Trong nhiều thế kỷ, gia
đình là một tổ chức riêng biệt mà người gia trưởng là người cha, hay người mẹ,
theo phong tục ở một vài xứ. Những tổ chức gia đình ấy vẫn luôn luôn tồn tại ở
khắp nơi.
Theo một quan niệm duy vật,
người ta coi những trẻ con như là một sở hữu của cha mẹ của chúng: Chúng sinh
ra do bởi sự mang nặng đẻ đau và hy sinh của người mẹ; chúng được nuôi dưỡng do
bởi sự làm lụng khó khăn vất vả của cha mẹ. Nói về phương diện vật chất, những
người làm cha mẹ có một thể chất khỏe mạnh hơn, già dặn hơn thông minh hơn những
đứa con; vì lẽ đó, họ có quyền ngự trị trong gia đình.
Nhưng nói về phương diện
tâm linh, thì không hề có vấn đề cha mẹ là tuyệt đối cao cả hơn con cái. Tất cả
sinh linh trong Trời Đất đều là những đơn vị bình đẳng của toàn thể một cơ cấu
rộng lớn. Trên bình diện tâm linh, cha mẹ không có sở hữu con cái, thậm chí
cũng không phải là những người sáng tạo ra con cái. Họ chỉ là những phương tiện
cho những linh hồn của những đứa con mượn chỗ đầu thai ở cõi thế gian.
Một sự vận hành mầu nhiệm
trong cơ thể họ khiến cho họ giao hợp với nhau trong một lúc và làm vận chuyển
một cơ cấu cũng không kém mầu nhiệm, mà kết quả là sự cấu tạo và sinh sản ra một
thể xác hài nhi. Cái thể xác đó trở nên chỗ nương ngụ của một linh hồn khác
cũng tiến hóa như chúng ta. Linh hồn ấy nhất thời bị yếu kém và không biết nói,
trách nhiệm và bổn phận của chúng ta trong sự nuôi dưỡng cho nó lớn lên, đều là
những kinh nghiệm rất quý báu cho ta. Đó là những kinh nghiệm giúp ta khai mở đức
hy sinh và bác ái, với một tấm lòng thương cảm và trìu mến sâu xa thâm trầm.
Những sự việc tốt lành kể
trên chỉ xảy ra khi người làm cha mẹ không có lòng chiếm hữu và áp chế con cái
dưới một hình thức nào đó. Trong quyển "The Prophet", ông Khalil
Gibran viết như sau:
"Con cái của anh sinh
ra, không phải là của anh. Chúng nó chỉ là con cái của "Sự sống bất
diệt trường tồn". Chúng nó do bởi anh sinh ra, chớ không phải là của
anh. Và tuy chúng sống chung với anh trong một nhà, nhưng chúng không
thuộc quyền sở hữu của anh. Anh chỉ là những cái cung nhờ đó những đứa con
anh lấy đ
à vùng vẫy, chẳng khác nào như mũi
tên bắn ra tận bốn phương trời. Người Cung Thủ kéo sợi dây cung là nhằm mục
đích hòa vui, và trong khi Người yêu cái mũi tên bay, Người cũng yêu cái cung
còn ở lại."

Đối với con cái, những bậc
phụ huynh không nên có một thái độ áp chế của kẻ bề trên, hoặc một thái độ ganh
ghét ruồng bỏ. Một thái độ bình thản ôn hòa là thái độ thích nghi nhất của người
cha mẹ đối với con cái mà họ có bổn phận nuôi dưỡng chăm nom. Họ chỉ có được
thái độ ấy khi nào họ hiểu biết điều chân lý căn bản này, là tất cả chúng sinh,
tất cả mọi sinh linh đều bình đẳng với nhau. Nói theo danh từ thường dùng trong
những cuộc soi kiếp của ông Cayce, những người làm cha mẹ là những con
"Kinh vận hà" để cho nguồn sinh hoạt đi xuyên qua, và nhờ đó những
linh hồn có phương tiện để đầu thai ở cõi trần.
Bởi vậy những cặp nam nữ sắp
sửa thành hôn được khuyên nhủ và dặn dò về tánh cách thiêng liêng của sự giao hợp
giữa vợ chồng. Quan điểm này đúng với quan điểm triết học Ấn Độ cho rằng vấn đề
tình dục và sinh lý giữa nam nữ có một ý nghĩa thiêng liêng và cao quý. Nhưng bất
hạnh thay, khoa Thần học cổ truyền của đạo Gia Tô lại coi mọi vấn đề liên quan
đến sự sinh dục như là dấu vết của tội lỗi. Do một sự hiểu lầm đáng tiếc về biểu
tượng diễn tả trong Chương La Genèse của bộ Thánh Kinh, toàn thể nhân loại bị
coi như là kết quả của "Tội lỗi nguyên thủy" gây ra bởi ông Adam và
bà Eve.
Tuy rằng lễ hôn phối hợp
pháp hóa sự giao hợp giữa vợ chồng, người ta vẫn nghĩ rằng con cái được sinh sản
ra trong vòng tội lỗi. Đó là những quan niệm sai lầm về vấn đề sinh lý tự nhiên
của cơ thể con người theo như ý muốn của Thượng Đế. Quan niệm sai lầm ấy có những
hậu quả tâm lý rất tai hại, gây nên những sự dồn ép sinh lý, ý niệm tội lỗi và
những xung đột tâm lý thuộc về loại trầm trọng và tê liệt nhứt.
Tuy nhiên, giải pháp đối
tượng của vấn đề này không phải là tự do luyến ái, hay tự do thỏa mãn dục tình.
Giải pháp thích nghi là sự thông hiểu một cách tường tận rằng cơ năng sinh sản
sáng tạo của con người là một quyền năng thiêng liêng. Một cuộc soi kiếp nói:
"Ái tình và sự giao hợp với một thể xác tinh khiết là cái kinh nghiệm
thiêng liêng cao quý nhất một linh hồn có thể thâu thập trong một kiếp sống ở
cõi trần." Quan điểm này được nhấn mạnh trong nhiều cuộc soi kiếp, và người
ta nhận thấy nó trong những trường hợp mà một người phụ nữ muốn biết xem nàng
có thể nào có con được không? Trong những trường hợp đó đương sự thường yêu cầu
một cuộc khán bịnh bằng Thần Nhãn để xem nàng có thể tự chuẩn bị bằng cách nào
để thụ thai và sinh sản. Trong những cuộc khán bịnh đó, những phép điều trị về
cơ thể nêu ra rất nhiều, nhưng không có gì khác thường. Có khác chăng là sự soi
xét bằng Thần Nhãn giúp cho ông Cayce biết rõ nhu cầu của mỗi cơ thể riêng biệt
của mỗi người tùy theo trường hợp. Tuy nhiên, những cuộc soi kiếp cũng nhấn mạnh
về tánh cách quan trọng của sự chuẩn bị tư tưởng và tâm linh, vì thái độ tinh
thần của người mẹ sẽ hấp dẫn những linh hồn cùng có một tâm trạng tương tự,
theo luật "Đồng thanh tương ứng; đồng khí tương cầu."
Cuộc soi kiếp nói: Linh hồn
này hãy nên biết rằng sự chuẩn bị tư tưởng và tâm linh là một việc có tính cách
sáng tạo, cũng cần thiết như sự chuẩn bị về thể chất, có lẽ còn cần thiết hơn.
Đối với một người đ
àn bà ba mươi sáu tuổi hỏi ông rằng
bà ấy còn hy vọng có con hay không, cuộc soi kiếp nói: "Bà hãy tự luyện
mình thành một khí cụ tốt lành hơn về mọi mặt thể chất, trí não, và tâm linh.
Người đời thường có thói quen chỉ xem sự thụ thai như một việc làm thuộc về thể
chất mà thôi."

Một cuộc soi kiếp khác
nói: "Do sự giao hợp, con người có dịp tạo nên một đường vận hà
để cho đấng Tạo Hóa có thể hành động
xuyên qua nàng bằng quyền năng Sáng Tạo của Ngài. Vậy đương sự hãy cẩn thận coi
chừng thái độ của mình và của người bạn trăm năm của mình khi các người tạo nên
các cơ hội đó, vì linh hồn đầu thai vào làm con các người sẽ có một tánh tình
tùy thuộc một phần nào ở thái độ của cha mẹ."

Những cuộc soi kiếp cho biết
rằng những mối liên hệ giữa cha mẹ và con cái không phải do sự ngẫu nhiên tình
cờ. Những sợi dây liên lạc thường đã có sẵn từ những kiếp trước giữa người con
với người mẹ hay người cha. Trong những trường hợp rất hiếm mà sợi dây liên lạc
đó không có, thì tình trạng gia đình tạo nên cái hoàn cảnh thích ứng với nhu cầu
tâm lý của đứa trẻ. Những hồ sơ Cayce cho biết rằng vài đứa trẻ có một sợi dây
duyên nghiệp với người cha mà không có với người mẹ, hoặc đảo ngược lại, có
duyên nghiệp với người mẹ mà không có người cha. Trong những trường hợp đó, thường
có một trạng thái dửng dưng giữa đứa con với người cha hay người mẹ mà nó mới
quen biết lần đầu tiên trong kiếp này. Những trường hợp dưới đây chỉ cho ta thấy
một cách đặc biệt nhiều mối liên hệ khác nhau giữa cha mẹ và con cái.
Hai mẹ con người kia có một
tình mẫu tử rất khắn khít: Họ đã là hai mẹ con trong kiếp trước. Hai cha con
người kia cũng có một tình phụ tử nồng nàn: Trong một kiếp trước họ đã là hai
anh em trong một gia đình. Một người mẹ không hạp với con gái của bà: Họ chưa từng
có sự liên hệ gì với nhau ở trong kiếp trước. Giữa một người con gái kia với
người mẹ của cô ấy, chỉ có một sự dửng dưng lạnh nhạt; cuộc soi kiếp cho biết
kiếp trước hai người là hai chị em ruột nhưng lại có một mối bất hòa trầm trọng:
Hai người thường xung đột cãi vả lẫn nhau, và vẫn chưa hòa thuận trở lại. Hai
cha con người kia kiếp trước là hai vợ chồng. Một người mẹ và con gái thường
xung đột lẫn nhau: Trong kiếp trước, họ là hai bạn gái tranh dành nhau một người
đ
àn ông và tranh dành địa vị. Trong
hai mẹ con, người con trai hay lấn át người mẹ: Trong kiếp trước, họ là hai cha
con, với sự liên hệ gia đình trái ngược lại.

Những trường hợp đó chỉ rằng
sự hấp dẫn của con cái đến với cha mẹ là do bởi sự hành động của nhiều nguyên tắc.
Những nguyên tắc đó nhiều điều ẩn dấu đối với cặp mắt phàm của chúng ta. Những
hồ sơ Cayce giúp cho ta có những tài liệu suy gẫm, nhưng không có đầy đủ chi tiết
để cho ta có thể dịch ra thành một định luật nhất định.
Theo luật hấp dẫn, những
người đồng thanh khí và giống nhau về tâm tình tánh chất thường rút lại gần nhau.
Nhưng đồng thời, vì những lý do nhân quả, những kẻ thù nghịch cạnh tranh nhau
và tâm tính tánh chất đối chọi nhau thường cũng hay rút lại gần nhau. Một thí dụ
điển hình là trường hợp một đứa trẻ được ông Cayce soi kiếp khi mới lên năm tuổi.
Cuộc soi kiếp cho biết những đặc tính của đứa trẻ là thói ích kỷ, sự thờ ơ lãnh
đạm và ngoan cố không chịu phục thiện khi y có lỗi. Y có những khả năng tiềm
tàng của một nhà khảo cứu khoa học. Trong một kiếp trước, y là một nhà sưu tầm
về tiềm lực của hơi nước như là một khí cụ sản xuất tinh lực. Ở một kiếp trước,
y là một chuyên viên hóa học chế tạo các loại chất nổ; trong kiếp trước nữa y
là một chuyên viên ngành cơ khí; và
đi lùi về dĩ vãng một kiếp nữa; người
ta thấy y là một kỹ sư điện khí ở châu Atlantide. Bốn kiếp dành cho sự hoạt động
tích cực về ngành khoa học thực dụng đã làm cho đương sự phát triển những khả
năng đặc biệt, nhưng y lại quá thiên về giá trị của khoa học vật chất mà khinh
rẻ giá trị của tình thương, đức tính mỹ lệ, và sự hợp nhất tâm linh của mọi
loài vạn vật.

Bởi đó, y có một thái độ
thản nhiên lạnh lùng đối với người chung quanh. Cuộc soi kiếp còn cho biết rằng
đứa trẻ ấy sẽ thành công vẻ vang trong kiếp này nếu nó theo đuổi ngành kỹ thuật
điện khí, hay cơ khí dùng sức mạnh của hơi nước, và gồm một công việc có dùng đến
sự tính toán bằng phép đại số. Lời tiên tri đã tỏ ra hoàn toàn đúng. Đứa trẻ ấy
bây giờ đã trở nên một viên kỹ sư điện khí và những điểm chính trong tánh tình
của y đều giống y như cuộc soi kiếp đã tiết lộ, tuy rằng y đã có một sự thay đổi
tánh tình nhờ ảnh hưởng của hoàn cảnh gia đình trong kiếp hiện tại.
Nếu nói rằng theo luật đồng
khí tương cầu, những người giống nhau sẽ rút lại gần nhau, thì trong trường hợp
này có lẽ đứa trẻ đã sinh ra trong một gia đình khoa học trí thức, mà người cha
có lẽ là một kỹ sư và người mẹ là một giáo sư toán pháp ở một trường Đại Học chẳng
hạn. Nhưng trái lại, y lại sinh ra trong một gia đình gồm những người nuôi lý
tưởng vị tha, không có óc hoạt động thực tế. Người cha có óc tín ngưỡng tôn
giáo và thích hoạt động xã hội; người mẹ tuy rằng bề xã giao hơi kém, nhưng có
khuynh hướng hoạt động xã hội do ảnh hưởng của người cha. Người anh cả của đứa
trẻ cũng là một người có lý tưởng vị tha, và sự hoạt động chính của y trong đời
là giúp đỡ kẻ khác.
Xét về bề ngoài, thì sự đầu
thai của một đứa trẻ như thế trong gia đình kể trên không thể nói là do nhân quả
gây nên. Tuy nhiên, dường như có một nguyên tắc sửa đổi, chấn chỉnh những điều
thiên lệch để đem lại sự thăng bằng trong tâm tính của một con người. Có thể rằng
linh hồn đứa trẻ đã nhận thấy sự khuyết điểm của mình và
đã chọn lựa đầu thai vào một gia
đình có lý tưởng vị tha giúp đời, để cho y có cơ hội phát triển khía cạnh vị
tha bác ái trong tâm tính của y.

Trong kiếp hiện tại, đứa
trẻ luôn luôn có dịp tiếp xúc với những người mà mục đích chính trong đời là phụng
sự kẻ khác. Óc thực tế của y thường ảnh hưởng đến những người khác trong gia
đình một cách lành mạnh, trái lại, lý tưởng vị tha của họ hằng ngày đều nhắc nhở
cho y biết rằng ngoài ra những giá trị thực tế và vật chất của cuộc đời, còn có
những giá trị đạo đức tâm linh. Tuy rằng kinh nghiệm đó không có đem đến một sự
thay đổi hoàn toàn trong cái giá trị căn bản của cuộc đời y là khoa học thực dụng,
nhưng nó đã ảnh hưởng đến con người của y bằng cách làm cho y trở nên bớt ích kỷ
khô khan và trở nên cởi mở hồn nhiên hơn về mặt giao tế ngoài xã hội.
Như thế, việc chọn lựa
hoàn cảnh để đầu thai dường như đã đạt được mục đích sửa đổi tâm tính và cuộc đời
của y ít nhất là một phần nào. Những tài liệu hồ sơ Cayce chứng minh một cách đầy
đủ rằng những linh hồn sắp sửa tái sinh trở lại cõi trần có ít nhiều tự do
trong việc chọn lựa hoàn cảnh và gia đình nào họ muốn đầu thai. Có vài bằng chứng
chỉ rằng đối với những linh hồn kém tiến hóa, thì sự tự do chọn lựa ấy có giới
hạn, nhưng nói chung thì sự lựa chọn cha mẹ để đầu thai dường như là một cái đặc
quyền của mỗi linh hồn. Người ta không dễ hiểu lý do tại sao một linh hồn lại cố
tình chịu đầu thai vào một nhà ổ chuột tối tăm trong ngõ hẻm, với những cha mẹ
bần cùng khốn khó, một thể xác yếu đuối bệnh tật, và những hoàn cảnh bất lợi
khác. Xét qua bề ngoài thì dường như một sự chọn lựa như thế có vẻ vô lý; nhưng
nếu xét kỹ người ta thấy rằng điều ấy cũng có một lý do sâu xa: Có khi một linh
hồn cố ý chọn lựa một hoàn cảnh xấu xa bất lợi để làm phương tiện lấy đ
à, hầu có nỗ lực cố gắng vượt qua mọi
chướng ngại và chiến thắng nghịch cảnh.

Có một điều lạ là sự tự do
chọn lựa ấy dường như là có một ảnh hưởng đến tỷ lệ chết yểu của trẻ con. Nói
chung thì khi sinh ra, một linh hồn có thể thoáng thấy một phần nào cái viễn ảnh
cuộc đời tương lai của mình ở thế gian, khi y chọn lựa cha mẹ của y và hoàn cảnh
để đầu thai. Nhưng vì con người còn có quyền xử dụng ý chí, tự do nên luật Tự
Nhiên khiến cho y không thể nào biết trước tất cả mọi việc xảy ra trong tương
lai. Sau khi đã chọn lựa cha mẹ và sinh ra ở thế gian, một linh hồn có thể nhận
thấy rằng những người làm cha mẹ của y không ứng đáp lại đúng y như nguyện vọng
của y sở cầu. Bởi đó, cái mục đích của y nhắm khi đầu thai vào làm con trong
gia đình ấy đã hỏng, vì y đã gặp phải những hoàn cảnh khác hẳn, nên linh hồn
không muốn sống nữa và tự ý rút lui.
Dưới đây là một trường hợp
một thiếu phụ mà cuộc soi kiếp cho biết rằng trong một kiếp trước, nàng đã bị
chết yểu. Kiếp này nàng đầu thai trở lại một gia đình nọ do bởi sự hấp dẫn của
người mẹ, nhưng sau khi sinh ra nàng được ít lâu thì người cha bắt đầu say sưa
chè chén, trở nên thô lỗ cộc cằn và
đánh đập vợ con. Thất vọng vì cảnh
gia đình ấy, linh hồn đứa trẻ bèn quyết định không sống nữa và sau một cơn đau ốm
vặt thuộc về bịnh trẻ con, nàng bèn từ giả cõi trần để trở về chốn cũ! Cuộc soi
kiếp cho biết rằng những sự "Rút lui" như thế là những hiện tượng rất
thông thường. Nếu như vậy, thì sự chết yểu của trẻ con, ít nhất trong vài trường
hợp, có thể ví dụ như sự rút lui âm thầm của một khán giả đi xem hát, bị thất vọng
khi xem một màn đầu không được hấp dẫn, bèn lẳng lặng đứng dậy bỏ ra về. Trong
vài trường hợp như trường hợp kể trên, một sự rút lui như thế có thể là do sự lỗi
lầm của những người làm cha mẹ; nhưng trong những trường hợp khác, nó chỉ là do
sự xét đoán sai lầm của linh hồn đầu thai.

Đôi khi, sự chết yểu của một
đứa con vừa sinh ra có thể được coi như một kinh nghiệm đau khổ cần thiết cho
những người làm cha mẹ. Đứa con chỉ sinh ra có một lúc ngắn ngủi với một tinh
thần hy sinh, để đem lại cho một bài học đau khổ mà họ cần dùng, và nhờ đó họ sẽ
có cơ hội tiến hóa về tinh thần.
Một điểm lý thú khác đã được
xác nhận rõ ràng và nhiều lần trong những tập hồ sơ của Cayce, là lúc thụ thai
không phải là lúc linh hồn của đứa trẻ nhập vào trong bụng người mẹ. Những cuộc
soi kiếp thường khuyên các bà mẹ có mang hãy giữ gìn tư tưởng trong thời kỳ
thai nghén, vì những tư tưởng của người mẹ có thể ảnh hưởng đến cái bào thai,
và quyết định một phần nào về loại linh hồn nào sẽ đầu thai vào làm cho con họ.
Dưới đây là một đoạn vấn
đáp trong tập hồ sơ Cayce về vấn đề này:
Hỏi: "Tôi phải có một
thái độ tinh thần như thế nào trong những tháng sắp tới?"
Đáp: "Điều ấy tùy nơi
loại linh hồn mà bà mong muốn sẽ đầu thai làm con bà. Nếu bà muốn con là nghệ
sĩ, nhạc sĩ, bà hãy nghĩ đến âm nhạc, nghệ thuật và mỹ lệ. Bà muốn có con giỏi
về máy móc chăng? Như vậy, bà hãy nghĩ đến cơ khí, hoặc làm lụng, hoạt động với
các loại máy móc. Bà chớ tưởng rằng điều ấy không có ảnh hưởng gì! Đây là một
điều mà các bà mẹ nên biết: Tâm trạng của một người mẹ trong khi thai nghén có ảnh
hưởng rất nhiều đến tánh tình của đứa trẻ sẽ đầu thai vào làm con các bà."
Theo những tài liệu của
ông Cayce thì linh hồn có thể nhập vào bào thai khi còn nằm trong bụng mẹ trước
khi sinh ra, hoặc ít lâu sau khi sinh ra, hoặc ngay vừa lúc mới sinh ra. Có thể
sau khi sinh ra đến hai mươi bốn giờ đồng hồ, linh hồn mới nhập vào thể xác đứa
trẻ; và trong vài trường hợp, cũng có sự thay đổi vào giờ chót về linh hồn nào
sẽ nhập vào. Điều này mới nghe qua thì dường như không đúng với thuyết Luân Hồi
nếu người ta tin rằng một thể xác có thể sống mà không có linh hồn ngự trị ở
bên trong; nhưng sự thật, điều ấy không phải là hoàn toàn vô lý. Những người
Thông Thiên Học gọi thể xác là cái khí cụ của linh hồn.
Chúng ta hãy thử lấy thí dụ
sau đây để giải thích vấn đề kể trên: Một chiếc xe hơi đã được chế tạo xong,
giàn xe đã lắp xong xuôi, bộ đồ đ
èn lửa đã bắt cháy; chiếc xe đã bắt
đầu quay máy và
động cơ đã chạy, nhưng người lái xe
vẫn chưa xuất hiện và chưa vào ngồi trong xe. Dùng thí dụ đó để so sánh thì ta
có thể quan niệm rằng khi hài nhi vừa sinh ra, thể xác của nó đã được cấu tạo đầy
đủ, những bộ phận trong cơ thể đã hoạt động, mặc dầu linh hồn của đứa trẻ vẫn
chưa nhập vào thể xác.


Lẽ tự nhiên, sự lý luận bằng
cách so sánh không phải là luôn luôn vững chắc và xác đáng, nên chúng ta phải
dùng cách lý luận đó là vì trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce, chúng ta
luôn luôn gặp phải những điều lạ lùng như đã kể trên; và bởi vì sự hiểu biết của
chúng ta về sự bí ẩn của đời người hãy còn thô thiển và thiếu sót để có thể giải
thích một cách xác đáng theo phương pháp khoa học. Có người đưa ra cho ông
Cayce câu hỏi này: "Cái gì làm cho thể xác đứa trẻ sống lại được, trước
khi linh hồn nhập vào?" Câu trả lời có vẻ bí hiểm, nếu không nói là mơ
màng và khó hiểu: "Đó là cái tinh thần. Vì tinh thần là nguồn gốc của vật
chất, và
đó chính là Thượng Đế vậy."

Về điểm này và nhiều điểm
khác nữa, người ta cần có những cuộc sưu tầm bằng khả năng khiếu Thần Nhãn. Sự
sinh sản không phải là một sự tình cờ, và việc một đứa trẻ lọt lòng mẹ để chào
đời không phải là một điều giản dị như người ta có thể tưởng. Về vấn đề này
cũng như bao nhiêu vấn đề khác trên địa hạt nhân sinh, những cuộc soi kiếp của
ông Cayce đã tỏ ra vô cùng lý thú và hữu ích vì nó hé mở những chân trời mới lạ
để dìu dắt những cuộc sưu tầm khảo cứu của người đời nay.
xem tiếp: * CHƯƠNG 17 - Vài Nghiệp Quả Trong Gia Đình
xem tiếp: * CHƯƠNG 17 - Vài Nghiệp Quả Trong Gia Đình
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...