàu.
Tàu
đi Londres khởi hành bốn giờ sáng hôm sau, ba giờ rưỡi chúng tôi đã lên tàu và
cố gắng ngồi sao cho thật ổn sau một đống thùng che chúng tôi khỏi làn gió bấc
lạnh lẽo và ẩm thấp.
Dưới
ánh sáng của mấy cái đèn tỏa khói, chúng tôi nhìn thấy người ta chất hàng lên
tàu: ròng rọc nghiến lên ken két, những chiếc thùng thả xuống hầm tàu kêu răng
rắc, các thủy thủ thỉnh thoảng lại văng ra mấy tiếng khàn khàn; nhưng bao trùm
lên hết thảy mọi ồn ào là tiếng lạo xạo của hơi nước thoát ra từ đầu máy từng
đám trắng nho nhỏ một. Một hồi chuông gióng lên từng tiếng một, thừng chão rơi
xuống nước, chúng tôi lên đường.
Sau
một cuộc hành trình trên biển với sóng cả chưa từng thấy, qua đó Mattia đã hiểu
thế nào là say sóng, chúng tôi vào tới những làn nước êm ả của sông Tamise và đến
Londres.
Chúng
tôi lên khỏi tàu. Thành phố chìm ngập trong một làn sương mù dày đặc, phố xá tối
tăm lầy lội đầy những xe cộ. Chúng tôi cứ đi tới, chốc chốc lại hỏi đường những
người qua lại mà mình gặp. Chúng tôi lạc vào một đám phố xá chằng chịt toàn những
phố nhỏ yên tĩnh.
Trong
khi Mattia hỏi đường một cái bóng đi qua thì tôi dừng lại, tôi không thở được nữa
và tôi run lên.
Rồi
chúng tôi lại tiếp tục đi, cuối cùng dừng lại trước một cái biển đồng trên đó đọc
được những chữ sau đây: Greth và Galley.
Mattia
tiến lên giật chuông, nhưng tôi ngăn tay nó lại:
-
Từ từ đã, để tớ lấy lại can đảm đã.
Một
lúc sau, nó giật chuông, chúng tôi bước vào một căn phòng có hai ba người đang
ngồi viết dưới ánh sáng của nhiều cây đèn ga.
Mattia
ngỏ lời với một trong mấy người này.
Tên
Barberin gây được tác dụng nhanh chóng:
người
ta đưa chúng tôi vào một gian phòng đầy sách và giấy tờ, có một ông ngồi trước
cái bàn giấy, một ông khác mặc áo dài và đeo tóc giả đang nói chuyện với ông
ta.
Người
đưa chúng tôi vào giải thích vài lời ngắn gọn cho ông ta biết chúng tôi là ai.
-
Ai là người trong hai cậu đã được Barberin nuôi? - ông ngồi trước bàn giấy hỏi
bằng tiếng Pháp.
Tôi
tiến lên một bước:
-
Thưa ông, tôi ạ.
-
Barberin đâu?
-
Ông ấy chết rồi ạ. Tôi kể lại tóm tắt vì sao tìm đến các ông đây. Tôi rất sốt
ruột đến lượt mình đặt ra các câu hỏi nhất là một câu đang cháy bỏng trên môi
tôi, nhưng không sao có thì giờ. Đầu tiên phải kể lại tôi đã được Barberin nuôi
như thế nào, bị bán cho cụ Vitalis ra sao, rồi được gia đình Acquin đón nhận ra
sao, sau đó lại bị vứt ra đường trôi nổi trong cuộc đời như thế nào.
Ông
ta ghi chép lại hết và nhìn tôi với vẻ mặt khiến tôi đâm lúng túng; phải nói
khuôn mặt ông ta rắn đanh lại, cái cười nom có cái gì bẩn thỉu bên trong.
-
Thưa ông gia đình tôi sống ở Anh ạ?
-
Nhất định rồi, ở Anh, ít nhất là trong lúc này. Tôi sẽ cho người dẫn cậu đi.
Ông
ta bấm chuông. Cửa mở ra.
-
À! Tôi quên, ông kia nói, họ của cậu là Dricsoll, tên họ cha cậu là như thế.
Mặc
dầu khuôn mặt ông ta trông rất khó chịu tôi những muốn nhảy lên bá cổ ông ta nếu
ông ta để tôi có thì giờ; nhưng ông ta đã lấy tay chỉ chúng tôi ra cửa.
Người
thư ký đưa chúng tôi đến nhà cha mẹ tôi là một gã đàn ông bé nhỏ đã già trông
quắt queo, mặt mũi nhăn nheo, mặc bộ quần áo đen đã sờn và lên nước bóng loáng,
thắt cà-vạt trắng.
Lão
ta nhìn chúng tôi và cứ "sịt, sịt" với chúng tôi như sịt chó vậy, có
ý bảo chúng tôi đi theo lão. Không mấy chốc chúng tôi đi sang một phố lớn xe cộ
chen chúc nhau, lão dừng một chiếc xe lại và cho chúng tôi lên xe. Lão bắt chuyện
với người đánh xe. Rất nhiều lần từ Bethnal Green được nhắc tới, tôi cho rằng
đó là tên khu cha mẹ tôi ở. Tôi biết green tiếng Anh có nghĩa là màu xanh lá
cây, tôi hình dung khu này hẳn phải trồng nhiều cây to đẹp, tôi thấy dễ chịu
quá. Chắc nó không giống những phố xá bẩn thỉu ở Londres mà chúng tôi vừa đi
qua để tới nơi này.
Xe
lăn bánh khá nhanh trong các phố rộng, sau đó vào các phố hẹp, rồi lại tới các
phố rộng, nhưng không trông thấy gì ở chung quanh cả do sương mù bao phủ chúng
tôi một màu mờ đục.
Trời
bắt đầu lạnh, tuy thế chúng tôi cảm thấy khó thở. Tôi nói chúng tôi có nghĩa
Mattia và tôi, vì lão dẫn đường ngược lại tỏ ra rất thoải mái, lão thở mạnh, miệng
há ra rồi hít vào thật mạnh, như thể vội vã tích lấy một lượng không khí lớn
trong phổi lão. Tuy tôi phát sốt lên vì xúc động khi nghĩ tới chỉ chốc nữa đây
sắp được ôm hôn cha mẹ, anh chị tôi, tôi rất muốn trông thấy cái thành phố mình
đang đi qua. Chẳng phải nó là thành phố của tôi, tổ quốc của tôi hay sao?
Nhưng
cho dù có mở to mắt đến mấy tôi cũng chẳng nhìn thấy gì hoặc hầu như không nhìn
thấy gì ngoài làn ánh sáng đỏ cạch của ga cháy trong sương mù như một đám mây
khói dày đặc; chỉ mờ mờ thấy được những chiếc đèn của xe ngựa đi ngược lại phía
chúng tôi, thỉnh thoảng xe chúng tôi phải đứng sững lại sợ đâm vào người đi đường.
Chúng
tôi đi khỏi Greth và Galley đã lâu, điều này khẳng định cha mẹ tôi sống ở miền
quê.
Nhưng
đáng lẽ đi vào vùng nông thôn thì chúng tôi lại đi vào những con phố càng hẹp
hơn, chúng tôi nghe thấy tiếng còi đầu máy xe lửa. Bùn trong phố tràn cả vào
trong xe, bắn từng mảng đen lên tận chúng tôi; một mùi nhạt nhạt bao trùm lấy
chúng tôi từ đã khá lâu chứng tỏ chúng tôi đang ở trong một khu tồi tàn, có lẽ
khu cuối cùng trước khi ra tới đồng cỏ của Bethnal Green. Tôi có cảm giác chúng
tôi quay trở lại, thỉnh thoảng người đánh xe lại cho xe đi chậm lại tựa như
không rõ mình ở chỗ nào. Bỗng nhiên ông ta dừng xe hẳn lại và lỗ nhìn ra ngoài
xe mở ra.
Lúc
này chúng tôi tranh luận với nhau. Mat-tia bảo tôi nó hiểu rằng lão dẫn đường
không muốn đi xa hơn vào khu trộm cắp này nữa.
Cuối
cùng lão thư ký cho tiền người đánh xe, lão xuống xe và một lần nữa lại "sịt,
sịt" chúng tôi, rõ ràng là đến lượt chúng tôi cũng phải xuống.
Chúng
tôi ở trong một con phố đầy bùn giữa sương mù. Lão dẫn đường gọi một người qua
đường lại hỏi: chẳng khó khăn gì chúng tôi hiểu là lão hỏi đường.
Tôi
quá bối rối đến nỗi không hiểu làm thế nào mà chúng tôi lại đứng trong một căn
buồng rộng được chiếu sáng bởi một cái đèn và một ngọn lửa bằng than đốt.
Trước
ngọn lửa là một ông cụ già ngồi im như một pho tượng, râu bạc trắng, đầu đội một
chiếc mũ trùm đầu màu đen. Một người đàn ông và một người đàn bà ngồi đối diện
với nhau qua một cái bàn, người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi mặc bộ đồ nhung
màu xám mặt mũi thông minh nhưng đanh lại; người đàn bà kém độ năm sáu tuổi tóc
vàng rủ xuống một chiếc khăn san kẻ ô đen trắng buộc chéo trước ngực, mắt không
có tí thần nào, khuôn mặt chỉ lộ ra vẻ lãnh đạm và vô cảm. Trong phòng còn có bốn
đứa trẻ, hai đứa con trai hai đứa con gái tóc đều vàng như mẹ; đứa lớn nhất khoảng
mười một mười hai tuổi; đứa bé nhất chưa đến ba tuổi.
Chỉ
một cái liếc mắt tôi nhìn thấy toàn bộ quang cảnh, trong khi lão thư ký già dẫn
đường cho chúng tôi lên tiếng nói chuyện.
Mọi
con mắt liền đổ dồn về phía Mattia và tôi, kể cả cụ già bất động, riêng đứa con
gái bé tí thì chú ý đến Capi.
-
Ai trong hai người là Rémi? - Người đàn ông mặc bộ đồ nhung xám hỏi bằng tiếng
Pháp.
Tôi
tiến lên một bước:
-
Tôi ạ.
-
Vậy thì ôm hôn cha con đi, con trai của cha.
-
Còn bây giờ thì, - ông ta nói, - đây là ông con, mẹ con, các anh các chị em
con.
Tôi
bước tới chỗ mẹ tôi trước tiên, ôm bà trong hai tay, bà để mặc cho tôi hôn
nhưng bà không hề ôm hôn tôi, chỉ nói với tôi vài ba lời mà tôi không hiểu gì cả.
-
Đưa tay bắt tay ông đi, nhẹ nhàng thôi, ông bị liệt đấy.
Tôi
cũng bắt tay các anh tôi và chị tôi, tôi muốn bế con bé con nhưng nó đẩy tôi ra
vì đang bận chơi với con Capi.
Vừa
đi từ người nọ sang người kia, tôi vừa tự giận mình. Sao nhỉ? Tôi không cảm thấy
vui một chút nào khi cuối cùng được ở trong gia đình mình. Tôi đã chờ đợi giờ
phút này với sự nóng lòng đến cháy bỏng thế mà tôi lại lúng túng, lại tò mò
nhìn họ và không tìm được lời nào để nói cả.
Nhưng
người ta không để tôi có thì giờ miệt mài với những cảm tưởng này lâu hơn.
-
Thế còn thằng bé này là ai? - Cha tôi chỉ Mattia.
Tôi
giải thích mối dây ràng buộc tôi với Mattia, tôi cố gắng đặt tất cả tình bạn
vào trong những lời nói của mình.
-
Được, - cha tôi nói. - Thế tại sao Barberin không tới?
-
Ông ấy chết rồi ạ.
Thế
là cha tôi dịch cho mẹ tôi nghe những điều tôi vừa nói, tôi tưởng như mình hiểu
được.là bà trả lời thế thì tốt vì bà nhiều lần nhắc đi nhắc lại hai chữ well và
good mà tôi biết.
-
Con không biết tiếng Anh à? - Cha tôi hỏi.
-
Không ạ. Con chỉ biết tiếng Pháp và tiếng ý con học với một ông thầy mà
Barberin đã cho ông ta thuê con.
-
Vitalis ấy à? Tên ông này Barberin có nói với cha cách đây ít lâu khi cha sang
Pháp tìm con. Chắc con lấy làm lạ tại sao suốt mười ba năm cha mẹ không đi tìm
con và tại sao đột nhiên cha mẹ lại có ý định tìm Barberin. Con lại đây, gần ngọn
lửa này, cha sẽ kể cho con nghe.
Nhưng,
khi tôi vừa duỗi đôi chân ẩm ướt vấy bùn trước ngọn lửa thì ông tôi khạc ngay đờm
về phía tôi mà chẳng nói gì cả; không cần giải thích tôi cũng hiểu được là tôi
đã làm vướng ông, tôi rụt chân lại.
-
Đừng để ý làm gì, ông cụ không thích ai ở trước ngọn lửa của ông cụ; nhưng nếu
con lạnh con cứ sưởi, không việc gì phải bận tâm vì ông ấy.
Thấy
người ta nói về ông cụ như vậy tôi choáng váng cả người.
-
Con là con trai cả của cha mẹ, - cha tôi nói với tôi. - Cha mẹ lấy nhau được một
năm thì sinh ra con. Khi cha lấy mẹ con, có một cô gái cứ tưởng rằng cha sẽ lấy
cô ấy, đám cưới cha mẹ làm cô ta căm ghét người đàn bà mà cô ấy coi là tình địch.
Để trả thù, lúc con được sáu tháng, cô ấy ăn cắp con đem sang Pháp, sang Paris
bỏ con ở ngoài phố. Cha mẹ đã tìm khắp mọi nơi, nhưng không sang đến Pháp vì
không thể ngờ họ đem con đi xa thế. Cha mẹ cứ tưởng con đã chết, nhưng cách đây
ba tháng người đàn bà đó chết, khi hấp hối mới lộ bí mật này ra.
Cha
đi sang Pháp ngay, cha đến cảnh sát quận nơi con được tìm thấy. Họ cho biết con
được một người thợ nề ở Creuse nhận làm con nuôi, lập tức cha đi Chavanon.
Barberin cho cha biết tất cả những gì ông ta biết. Cha không ở Pháp lâu để theo
tìm cụ Vitalis được nên giao cho Barberin đi tìm giúp, cho ông ta tiền đi
Paris.
Cha
bảo ông ta thông báo cho những người lo việc này cho cha, tức là các ông ở hãng
luật Greth và Galley, nếu như tìm thấy con. Sở dĩ cha không cho địa chỉ cha ở
đây là vì cha mẹ chỉ ở Londres vào mùa đông; tới mùa ấm áp đẹp trời, cha mẹ đi
khắp Anh và écosse để bán hàng lưu động.
Đó,
con trai ạ, đó là tại sao cha mẹ lại tìm được con sau mười ba năm, tại sao con
lại trở về được chỗ của mình trong gia đình. Cha hiểu con có đôi chút hoảng sợ,
đó là vì con không biết cha mẹ, không hiểu cha mẹ nói gì nhưng cha hy vọng con
sẽ mau chóng quen thôi.
Trong
khi tôi lắng nghe câu chuyện kể của cha tôi người ta bày xong bàn ăn.
-
Ngồi vào bàn, hai cậu. - Cha tôi bảo.
Trước
khi ngồi xuống, ông kéo chiếc ghế bành của ông tôi lại cạnh bàn ăn, rồi bản
thân ông ngồi quay lưng lại ngọn lửa, ông bắt đầu cắt một khoanh thịt bò rán và
tiếp cho chúng tôi hai lát to kèm theo khoai tây.
Tôi
nhận thấy các anh chị tôi toàn thò tay vào ăn mà cha mẹ tôi chẳng tỏ ra bực bội
gì cả.
Cơm
tối xong, cha tôi nói bận chờ khách rồi ông cầm đèn đưa chúng tôi sang nhà để
xe cạnh gian phòng vừa ăn: ở đó có hai cái xe to thường vẫn dùng để đi bán hàng
lưu động. ông mở cửa một cái xe, chúng tôi nhìn thấy trong đó có một chiếc giường
hai tầng.
-
Giường của các con đây, ngủ ngon nhé!
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...