Theo giáo lý Gia Tô, thì
tánh kiêu ngạo là một trong bảy điều tội lớn nhất của con người. Cũng như những
tín điều khác trong đạo Gia Tô điều này rất lý thú, nhưng dường như hơi cách
xa những vấn đề thật tế về sự đau khổ của nhân loại.
Tuy nhiên, chúng ta chấp
nhận những bằng chứng trong cuộc soi kiếp của ông Cayce, thì sự kiêu ngạo có
thể tạo nên nghiệp quả đau đớn xác thân, nhất là khi nó biểu lộ bằng sự chế
diễu hay sự khinh bỉ. Một cái cười độc ác hay những lời dèm pha, chỉ trích, chê
bai dường như gây một cái nhân tương đương với một hành động bạo tàn, và sẽ
mang đến cái quả báo dội ngược: Người chế nhạo sẽ bị một thứ bịnh tật, tai
ương, đau khổ giống như của người bị y chế diễu! Những hồ sơ Cayce có ghi chép
bảy trường hợp mà những bệnh tật đau khổ nặng nề có thể truy nguyên ra từ những
hành động chế nhạo kể trên. Có điều hơi lạ, là sáu trường hợp trong số đó xảy
ra trước hết ở La Mã, trong thời kỳ khủng bố đạo Gia Tô. Về điểm này một lần nữa,
chúng ta lại thấy những nhóm linh hồn thuộc về một thời kỳ lịch sử, tái sinh
trở lại cõi trần đồng một lượt ở một thời kỳ khác. Trong số đó có ba trường hợp
về bịnh bại liệt.
Trường hợp thứ nhất là của
một người đàn bà bốn mươi lăm tuổi, có ba người con; chồng bà ấy làm một nghề
tự do. Năm ba mươi sáu tuổi bà bị bại liệt cả hai chân và không thể đi đứng vận
động gì được. Từ khi đó, bà vẫn ngồi trên một chiếc xe lăn và phải có người đỡ
mỗi khi muốn cử động. Cuộc soi kiếp cho biết nguyên nhân bịnh trạng của bà là
một tiền kiếp dưới thời Đế Quốc La Mã. Hồi đó bà là một người trong dòng dõi
quý tộc của triều đại vua Néron và trực tiếp tham gia khủng bố những người theo
đạo Gia Tô. Cuộc soi kiếp nói: "Linh hồn này đã cười khi thấy những người
bị hành hình trong vũ trường, và bây giờ y phải chịu cảnh đau khổ tương tự như
của những người ấy!"
Trường hợp thứ hai, có lẽ
là trường hợp đau khổ nhất trong tập hồ sơ Cayce, là của một người đàn bà ba
mươi bốn tuổi, bị bệnh bại liệt từ lúc sáu tuổi, làm cho bà bị què chân và xiêu
vẹo xương sống. Người cha chẳng những rất thản nhiên với bịnh trạng của bà, mà
còn lấy hết tiền bạc của bà dành dụm được nhờ nuôi gà vịt kiếm lời. Số phận của
bà càng hẩm hiu hơn nữa vì hai cuộc tình duyên đau khổ. Người yêu đầu tiên bị
tử trận trong cuộc Thế Chiến Thứ Nhất. Sau đó bà đính hôn với một người
đàn ông khác, nhưng người này bị đau nặng và vừa khi khỏi bịnh xong thì liền
cưới ngay cô nữ y tá đã săn sóc y trong nhà thương! Ngoài ra những đau khổ về
thể xác và tình cảm trên đây, còn thêm nào là đời sống cô độc ở quê, và
một lần té ngã trên những bực thang bằng đá, làm cho bà phải nằm liệt giường và
bị thêm một tật khác ở xương sống: Người ta không thể tưởng một cuộc đời đau
khổ hơn nữa! Nguyên nhân của bệnh trạng này thuộc hai kiếp về trước ở đế quốc
La Mã. Cuộc soi kiếp nói: "Linh hồn này thuộc về dòng dõi nhà vua
Palatius, và thường đến vũ trường xem những cuộc đấu võ giữa hai tội nhân, hoặc
giữa một tội nhân với một thú dữ. Sự đau khổ hiện thời một phần lớn là vì bởi y
đã cười cợt một cách khinh bỉ trước sự yếu đuối bất lực của những kẻ tù nhân bị
thú dữ xé xác trong vũ trường!"
Trường hợp thứ ba là của
một nhà sản xuất phim ảnh, bị chứng liệt bại từ khi lên mười bảy tuổi, và hiện
thời hãy còn có tật ở chân. Nguyên nhân cũng là vào thời kỳ chống đạo Gia Tô ở
đế quốc La Mã. Cuộc soi kiếp cho biết: "Linh hồn này thuở xưa làm lính đao
phủ quân của nhà vua, và đã cười cợt chế nhạo những kẻ tỏ dấu sợ sệt hoặc
những người bị ngã quị trong võ trường dưới ngọn đao hành tội của y. Y đã gây
ác quả không phải vì y làm phận sự của người đao phủ, mà vì y đã khinh bỉ chế
nhạo những người theo một lý tưởng tôn giáo. Trong kiếp này, một xác thể tàn
tật đem cho y cái kinh nghiệm cần thiết để làm thức động Chân Tánh và phát
triển những sức mạnh tâm linh tiềm tàng của y."
Dưới đây là bốn trường hợp
lý thú mà sự chế nhạo lại bị những quả báo khác hơn là bịnh liệt bại. Một là
trường hợp của một thiếu nữ bị chứng lao xương háng. Trong kiếp trước đây, cô
có mặt trong nhóm người đầu tiên đến khai thác thuộc địa ở Bắc Mỹ. Tuy nhiên,
bịnh trạng của cô được truy nguyên ra ở một kiếp trước nữa ở La Mã. Hồi đó, cô
thuộc dòng quý tộc dưới triều vua Néron, và hay mua vui bằng cách đến xem những
cảnh hành tội người Gia Tô Giáo trong các vũ trường. Cảnh tượng một thiếu phụ
bị móng vuốt sư tử cào rách một bên hông đã làm cho đương sự vô cùng vui thích
và cười đùa một cách khoái trá!
Đây là một trường hợp
khác: Một thiếu nữ kia mới mười tám tuổi đáng lẽ ra có một vẻ đẹp quyến rũ, nếu
cô không bị phát phì! Các bác sĩ y khoa nói rằng đó là do bộ hạch óc làm việc
quá độ. Cuộc khán bịnh bằng Thần Nhãn của ông Cayce cũng xác nhận có sự sai lệch
trong sự hoạt động của hạch và phát phì của cô ta là một chứng bịnh về nhân
quả. Hai kiếp trở về trước, cô là một lực sĩ ở thành La Mã, có tiếng về khoa
điền kinh và vẻ đẹp cân đối của thân hình. Nhưng y hay chế nhạo những tay lực
sĩ khác nặng cân hơn và thua kém y về sự khéo léo lanh lẹ.
Trường hợp thứ ba là của
một thanh niên hai mươi mốt tuổi, theo đạo Gia Tô. Cha mẹ y muốn cho y sau này
trở nên một giáo sĩ; nhưng y thấy rằng nghề ấy không đúng với sở thích của y. Y
bèn từ chối không chịu nghe theo. Tật xấu lớn nhất của y là tật đồng tình luyến
ái (yêu bạn trai hay bạn gái cùng đồng một nam tính hay nữ tính với mình:
Homosexualité). Y bèn yêu cầu ông Cayce soi kiếp, và được biết rằng trong
một tiền kiếp dưới một triều vua ở nước Pháp y là một họa sĩ chuyên môn về lối
vẽ hoạt kê hài hước. Bằng một nét bút chì sắc sảo và linh động, y hay vẽ những
cảnh tượng luyến ái giữa những người đồng tình với nhau để làm trò cười cho
thiên hạ. Cuộc soi kiếp luận như sau: "Anh chớ lên án kẻ khác nếu anh không
muốn bị lên án. Anh cười người khác bao nhiêu, anh sẽ phải bị người cười bấy
nhiêu, và anh lên án kẻ khác về cái tật nào, thì chính anh sẽ mắc phải cái tật
đó!"
Trường hợp thứ tư là của
một thiếu niên bị tai nạn xe hơi hồi mười sáu tuổi, làm cho y bị đứt tiện ngang
tủy xương sống. Các bác sĩ chuyên môn nói rằng y sẽ không thể sống được, nhưng
rốt cuộc y vẫn sống sót. Y hoàn toàn bại liệt cả nửa thân mình, từ đốt xương
sống thứ năm trở xuống và kể từ khi đó y không hề rời khỏi chiếc xe lăn. Lúc y
được 33 tuổi, 17 năm sau khi tai nạn xảy ra, mẹ y yêu cầu ông Cayce soi kiếp
cho y. Cuộc soi kiếp cho biết rõ hai tiền kiếp: Một kiếp hồi thời kỳ Cách Mạng
ở Bắc Mỹ, trong khi đó y phục vụ trong quân đội và tỏ ra là một sĩ quan ưu tú
và can đảm. Do kinh nghiệm trong kiếp đó mà kiếp này y có được những đức tính
kỷ luật, trật tự, yêu đời và khả năng quyền biến. Trong kiếp trước nữa ở La Mã
vào lúc bắt đầu Tây lịch kỷ nguyên, y đã tạo ra cái nguyên nhân của thảm trạng
hiện tại. Hồi đó y là một người lính trong đạo binh La Mã và lấy làm khoái trá
mà nhìn thấy những sự đau khổ của những người theo đạo Gia Tô bị hành hình ở
pháp trường. Y đã từng đấu sức trong vũ trường, và về sau y nhìn xem những kẻ
địch thủ của y đối chọi với các thú dữ. Y đã nhìn thấy rất nhiều cảnh tượng tàn
ác, gây sự đau khổ chết chóc, nhưng y không chút động lòng. Kết quả là trong
kiếp này y nhìn thấy sự đau khổ ở chính mình, và y cũng phải tập nhìn nó một
cách thản nhiên nhưng với một mục đích khác hẳn: Quả báo này có cái tác dụng
sâu xa là nhờ sự đau khổ, y sẽ cảm thấy rằng sự tín ngưỡng tôn giáo mà y diễu
cợt nhạo báng trước kia, nay đã đột khởi ở trong linh hồn y để bù lại những gì
y đã tạo ở kiếp trước.
Có điều lý thú là trong
những trường hợp kể trên, gồm có ba người bị liệt bại từ nhỏ, một người bị bịnh
lao xương háng, một người phát phì, một người có tật đồng tính luyến ái, một
người dập tủy xương sống, tất cả là bảy người nhưng không có trường hợp nào là
bịnh di truyền. Trong mỗi trường hợp, bịnh trạng chỉ xuất hiện sau khi đương sự
đã sinh ra đời, ở vào khoảng giữa năm lên một và năm lên 36 tuổi. Trong một
trường hợp, bịnh tật do tai nạn xe hơi gây nên, Dầu rằng thế nào, đằng sau cái
nguyên nhân hiển hiện, còn ẩn khuất một nguyên nhân sâu xa hơn. Cái định mệnh
lạ lùng nó đặt để rằng trong một tai nạn xe cộ, có người thiệt mạng, có người
lại sống sót, có người bị thương tích nặng nề, có người lại không bị một vết
trầy da, thường được coi như một sự may rủi, tình cờ. Nhưng nếu ta xét những
trường hợp kể trên thì thấy rằng dường như có sự hành động của một bàn tay vô
hình, dầu rằng trong sự hỗn loạn của một tai nạn xảy ra bất thình lình, và như
thế những quả báo xảy đến đều đúng luật công bình, không mảy may sơ sót.
Mới nghe qua những trường
hợp kể trên, người ta thấy rằng dường như những quả báo xảy đến có vẻ quá nặng
nề đối với một việc không quan trọng như là một tiếng cười, nhưng nếu chúng ta
suy xét kỹ thì sẽ thấy quả có sự công bằng.
Một người đùa cợt nhạo
báng trước sự đau khổ của kẻ khác tức là y kết án người này về những hoàn cảnh
trái ngược của họ mà y không hề hiểu biết được cái lý do ẩn tàng. Y khinh bỉ
cái quyền tự do của người khác, dầu cho đó là cái tự do lỗi lầm mà mỗi người
đều có thể rút những bài học kinh nghiệm lấy cho mình. Y chà đạp, dày xéo
cái nhân vị, cái giá trị và tính cách thiêng liêng của mỗi linh hồn, dầu rằng
linh hồn ấy có rơi vào sự đớn hèn, sa đọa hay lố bịch chăng nữa. Ngoài ra, y
còn tự tôn và cho rằng mình cao hơn kẻ mà y chế diễu đùa cợt. Trong sự chế diễu
đùa cợt, có một hình thức tự tôn rất bỉ ổi làm cho đương sự cách biệt rất xa
với tình bác ái đại đồng giữa nhân loại và vạn vật. Những điều kể trên làm cho
ta phải nhớ đến những giáo lý răn dạy người đời, được chứa đựng trong một quyển
sách về đạo lý cổ truyền. Chúng ta bắt đầu nhận thấy rằng thật là hữu phước thay
cho người nào thoát khỏi được cái thói xấu hay nhạo báng đùa cợt. Tác giả bộ
Thánh Thi đã tỏ ra có một bản năng sáng suốt khi người thốt ra những lời này:
"Tôi sẽ thắng dây cương ở đôi môi của tôi để khỏi phải gây tội lỗi vì cái
lưỡi."
"Người chớ xét đoán
kẻ khác nếu ngươi không muốn bị người xét đoán! Vì ngươi sẽ bị kết án cũng như
ngươi đã kết án kẻ khác vậy."
Đức Jesus cũng nói rằng:
"Kẻ nào mắng người khác là "Đồ ngu!" sẽ bị thiêu đốt dưới ngọn
lửa Địa ngục!"
Xét về những trường hợp mà
sự chế nhạo đùa cợt bị mang lấy quả báo vô cùng thảm khốc như đã kể trên, thì
lời nói của đức Jesus hẳn là có một ý nghĩa sâu xa thâm trầm về phương diện tâm
lý vậy...
xem tiếp: * CHƯƠNG 5 - Vài Cảm Tưởng Về Luật Nghiệp Báo
xem tiếp: * CHƯƠNG 5 - Vài Cảm Tưởng Về Luật Nghiệp Báo
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...