Ấn Độ giáo
* Vệ-Đà giáo
(Vedism)
* Bà-La-Môn giáo
(Brahmanism)
* Ấn Độ giáo (Hinduism)
Bà-La-Môn là tiếng phiên
âm từ tiếng Phạn: Brahma.
Đạo Bà-La-Môn là một tôn
giáo rất cổ của Ấn Độ, xuất hiện trước thời Đức
Phật Thích Ca.
Đạo Bà-La-Môn bắt nguồn từ
Vệ-Đà giáo (cũng phiên âm là Phệ-Đà giáo), một tôn giáo tối cổ của Ấn
Độ.
Đạo Bà-La-Môn phát triển đến thế
kỷ thứ nhứt sau Tây lịch thì biến thành Ấn Độ giáo.
Những công trình kiến trúc
nổi tiếng của Ấn Độ và các nước ĐôngNam Á như: Konarac,
Kharujaho, Mahabalipuram, Angkor Watt, Loro Jong Grang, Tháp Chàm ở Việt Nam
và nhiều tác phẩm triết học lớn của Ấn Độ như Ramayana,
Mahabharata, đều ra đời trên nền tảng của Đạo
Bà-La-Môn.
Chúng ta lần lượt khảo sát
Vệ-Đà giáo, Đạo Bà-La-Môn và Ấn Độ giáo.
I. Vệ-Đà
giáo:
Đây là một tôn
giáo tối cổ của Ấn Độ. Gọi là Vệ-Đà giáo vì tôn giáo nầy xây dựng
giáo thuyết trên Kinh Vệ-Đà. (Véda: Phiên âm Vệ-Đà hay Phệ-Đà,
nghĩa là Thông hiểu).
Vệ-Đà giáo thờ cúng thiên
nhiên, gồm nhiều tín ngưỡng, có nghi lễ, có bùa chú, do các truyền
thuyết của thổ dân da đen Dravidian ở bán đảo Ấn Độ, phối hợp với các
tín ngưỡng của dân tộc da trắng từ phương Tây Bắc đến xâm
lăng, nhất là dân da trắng Aryan tràn vào phía bắc Ấn Độ, khoảng
1550 năm trước Tây lịch.
Bộ Kinh Vệ - Đà viết bằng
tiếng Phạn, của người Aryan, gồm 4 tập, trong đó có các bài hát
ca tụng Thần linh, những lời cầu nguyện, nghi thức tế tự và các câu phù chú bí
mật, kể ra như sau:
1. Rig Véda: Phỏng
theo ý mà dịch thì Rig Véda có nghĩa là Luận rõ về sự khen ngợi (tán tụng),
hình thành vào thế kỷ thứ 20 TTL (trướcTây lịch), gồm 10 quyển, tập hợp các bài
ca ngợi Thần linh, được 1028 bài.
2. Sama Véda: Phỏng
theo ý mà dịch thì Sama Véda có nghĩa là Luận rõ về các sự ca vịnh,
hình thành vào thế kỷ thứ 10 TTL, gồm các bài dùng để hát xướng khi
cúng tế, tổng cộng 1549 bài.
3. Yayur Véda: Phỏng
theo ý mà dịch thì Yayur Véda có nghĩa là Luận rõ về các việc tế
tự cầu đảo, trong ấy bao gồm các bài cầu nguyện trong nghi thức tế lễ.
Ba loại Kinh
Véda trên được xử dụng trong thời gian tế lễ, đều do
hàng Tăng lữ tùy nghi chủ xướng, phúng tụng.
4. Atharva Véda: Sưu
tập các chú thuật, không quan hệ đến việc cúng tế, hình thành
vào thế kỷ thứ 10 TTL, tổng cộng có 20 quyển. Tuy chủ yếu chép các phép thuật
và bùa chú, nhưng xen kẽ vào đó có các bài khoa học làm mầm móng cho Thiên văn
học và Y học sau nầy.
Bốn bộ kinh
Véda trên, sau nầy đều có những sách viết bằng tiếng Phạn giải thích
riêng cho mỗi bộ.
Giáo lý cơ bản của Vệ-Đà
giáo cho rằng, con người thường xuyên có mối quan hệ với Thần
linh và có sự hòa đồng với vũ trụ. Do đó, chỉ có cúng tế, cầu đảo thì con người mới được Thần
linh phò hộ trong mọi công việc. Song hành với các buổi cầu nguyện là
những cuộc hiến tế lớn. Những đồ hiến tế như: Thịt, bơ, sữa, rượu, được dâng
lên Thần linh bằng cách đốt trên giàn hỏa.
Việc cúng tế Thần
linh rất quan trọng, nên dần dần đội ngũ các thầy cúng tế trở
nên quan trọng, có uy tín và quyền lực nhất trong xã hội Ấn Độ, hình thành
đẳng cấp Tăng lữ Bà-La-Môn sau nầy.
II. Bà-La-Môn
giáo:
Đạo Bà-La-Môn hình
thành trên cơ sở Vệ-Đà giáo, khoảng 800 năm trước Tây
lịch, tức là một thời gian không dài lắm trước khi
Đức Phật Thích Ca mở Phật giáo ở Ấn Độ.
Đạo Bà-La-Môn đưa ra những
kinh sách giải thích và bình luận Kinh Véda như: Kinh Brahmana, Kinh Upanishad,
Giải thích về Maya (tức là Thế giới ảo ảnh) và về Niết bàn.
Đạo Bà-La-Môn thờ Đấng
Brahma là Đấng tối cao tối linh, là linh hồn của vũ trụ.
1. Sự
phân chia giai cấp xã hội:
Đạo Bà-La-Môn phân chia xã
hội Ấn Độ làm 5 giai cấp. Ai sanh ra trong giai cấp nào thì phải ở mãi trong
giai cấp đó suốt đời.
a) Giai
cấp trên hết là các Tăng lữ Bà-La-Môn:
Họ tự cho rằng họ được sanh
ra từ miệng của Đấng Phạm Thiên (Brahma), nên họ được quyền
giữ địa vị tối cao trong xã hội, độc quyền cúng tế Thượng Đế và các Thần linh.
b) Giai
cấp thứ nhì là Sát-Đế-Lỵ:
Họ được sanh ra
từ vai của Đấng Phạm Thiên. Giai cấp nầy gồm các bậc vua chúa, quí tộc,
trưởng giả, công hầu khanh tướng. Họ nắm quyền cai trị và thưởng phạt dân
chúng.
c) Giai
cấp thứ ba là Phệ-Xá:
Họ được sanh ra
từ hông của Đấng Phạm Thiên. Giai cấp nầy gồm các nhà thương mãi, các
trại chủ giàu có. Họ nắm kinh tế, chuyên môn mua bán làm ăn với các từng lớp dân
chúng trong xã hội.
d) Giai
cấp thứ tư là Thủ-Đà-La:
Họ được sanh ra
từ chân của Đấng Phạm Thiên. Giai cấp nầy gồm các nông dân và công
nhân nghèo khổ.
e) Giai
cấp thứ năm là Chiên-Đà-La:
Đây là giai cấp thấp kém
nhứt trong xã hội Ấn Độ, gồm các người làm các nghề hèn hạ như: Ở đợ,
làm mướn, chèo ghe, giết súc vật, vv…
Giai cấp Tăng lữ
Bà-La-Môn dựa vào thế lực tôn giáo để củng cố địa vị và quyền lợi của họ.
Họ tìm đủ phương pháp để bảo hộ và duy trì chế độ giai cấp,
nương theo thần thoại, chế ra Luật pháp Manu, kỳ thị giai cấp, không cho gả cưới
giữa 2 giai cấp khác nhau.
2.Giáo luật:
Giới Tăng lữ
Bà-La-Môn được chia làm 3 bực: Sơ khởi, Trung và Thượng.
Sơ khởi là
những vị sư cúng lễ thường và những vị phục sự nơi đền
chùa. Họ tụng 3 Bộ Kinh Véda đầu, gồm: Rig Véda, Yayur Véda, Sama Véda. Họ hành
lễ, chứng lễ các cuộc cúng tế, nên thường trực tiếp với dân
chúng.
Bực trung là
những vị sư bói toán, tiên tri, thỉnh Quỉ Thần, thỉnh thoảng họ làm vài phép
linh cho dân chúng phục. Hạng nầy đọc và giảng giải Bộ Kinh Véda thứ
tư là Atharva Véda. Bộ Kinh thứ tư nầy có nội dung cao hơn 3 Bộ Kinh trước và
có những câu Thần chú.
Bực thượng là
bực cao hơn hết, gồm các vị sư không còn trực tiếp với dân chúng. Hạng nầy
chuyên nghiên cứu các lực vô hình trong vũ trụ.
Hạng Bà-La-Môn sơ
khởi phải tu học 20 năm mới lên hạng trung. Hạng
trung tu học 20 năm mới lên hạng thượng.
Trên hết là một vị
sư chưởng quản tôn giáo làm Giáo Chủ. Vị Giáo Chủ nầy có 70 vị sư phụ tá.
Các Tăng lữ
Bà-La-Môn phải giữ 10 Điều Giới luật:
1. Nhẫn
nhục.
2. Làm
phải (lấy điều lành mà trả điều ác).
3. Điều
độ.
4. Ngay
thật.
5. Giữ
mình trong sạch.
6. Làm
chủ giác quan.
7. Biết
rành Kinh Luật Véda.
8. Biết
rõ Đấng Phạm Thiên.
9. Nói
lời chơn thật.
10.Giữ mình đừng giận.
3.Thuyết
Ashrama:
Thuyết Ashrama về 4 giai
đoạn mà con người phải trải qua để cho đời sống
trần thế nhập vào việc hành sự tôn giáo, kể ra sau đây:
a) Phạn hành kỳ: Theo
thầy học tập Kinh Vệ-Đà, tiếp thu huấn luyện tôn giáo, thời gian là
12 năm.
b) Gia trú kỳ: Sống
cuộc sống thế tục ở gia đình, lấy vợ sanh con, làm các ngành nghề trong xã hội để mưu
cầu cuộc sống. không vi phạm chống lại bổn phận của một tín đồ
Bà-La-Môn, tiến hành việc thờ cúng ở gia đình và bố thí.
c) Lâm thế kỳ: Việc
nhà đã xong, bản thân hoặc dắt theo vợ vào ẩn cư trong rừng, sống đời khổ
hạnh để bản thân chứng ngộ được Đấng Brahma.
d) Độn thế kỳ: Bỏ
nhà đi vân du 4 phương, sống bằng cách nhận bố thí của dân
chúng, mục đích để đạt được sự giải thoát của linh
hồn.
4. Brahman
và Atman:
Brahman là
nguồn gốc tối cao của vũ trụ, tức là Đại Ngã, là Đại Vũ trụ,
là Đại hồn, nay thường gọi là Thượng Đế.
Atman là
bản ngã của con người, là Tiểu Ngã, là Tiểu hồn, Tiểu Vũ trụ. Nó
chỉ là một phần rất nhỏ của Đại Ngã tách ra. Do
đó, Brahman và Atman đồng bản chất, nên thông đồng được với nhau.
Tu luyện là để đạt được sự
giải thoát của linh hồn khỏi các khổ não ràng buộc nơi cõi
trần để đem Atman trở về hiệp nhứt với Brahman.
Nhận thức được Chơn
lý nầy, không phải do trí tuệ, mà do sự giác ngộ của toàn bộ bản thể.
Nếu không giải thoát được thì không dứt khỏi Nghiệp (Karma), tức
là không dứt khỏi Luân hồi, phải đầu thai trở lại cõi
trần, hết kiếp nọ tới kiếp kia.
5. Nghiệp
báo - Luân hồi :
Kinh
Upanishad đã nêu ra vấn đề Nghiệp báo và Luân hồi một cách
có hệ thống.
Nghiệp (Karma) được tạo
ra bởi những hành vi thiện ác của con người, sẽ quyết định việc
luân hồi chuyển kiếp của linh hồn người ấy sau khi chết. Nếu người nào làm
điều thiện, linh hồn sẽ được chuyển kiếp thành người ở giai cấp cao hơn, và có
thể thành một vị Thần, nhập vào Thiên Đạo. Nếu người ấy làm nhiều điều ác thì
linh hồn sẽ chuyển kiếp đầu thai vào những giai cấp thấp kém khổ sở, và có thể
bị trừng phạt đọa đày.
Con đường giải thoát là
Thiền định, nhưng con đường tu nầy quá khổ hạnh, ít người theo được, nên đa số
tín đồ theo việc thờ cúng Thần linh, tự kềm chế dục vọng của mình và làm việc từ
thiện.
II. Ấn Độ giáo:
Đạo Bà-La-Môn là quốc
giáo của nước Ấn Độ. Nhưng khi Phật giáo của Đức Phật
Thích Ca truyền bá thì ảnh hưởng của Đạo Bà-La-Môn thu hẹp dần.
Qua nhiều lần cải cách để phù hợp phần nào trào lưu tiến
hóa của dân chúng, đến thế kỷ thứ nhứt sau Tây lịch, Đạo
Bà-La-Môn biến thành Ấn Độ giáo (nói tắt là Ấn giáo).
Ấn Độ giáo vẫn giữ những
nét chánh của Đạo Bà-La-Môn, thờ Đấng Brahma, về sau thờ thêm 2 Đấng
nữa là Civa (Siva) và Vishnu hay Christna.
- Đấng Brahma là Thần
Sáng tạo,
- Đấng Civa là
Thần Tranh đấu,
- Đấng
Vishnu là Thần Bảo tồn.
Ấn Độ giáo còn thờ các vị
Thần thuở xưa khác như: - Thần Sấm Indra, - Thần Mặt Trời Surya, - Thần lửa
Agni, - Thần gió Vayu, - Thần không trung Varuna.
Ấn Độ giáo vẫn giữ sự phân
chia giai cấp của xã hội giống như Đạo Bà-La-Môn.
Ấn Độ giáo phân
thành nhiều Chi phái, chủ yếu có 2 phái lớn là Vishnu và Civa (Siva),
đồng thời nuôi dưỡng nhiều môn phái triết học mà nổi tiếng nhứt là 2
môn phái: Védanta và Yoga.
Để dễ dàng hòa nhập vào
đông đảo dân chúng, ở giai đoạn nầy, nhiều nghi thức tế lễ được đơn
giản hóa, những sự hiến tế súc vật tốn kém đượcbãi bỏ. Đến thế kỷ 19 và
20, một số nhà hoạt động nổi tiếng của Ấn Độ giáo như : Ram
Mohan Roy, Rama Krishna, Viveka Nanda, đã làm cuộc canh tân lớn đối với
Ấn Độ giáo, phục hồi những giá trị cơ bản và loại trừ các yếu tố lạc hậu và
thái quá ra khỏi tư tưởng của Đạo nầy. Chính nhờ khả năng thay đổi
thích ứng mà Ấn Độ giáo vẫn luôn luôn là tôn giáo chính của người Ấn
và có ảnh hưởng sâu xa đến mọi từng lớp dân chúng từ xưa tới
nay.
Theo thống kê sơ lược năm 1980,
Ấn Độ giáo hiện nay có tới 554 triệu tín đồ, đa số là người Ấn Độ.
Trong những năm gần
đây, những hoạt động mang tính quốc tế của Ấn Độ giáo rất phong
phú:
Năm 1979 tại Allahabad (Ấn
Độ), năm 1980 tại Colombo (Tích Lan), năm 1981 tại Népal, đã lần lượt
triệu tập Đại hội các tín đồ theo Ấn Độ giáo trên toàn thế giới, để thảo
luận các vấn đề khó khăn của Ấn Độ giáo, làm thế nào cho Ấn
Độ giáo thích ứng đời sống văn minh của dân chúng hiện
đại, và thiết lập những mối liên hệ quốc tế giữa Ấn Độ giáo với các tôn giáo
khác một cách hữu nghị tốt đẹp.
* Phái Cựu giáo.
* Phái Tân giáo.
Lạt-Ma,
do phiên âm từ tiếng Tây Tạng, Anh văn và Pháp văn đều viết là:
LAMA, nghĩa là các thầy tu theo Phật giáo ở nước Tây Tạng.
Ở Tây Tạng, Thầy tu Lạt-Ma
cầm quyền quốc chánh, nhà vua và các quan đều là Thầy tu. Hạng Thầy tu nầy chiếm
¼ số dân Tây Tạng, rấtđược dân chúng trọng vọng.
Nhiều vị Lạt-Ma có phép Thần
thông, làm được mưa gió, có phép rút đường, biết được quá
khứ vị lai. Ông vua của nước Tây Tạng là mộtvị Lạt-Ma, được gọi
là Đức Đạt-Lai Lạt-Ma (Dalai-Lama), được dân Tây Tạng tôn là vị Phật
Sống (Hoạt Phật) của họ. Ngài cũng là Giáo Chủ của Lạt-Ma
giáo.
Ngài có phép Thần
thông, mỗi khi gần tịch (chết), Ngài cho biết Ngài sẽ hóa
thân trở lại và để lại một vài chứng tích. Các vị
Lạt-Ma có nhiệm vụ tìm kiếm vị Hóa thân, rồi đến đó thử nghiệm xem có
đúng như vậy không. Nếu đúng thì các vị Lạt-Ma sẽ đến lập một chương
trình giáo hóa đặc biệt vị Hóa thân nầy cho đến tuổi trưởng
thành, rồi thỉnh Ngài về kinh đô, tôn lên ngôi Đạt-Lai Lạt-Ma, làm vua
cai quản đất nước và tín dồ Tây Tạng.
Có nhiều vị Lạt-Ma có
trình độ tu học rất cao, làm Giáo Sư Thần học ở các trường Đại học.
Lạt-Ma giáo là
quốc giáo của nước Tây Tạng, có nguồn gốc là Phật giáo Đại thừa Mật Tông từ Ấn
Độ truyền qua Tây Tạng , khoảng đầu thế kỷ thứ 7, ứng với thời nhà Đường bên
Tàu. Lạt-Ma giáo lan rộng qua tới Mông Cổ và Mãn Châu. Bởi người ta thấy các Thầy
tu của tôn giáo nầy được gọi là Lạt-Ma, nên tôn giáo ấy được gọi là Lạt-Ma
giáo.
Tuy có nguồn gốc Phật
giáo, nhưng Lạt-Ma giáo biến thể rất nhiều cho hợp với người Tây Tạng, cũng vì
vậy, Lạt-Ma giáo được gọi là Phật giáo Tây Tạng.
Lạt-Ma giáo có 2 phái lớn:
Cựu giáo và Tân giáo.
I. Phái Cựu Giáo:
Phái Cựu giáo mặc áo đỏ, đội
mũ đỏ, nên còn được gọi là HỒNG GIÁO, chuyên luyện các phép thuật,
các môn Thần bí, dung hòa với tư tưởng bình dân. Nhưng càng về sau, tông phái nầy
vàng đi sâu vào chỗ yêu thuật, tà vọng.
II. Phái
Tân Giáo:
Phái Tân giáo mặc áo vàng,
đội mũ vàng, nên còn được gọi là HOÀNG GIÁO, là phái cải cách do vị Lạt-Ma
Tsong-Khapa sáng lập vào thế kỷ thứ 14, ứng với thời nhà Minh bên Tàu. Đến đời nhà
Thanh, phái nầy được triều đình nước Tây Tạng công nhận là
Chánh giáo, được triều đình bảo hộ, làm Quốc giáo Tây Tạng. Các vị Thầy
tu có nghi thức đúng đắn hơn, giữ hạnh thanh tịnh Phật giáo, được ở
trong các ngôi chùa lớn mà Ban Tăng già có đến hàng ngàn người.
Phái Hoàng Giáo, tức
là Lạt-Ma Giáo chánh thức, có 2 vị Chúa tể nắm giữ mối đạo và cầm quyền
cai trị dân chúng:
1) Đức Đạt-Lai
Lạt-Ma (Dalai Lama): được dân
chúng tin rằng, Ngài là hóa thân của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, ngự
tại Đền Potala, kinh đô Lhassa, nước Tây Tạng.
Bên Tây Tạng, người
ta quan niện rằng, Đức Quan Thế Âm Bồ Tát là một vị Phật Nam,
nên các hình tượng của Ngài đều là Nam giới, trái với Trung Hoa và Việt
nam, Đức Quan Thế Âm Bồ Tái là một vị Nữ Phật.
2) Đức
Ban-Thiền Lạt-Ma (Pentchen Lama): đứng hàng thứ
nhì sau Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, là hóa thân của Đức Phật A-Di-Đà, trụ tại
ngôi chùa lớn Trát-Thập Luân-Bố (Trashi-Lumpo) ở tại thành Shigatsé.
“Cơ cấu tổ chức các
tu viện tại Tây Tạng khá chặt chẽ và rất giống với cách tổ chức tôn giáo thường
thấy ở các quốc gia Tây phương.
Đứng đầu Giáo Hội
là Đức Đạt-Lai Lạt-Ma. Dưới quyền lãnh đạo của Ngài là một Hội
Đồng Tôn giáo gồm 4 vị Trưỡng Lão : 1 vị Đại diện Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, còn 3 vị
kia là Sư Trưởng của 3 Tu viện lớn nhứt Tây Tạng, còn gọi là Tam Đỉnh
Viện : Drepung, Sera, Ganden. Thực ra, đây là 3 Đại học Phật giáo thì
đúng hơn, vì nhiệm vụ chính của 3 Tu Viện nầy là đào tạo và huấn luyện
các tu sĩ. Dĩ nhiên, mỗi Tu Viện đều cómột chương trình
giáo dục và kỷ luật riêng.
GANDEN chú trọng nhiều
về Giới luật và các phương pháp tu kín.
DREPUNG nổi tiếng sản xuất
nhiều bậc học giả lỗi lạc uyên bác.
SERA rất thành công trong
công việc đào tạo các tu sĩ có tinh thần xã hội, đi sâu vào đời sống dân chúng nhiều
hơn.
Ngoài 3 Tu Viện lớn, còn
có rất nhiều chi nhánh của 3 Tu Viện nầy. Đây cũng là những Đại học Phật giáo
nhưng có tính cách địa phương. Các tu sĩ học nơi đây và thi đậu các kỳ thi Lạt-Ma
cấp thấp. Muốn lên bậc cao hơn, họ phải xin thi tuyển vào học nơi các Đỉnh Viện.
Theo tài liệu của Điện
Potala, năm 1959, Tây Tạng có hơn 6000 ngôi chùa và 200 Tu viện lớn nhỏ. Với
dân số vài triệu người, ta không ngạc nhiên khi thấy ¼ dân số Tây tạng là
tu sĩ. Gần như gia đình nào cũng có người xuất gia. Phật giáo đã ảnh hưởng mạnh
mẽ đến đời sống xã hội, phong tục, văn hóa của xứ nầy.
Thông thường một đứa trẻ
gia nhập Tu viện vào năm 7 tuổi. Lúc đầu nó được huấn luyện vào các công việc lặt
vặt để xem có thể thích hợp với đời sống ở Tu viện không. Sau đó ít lâu, nếu được
chấp nhận làm đệ tử sơ cơ, nó sẽ phải giữ 16 giới luật căn bản và được
làm lễ thí phát, nhưng vẫn giữ một chỏm tóc trên đầu để phân biệt với những
người đã phát nguyện giữ thêm 20 giới luật nữa, gọi là đệ tử trung cấp. đầu được
cạo trọc hoàn toàn, và có một Pháp danh riêng.
Chỉ khi nào quá 20 tuổi,
thi đậu những kỳ thi Phật học thì mới được gọi là Lạt-Ma. Từ đây, những Lạt-Ma
có thể chọn con đường của mình để tiếp tục học thi những bằng cấp khác, và tùy
theo ngành chuyên môn, họ có thể trở thành: Y sĩ, Giảng sư, Tiến sĩ, …
Vì tất cả Đại học đều là
Tu viện, nên gần như tất cả những người có khả năng chuyên môn đều là những tu
sĩ.
Dĩ nhiên, không phải tu sĩ
nào cũng vượt qua được các kỳ thi chuyên môn, một số không được vào Đại học thì
trở nên những tu sĩ làm các công việc thông thường như : Nấu ăn, xây cất,
tạc tượng, đúc chuông,… hoặc canh gác Tu viện.
Lạt-Ma giáo Tây Tạng phát
triển được như vậy là nhờ công lớn của một Tu sĩ tên là Tsong-Khapa
(1357-1419).
Tsong-Khapa là một Tu sĩ
thông minh đỉnh ngộ, xuất gia thọ giới với phái Kadampa của Đại sư Atisha,
nhưng ông vẫn không thỏa mãn , nên sau thời gian, ông lại theo học với các cao
tăng danh tiếng của các phái Nyingmapa, Kagyupa, và Sakyapa.
Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng
tất cả tinh hoa của những tông phái trên, Tsong Khapa bèn nhập thất trong một động
đá trên dãy núi Tuyết sơn, để suy gẫm về những điều đã học. Ông nhận thức rằng,
Phật giáo khi truyền vào Tây Tạng, đã chịu ảnh hưởng khá nhiều của tôn
giáo Bon Pa (một tôn giáo cổ của người Tây Tạng xưa), nên giáo
lý Phật giáo bị pha trộn và thay đổi để nghiêng hẳn về Huyền học, Thần thông,
mà bỏ qua mục đích tu thân và cầu giải thoát như Đức Phật đã dạy.
Để chống lại sự đàn áp của
nhóm Bon Pa, Lạt-Ma giáo đã được tổ chức chặt chẽ thành những môn phái, nhưng
chính sự tổ chức nầy đã đưa Lạt-Ma giáo vào con đường suy vong, chỉ còn hình thức
mà thiếu nội dung, chỉ có bên ngoài mà thiếu chiều sâu.
Vì sự kết hợp chặt chẽ
trong phe phái, dần dần các tu sĩ trở nên lười biếng, không gìn giữ giới luật
và coi việc tu hành như một nghề nghiệp hướng dẫn tinh thần dân chúng, hơn là
tu thân cầu giải thoát. Tệ hơn nữa, các nghi thức hành lễ đã bị pha trộn với
Huyền thuật, trở thành cúng vái, xin xỏ, lên đồng nhập cốt, giải đáp lá số
chiêm tinh, bùa chú thư phù. Các tinh hoa của Phật pháp được cất giữ, không đem
ra giảng dạy, chỉ có các hình thức bề ngoài được đề cao. Các tu sĩ không chịu
tu học mà chỉ đặt trọng tâm vào các vấn đề sắc tướng, như kêu gọi dân
chúng xây chùa, đúc tượng, để được phước, cúng vái cầu xin các năng lực huyền
bí bên ngoài, sử dụng Huyền thuật vào mục đích tư lợi, tu hành để đắc Thần
thông, trụ vào các cõi Trời hưởng lạc, thay vì vượt lên trên để thoát khỏi sanh
tử luân hồi.
Đã thế còn pha trộn các
hình thức của phái Bon Pa, như Luật Thừa kế tôn giáo (Religious inheritance),
cho phép tu sĩ lập gia đình và sử dụng ngôi chùa như nhà riêng. Họ sinh con đẻ
cái, và nếu cha làm Lạt-Ma thì đương nhiên con cũng thành Lạt Ma, khỏi phải tu
học mất công, rồi đến con cháu cũng đều thành Lạt-Ma hết.
Tệ đoan nầy kéo dài trong
nhiều thế kỷ và được chấp nhận như một việc hiển nhiên, không ai chất vấn hay đặt
vấn đề Giới luật cho các vị Lạt-Ma nữa.
Tsong Khapa đi khắp nơi giảng
dạy Phật pháp, đề cao Giới luật và khuyến khích việc học tập kinh điển. Ông chỉ
trích nặng nề việc pha trộn các mê tín dị đoan và thực hành Huyền thuật trong
các Tu viện. Ông phủ nhận tất cả những phương tiện nào không theo đúng như lời
Phật dạy, và gọi đó là Tà pháp.
Ông là người đầu tiên đặt
ra những phương pháp cải cách hết sức khoa học để gạn lọc các hình thức mê tín
dị đoan trà trộn vào Phật pháp.
Sau một thời gian đi khắp
Tây Tạng thuyết giảng, Ông lập Tu viện Ganden để huấn luyện tu sĩ. Học trò của
Ông đều đội mũ vàng, nên được gọi là phái Mũ vàng (Gelugpas), phân biệt với
phái thành lập trước đó thường đội mũ đỏ (Dugpas).
Cuộc chấn hưng Lạt-Ma
giáo của Tsong Khapa đem lại một sinh khí mới cho
Lạt-Ma giáo, nhưng việc đào tạo những tăng sĩ chọn lọc, có tinh
thần tu học cao, tôn trọng kỷ luật, đòi hỏi thời gian lâu
dài, nhiều thử thách, nên phái Mũ vàng chỉ là thiểu số so với phái Mũ
đỏ.
Trong suốt mấy
trăm năm, không những phái Mũ đỏ chiếm đa số mà còn tạo nhiều ảnh
hưởng đối với các Lãnh Chúa, Tiểu Vương, mặc dù họ không sản xuất được những
tu sĩ xuất sắc như phái Mũ vàng. Tuy nhiên, theo thời gian, các tu sĩ Mũ đỏ
bị quần chúng coi thường, bất tín nhiệm, nên cũng mất dần ảnh hưởng.
80 Sau khi Ông Tsong Khapa
qua đời, đệ tử của Ông tiếp tục công việc chấn hưng Lạt-Ma giáo, huấn luyện đào
tạo các tăng sĩ giới đức, khuyến khích tín đồ tự tu, tự học, chớ nên ỷ lại vào
các tu sĩ, vì tu sĩ chỉ là người hướng dẫn, chớ không thể cứu độ được ai hết.
Việc nầy gặp phải sự chống
đối mãnh liệt của các tông phái khác, vì đụng chạm tới quyền lợi của họ.
Trưởng môn phái Mũ Vàng là Gedun
Truppa ý thức rõ sự đe dọa nầy, nên trước khi chết,
Ông đã cho các đệ tử biết rằng, Ông sẽ hóa thân trở lại để tiếp
tục lãnh đạo phái Mũ Vàng. Ông để lại một bài kệ và ít di vật
làm tin.
Phong tục Tây Tạng tin rằng
khi một tu sĩ đã đạt đến trình độ cao, họ có thể
chọn lựa đời sống ở một cõi khác, hoặc trở lại thế
gian để tiếp tục công việc còn dở dang. Những người trở
lại thế gian như thế được gọi là Hóa Thân.
Hai năm sau, một đứa
bé trai lên 2 tuổi đã giải đáp được Bài kệ, cũng như phân
biệt rõ các di vật của Gedun Truppa, nên được phái
Mũ Vàng suy tôn lên làm Sư Trưởng (Rinpoche), lấy Pháp danh là Gedun
Gyatso.
Tiếp tục đường lối của Gedun
Truppa là khuyến khích các tín đồ tự tu tự học. Sư Trưởng Gyatso đi khắp nơi hoằng
dương giáp pháp, đượcdân chúng vô cùng kính nể, gọi là Liên Hoa Sư Trưởng
(The Lotus Rinpoche).
Trước sự phát triển của phái
Mũ Vàng, các phái Mũ đỏ, nhất là phái Karmapas, vốn có quân đội riêng, thẳng
tay trừng trị những tu sĩ Mũ Vàng nào bén mảng đến vùng Chang
Tsang của họ.
Một cuộc chiến tranh tôn
giáo giữa các tông phái sắp xảy ra thì Sư Trưởng Gedun Gyatso bị bạo bệnh từ trần.
Trước khi chết, Ông để lại di chúc rằng Ông sẽ trở lại để hoàn
tất công việc phục hưng Lạt-Ma giáo.
Ít lâu sau, học trò của Ông
tìm gặp một bé trai có những ấn chứng đặc biệt như đã di
chúc tên là Sonam Gyatso.
Khác với 2 kiếp trước,
Sonam Gyatso không những học rộng mà còn có biệt tài hùng biện. Ông có thể giảng
giải tất cả những kinh nổi tiếng khó hiểu một cách dễ dàng. Người
ta gọi Ông là vị Sư Trưởng có lời nói quí như ngọc. Danh tiếng của Ông được đồn
xa đến tận Mông Cổ. Vua nước nầy là A Đại Kha Hãn (Alta
Khan) cho sứ giả qua mời Ông sang Mông Cổ thuyết pháp.
Lịch sử chép rằng, Sonam
Gyatso đến nơi đúng lúc A Đại Kha Hãn đang khởi binh đi đánh nước Nữ
Chân. Sonam bèn xin vua cho Ông thuyết một bài pháp trước khi
kéo binh đi. Trước hằng vạn quân sĩ đang hung hăng, Sonam giảng về đức Từ
bi của Phật. Lời nói chân thành củaÔng có sức rung động mãnh liệt
khiến A Đại Kha Hãn quyết định bãi binh, và mấy vạn quân lính Mông Cổ đều xin
quy y Phật đạo.
Vua A Đại Kha Hãn đặt Phật
giáo lên hàng Quốc giáo, phong cho Sư trưởng Sonam Gyatso làm Đạt-Lai Lạt-Ma,
có nghĩa là vị Lạt-Ma có tấm lòng từ bi rộng như biển. Danh từ Đạt-Lai
Lạt-Ma mới bắt đầu có từ đó.
Vì Sonam Gyatso là Hóa
thân lần thứ ba của Gedun Truppa, nên Ông được gọi là vị Đạt-Lai
Lạt-Ma đời thứ 3.
Nhờ ảnh hưởng của Ông
đối với người Mông Cổ, cuộc chiến giữa các tông phái Mũ Vàng và Mũ đỏ
không xảy ra ở Tây tạng. Phái mũ đỏ Karmapas, dù có quân đội riêng, cũng không
dám tấn công Phái Mũ vàng Gelugpas bằng quân sự.
Sonam Gyatso dành
khá nhiều thời gian truyền bá Phật pháp tại Mông Cổ. Khi đó, thế
lực của Mông Cổ bắt đầu suy yếu, các bộ lạc và Tộc trưởng rất muốn đem
binh chinh phục các nơi, hy vọng những chiến thắng ngoài biên gới sẽ làm
nguôi ngoai lòng bất mãn của dân chúng trong nước. Tuy
nhiên, A Đại Kha Hãn cương quyết giữ đúng lời phát nguyện của Ông trước Sonam
Gyatso, là không gây thêm một cuộc chiến tranh nào nữa. Trước khi từ
trần, nhà vua gởi thư xin Đức Đạt Lai Lạt-Ma Sonam Gyatso hãy chăm lo
cho dân chúng Mông Cổ khỏi rơi vào nạn binh đao.
Năm 1588, Sonam Gyatso từ
trần, để lại một bài kệ rằng Ông sẽ hóa thân trở lại tại
Mông Cổ để làm tròn lời hứa với A Đại Kha Hãn. Cuộc đi tìm vị Hóa
Thân lần thứ 4 nầy rất gay go vì những ấn chứng đặc biệt mà
Sonam di chúc lại.
Sau nhiều năm tìm
kiếm, các vị Lạt-Ma gặp được đứa cháu nội của A Đại
Kha Hãn có được những ấn chứng nầy.
Yonsten Gyatso là vị
Đat-Lai Lạt-Ma duy nhứt không phải là người Tây tạng, và vì xuất thân
trong gia đình vua chúa Mông Cổ, nên Ông không những là người lãnh đạo
phái Mũ Vàng ở Tây Tạng, mà còn là một vị Quốc Sư của triều
đình Mông Cổ. Lúc đó, uy thế của Mông Cổ suy kém nhiều, các bộ lạc
tự ý tách ra tự trị, không tùng phục triều đình nữa. Nhưng trong suốt thời
gian làm Quốc Sư của Yonsten Gyatso, Mông Cổ không gây chiến
với bất cứ quốc gia nào, nên dân chúng hưởng được cảnh thái
bình trong một thời gian khá dài.
Khi Đức Đạt-Lai Lạt-Ma
Yonsten qua đời, đế quốc Mông Cổ tan rã, phái Mũ Đỏ ở Tây Tạng lợi dụng cơ
hội nầy để bành trướng thế lực. Nhóm Mũ Đỏ Karmapas xúi giục Tiểu
Vương xứ Tsang khởi binh tấn công phái Mũ Vàng. Chùa Sera và Drepung bị đốt, hằng
trăm tu sĩ Mũ vàng bị giết. Các tu sĩ Mũ Vàng phải trốn vào rừng, cho đến khi
tìm được vị Hoá thân thứ 5 là Lobsang Gyatso trong một gia
đình nông dân ở Lhassa. Vì hoàn cảnh đặc biệt, họ phải đưa Lobsang qua miền
Tây trú ẩn trong tu viện Talshihunpo.
Lobsang Gyatso được huấn
luyện tại đây cho đến khi trưởng thành chánh thức nhận lãnh chức vụ Đạt-Lai
Lạt-Ma đời thứ 5. Được tin nầy, vị Lãnh chúa xứ Tsang định đem
quân đến vây Tu viện Talshihunpo để trừ tận gốc.
Lịch sử Tây Tạng kể rằng, một trong
những bài kệ để lại đã tiên đoán trước việc nầy,
và nói rằng Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đời thứ 5 sẽ có cách đối phó, nếu Ông
ta đích thực là Hóa thân của Yonsten Gyatso.
Khi được thông
báo, Lobsang Gyatso nói với các tu sĩ Mũ vàng rằng, không một tên
lính nào của xứ Tsang lọt qua được cánh cửa Tu viện
Talshihunpo. Một câu nói dường như vô lý, khi cả ngàn quân lính xứ Tsang sắp sửa
kéo đến.
Nhưng khi Lãnh chúa xứ
Tsang vừa xuất quân thì một Tộc trưởng Mông Cổ là Gusris
Khan đã mang quân Mông Cổ đánh úp xứ nầy, rồi chiếm trọn Tây Tạng. Lịch
sử Mông Cổ chép rằng, Gusris Khan nằm mộng thấy tổ tiên là A Đại Kha Hãn gọi đến trao
nhiệm vụ phải giải phóng xứ Tây Tạng khỏi bọn tà ma hại đạo. Gusris Khan giải
giới nhóm tu sĩ Mũ đỏ Karmapas, tiêu diệt các Lãnh chúa, Tiểu vương, thống nhất
toàn cõi Tây Tạng, rồi Ông mời Lobsang Gyatso trở về Lhassa, trao quyền cai trị
toàn xứ Tây Tạng cho vị Đạt-Lai Lạt-ma đời thứ 5 rồi kéo quân trở về
Mông Cổ.
Từ đó, Tây tạng được đặt dưới quyền
cai trị của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma cho tới ngày nay.
Mặc dầu tất cả Đạt-Lai Lạt-Ma
đều xuất thân từ phái Mũ Vàng (Gelugpas), nhưng phái Mũ Đỏ (Dugpas) vẫn được tôn
trọng và vẫn chiếm số đông.
Lobsang Gyatso nhớ ơn vị
thầy có công dạy dỗ Ông thuở nhỏ tại Tu viện Talshihunpo, nên phong cho
thầy làm chức Ban-Thiền Lạt-Ma (Tashi Lama). Chữ Tây Tạng, Ban
Thiền (Tashi) có nghĩa là vị thầy đáng kính.
Sau đó, các vị Ban -Thiền
Lạt-Ma cũng hóa thân trở lại hướng dẫn tinh thần dân chúng,
mặc dầu nhiệm vụ của vị Ban-Thiền Lạt-Ma chỉ thuần túy trong tôn
giáo mà thôi.
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma Lobsang
Gyatso cho xây Điện Potala trên nền móng Cung điện cũ của Songsten
Gampo và khởi sự ngay một cuộc chấn hưng tôn giáo. Các Tu viện được xây
dựng khắp nơi để đào tạo Tu sĩ, nhiều kỳ thi Phật học được tổ
chức để gạt bỏ những người mượn áo tu hành làm điều sái quấy.
Tục lệ thừa kế trong tôn giáo được bãi bỏ, các tu sĩ phải thi đậu các
kỳ thi Phật học mới được bổ nhiệm làm Trụ trì các Tu
viện, nhưng cũng chỉ hành quyền một thời gian ấn định để tránh
sự quyến luyến một chốn nào. Sau một thời gian hoằng
dương giáo pháp, các tu sĩ nầy được đưa đến những Tu viện
cao hơn để học hỏi thêm.
Để tránh tình trạng chia rẽ
giữa các tông phái, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma Lobsang cho thành lập một Hội
Đồng Trưởng Lão để điều hành và bổ nhiệm các tu sĩ có tài năng và đức
độ vào những chức vụ hành chánh quan trọng.
Một Hội Đồng Tôn giáo
cũng được thành lập để lo các vấn đề tôn giáo và
bảo đảm các tông phái đều được tôn trọng như nhau, trong tinh thần hòa
ái khiêm cung.
Các kinh điển từ trước vẫn được cất
kỹ thì nay đem ra truyền bá sâu rộng để khuyến khích phong trào tu học
trong nước. Mọi gia đình đềuđược khuyến khích gởi con cái vào học
trong các Tu viện, để trở thành những vị Lạt-Ma.
(Danh từ Lạt-Ma
không chỉ có nghĩa là Tu sĩ, mà nghĩa chánh của nó là một người học
thức thi đậu kỳ thi Phật học. Sau đó họ có thể lấy vợ, sống như người dân
bình thường. Khi nào phátnguyện xuất gia tu hành thì mới gọi
là Tu sĩ. Tất cả Tu sĩ đều phải thi đậu kỳ thi Phật học, nên các Tu sĩ đều
là Lạt-Ma, nhưng Lạt-Ma chưa hẳn là Tu sĩ,)
Tây Tạng từ trước đến nay
vẫn là một xứ rộng lớn, địa thế hiểm trở, các vùng thường sanh
hoạt tự trị, nhưng Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đời thứ 5 tỏ ra là một nhà
lãnh đạo tài giỏi, không những Ngài tổ chức lại guồng máy điều hành một cách
khôn khéo mà còn thống nhứt toàn xứ Tây Tạngdưới danh nghĩa tôn giáo.
Các gia đình quí tộc, các
Tù trưởng, từ trước vẫn nắm quyền hành và quân đội, nay được mời
vào Hội Đồng Địa phương, một chức vụ cho phép họ thâu thuế, kiểm
soát an ninh trật tự, mặc dầu quyền hành của họ ít nhiều bị
giới hạn và chịu sự kiểm soát của các Tse Drung (giống như chức vụ Tỉnh
trưởng).
Trong suốt 300 năm,
guồng máy hành chánh của Tây Tạng gần như không thay đổi và vẫn giữ được tánh
cách thống nhứt, độc lập dưới sự cai trị của các Đạt-Lai Lạt-Ma.
Ngoài vị Đạt-Lai Lạt-Ma đời thứ
5 vẫn được tôn sùng nhất, lịch sử Tây Tạng còn ghi nhận vị Đạt-Lai Lạt-Ma
thứ 13 như một vị có công lớn về phương diện tôn giáo và
chánh trị.
Thupten Gyatso (1876-1933)
nhận trách nhiệm lãnh đạo Tây Tạng khi quốc gia nầy phải đối phó với nhiều áp
lực chưa từng có. Về mặt đối ngoại, Ngài phải lo đối phó với Nga, Anh và Trung
Hoa. Về đối nội, Ngài phải dàn xếp sự tranh chấp giữa các tông phái, ngay trong
nôi bộ củaphái Mũ Vàng cũng có nhiều rạn nứt trầm trọng.
Trong suốt mấy thế kỷ liền,
Hội Đồng Trưởng Lão đã nắm quyền khi các vị Đạt-Lai Lạt-Ma còn nhỏ tuổi,
và họ đã thao túng chính trường, lập thành những phe nhóm chống
đối nhau. Một số có ý đặt ra các luật lệ dành nhiều quyền lợi
cho giới tăng sĩ phe mình; một số khác lại muốnchú trọng vào con
đường tu luyện Thần thông hơn là theo đúng con đường của Đức Phật.
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma Thupten
Gyatso có đầu óc mở rộng hơn những vị Đạt-Lai Lạt-Ma trước, nên
sau khi nhậm chức, Ngài giới hạn quyền hành của các Trưởng Lão và
thay thế Hội Đồng Trưởng Lão nầy bằng một Nội Các gồm nhiều nhân
vật dân sự. Ngài là người đầu tiên khởi xướng chương trình giáo dục mở
rộng cho tất cả mọi người, chớ không dành riêng cho giới quí tộc hoặc tu
sĩ.
Ngài thay đổi toàn bộ luật
pháp đặt ra từ những thế kỷ trước, hủy bỏ án tử hình, giảm nhẹ
các hình phạt, bỏ bớt thuế khóa, xây bệnh viện, trường học, mở mang
đường sá, và phát động nhiều công cuộc cải cách xã hội khác.
Dĩ nhiên, Ngài gặp sự
chống đối mãnh liệt của giới tu sĩ và quí tộc, nhưng
Ngài đã can đảm tổ chức lại Giáo hội, nhấn mạnh việc tu
thântrước khi tham dự vào các công việc xã hội, và chánh trị. Điều
mà Ngài chưa thi hành được là thay đổi chánh sách bế quan tỏa cảng của các
Đạt-Lai Lạt-Ma đời trước, vì gặp phải sự chống đối rất mãnh
liệt của Nội Các.
Năm 1904, nước Tây Tạng
bị quân đội Anh quốc từ Ấn Độ đem quân xâm lăng. Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đời thứ
13 phải qua lánh nạn tại Trung Hoa.
Tại Trung Hoa, Ngài nhận
thấy nước Trung Hoa cũng đang bị các nước Tây phương xâu
xé. Ngài dự định, khi Ngài được trở về Tây Tạng, Ngài sẽ cương quyết
thi hành những chánh sách mới, hầu đưa Tây Tạng thoát khỏi vết xe
cũ.
Sau cuộc thương thuyết với
Chánh phủ Anh, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma trở về nước. Vì sự chống đối của Nội
Các và Hội Đồng Trưởng Lão, Ngài không thể cải cách xã hội Tây Tạng
như ý muốn được nữa. Ngài dành trọn thời giờ để Thiền
định và giảng dạy kinh điển cho các tu sĩ trẻ.
Trước khi qua đời,
Ngài cảnh cáo rằng, Tây Tạng sắp bước vào một giai đoạn thử
thách mới, và chỉ có sự chuẩn bị mới giúp họ thoát
khỏi tai ách lớn lao nầy.
Khi Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đời thứ
13 (Thupten Gyatso) qua đời, Hội Đồng Trưởng Lão quyết định áp dụng chánh
sách bế quan tỏa cảng.
Trong lúc đó, thời
cuộc thế giới bên ngoài thay đổi mau chóng, với cuộc Cách Mạng Trung Hoa, cuộc
xâm lăng của Nhựt Bổn, cuộc Cách mạng Vô sản ở Trung Hoa, hai cuộc Thế
giới Chiến tranh. Vả lại, Hội Đồng Trưởng lão lại quá bận rộn trong công
việc tìm kiếm vị Đạt-Lai Lạt-Ma đờithứ 14, nên không chú ý nhiều đến vấn
đề đổi thay thời cuộc bên ngoài.
Năm 1950, Quân đội Trung
Hoa Cộng sản, tràn qua biên giới Tây Tạng, mở đầu một cuộc xâm
lăng qui mô. Họ đàn áp dã man các cuộc nổi dậy đòi độc lập của người Tây
Tạng và đặt ách thống trị dưới chiêu bài Giải phóng.
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đời thứ
14 bị giam lỏng tại Điện Potala trong 9 năm liền. Cho đến tháng
4 năm 1959, Ngài mới trốn thoát được và
sang tỵ nạn nơi nước Ấn Độ.
Mặc dầu Đức Đạt-Lai Lạt-Ma
chủ trương bất bạo động, kêu gọi thế giới giúp Tây Tạng phục hồi chủ quyền
quốc gia, nhưng nhiều ngườiTây Tạng trong nước vẫn tổ chức
các cuộc kháng chiến, cương quyết đánh đuổi quân xâm lăng Trung quốc. Nhiều cuộc
nổi dậy đẫm máu xảy ra trong mấy mươi năm qua mà thế giới bên
ngoài vẫn cố tình làm lơ như không nghe biết.
Việc Đức Đạt-Lai Lạt-Ma
qua Ấn Độ xin tỵ nạn chánh trị làm cho Thủ Tướng Nehru của Ấn Độ bối
rối, vì hiện tại, việc ngoại giao giữa 2 nước (Ấn Độ và
Trung quốc) đang tốt đẹp. Nếu từ chối việc tỵ nạn của Đức Đạt-Lai
Lạt-Ma thì sẽ gây nhiều phản ứng quốc tế bất lợi cho Ấn Độ, nhưng nếu
chấp nhận cho tỵ nạn thì Ấn Độ có thể gặp nhiều khó khăn về ngoại
giao đối với Trung quốc.
Để đối phó với dư luận thế
giới đang sôi nổi về việc nầy, Thủ Tướng Nehru có một quyết
định rất khôn khéo là: Một mặt, Ông tuyên bố trước Quốc hội
rằng, việc tỵ nạn của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma chỉ là sự tranh chấp
nội bộ của người Tây Tạng, Ấn Đô không có lý do gì để dính
dáng đến những cuộc tranh chấp nầy; mặt khác, Ông tức tốc tìm
ngay một địa điểm thật hẻo lánh để đưa Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đến đó
tạm trú, hy vọng theo thời gian, vấn đề Tây Tạng sẽ chìm vào
quên lãng. Dharamsala được chọn vì vị trí đặc biệt nầy.
Đây là một thị
trấn nhỏ ở miền cực Bắc Ấn Độ, nằm sâu trong thung lũng Kangra, 4 bề được bao
bọc bởi những dãy núi của Hy-Mã-Lạp Sơn, chỉ có độc một con
đường giao thông với bên ngoài. Trước đây, Dharamsala chỉ là một đồn
lính biên phòng của quân đội Anh có tên là Macleod Ganj, khi người Anh
trao trả độc lập cho Ấn Độ, quân đội Anh rút đi, đồn nầy bị bỏ hoang, chỉ có chừng
200 người dân địa phương cư ngụ nơi đây. Trục
giao thông duy nhất là một con đường nhỏ hẹp, ngoằn ngoèo, hư xấu, thường bị
tuyết phủ kín vào mùa Đông, cắt đứt mọi liên lạc với bên ngoài.
Điều mà Thủ Tướng Ấn không
ngờ là, chỉ trong một thời gian ngắn, hơn 40 000 người dân
Tây Tạng tỵ nạn kéo về đây ở để ủng hộ Đức Đạt-Lai Lạt-Ma của họ,
biến thị trấn hoang vu nầy thành một nơi đông đảo mà báo chí
Tây phương gọi là “Little Lhassa” (Lhassa nhỏ), thủ đô của dân
tỵ nạn Tây Tạng.
I. Định nghĩa:
Lão giáo là tôn giáo do Đức
Lão Tử lập nên và làm Giáo chủ.
Cứu cánh của Lão
giáo là dạy con người tu luyện thành Tiên, nên Lão giáo còn được gọi
là Tiên giáo.
Quyển sách căn bản của Lão
giáo là Đạo Đức Kinh, do Đức Lão Tử viết ra. Trong quyển sách nầy,
Đức Lão Tử bàn luận nhiều về chữ ĐẠO. Theo Đức Lão Tử, ĐẠO là cái vô
danh có trước Trời Đất, yên lặng trống không, huyền diệu vô cùng, tạo
ra Trời Đất và hóa sanh vạn vật. (Xem chi tiết nơi phần
Đạo Đức Kinh phía sau).
Lão giáo chủ yếu dạy về chữ
ĐẠO, nên Lão giáo cũng được gọi là Đạo giáo : Tôn
giáo dạy về chữ Đạo.
Vậy, Lão giáo, Tiên giáo,
Đạo giáo đều chỉ một nền tôn giáo do Đức Lão Tử lập nên, là một trong
3 nền tôn giáo lớn (Tam Giáo) ở Á Đông.
II. Nguồn gốc của Tiên
giáo:
Tiên giáo có từ rất lâu đời,
khi hình thành xã hội loài người, nhưng thuở đó, con người chưa
văn minh, chưa có chữ viết, nên chỉ dạy nhau bằng cách truyền khẩu mà
thôi.
Đến thời vua Hiên Viên Huỳnh
Đế (Hoàng Đế), Đức Thái Thượng Đạo Tổ, hóa thân là Quảng Thành Tử xuống trần
dạy cho vua Huỳnh Đế và Hoàng Hậu về Bí pháp tu luyện. Tương truyền, vua Huỳnh
Đế và Hoàng Hậu tu hành đắc quả, được cỡi rồng bay lên Trời. Thời
kỳ nầy, ai thọ được Bí pháp chơn truyền, lo tu hành thì đắc quả, rồi tìm người
có duyên phần truyền lại cái Bí pháp ấy, nên lần lần chơn truyền sai lạc và cuối
cùng thì mất hẳn.
Đức Thái Thượng Đạo Tổ lại
giáng sanh xuống cõi trần là Lão Tử, để chấn hưng Tiên giáo, và lúc bấy
giờ, Tiên giáo được gọi là Lão giáo, vì hiện tại do Đức Lão Tử lập nên. Người
ta cũng nhớ tới Tiên giáo thời Hiên Viên Huỳnh Đế (Hoàng Đế), nên nhập chung gọi
là Đạo Hoàng Lão. (Hoàng là Hoàng Đế, Lão là Lão Tử).
Lão giáo rất được sùng bái
như Phật giáo và Nho giáo, nhưng Lão giáo chủ trương xuất thế, không tham dự việc
đời, khác hẳn với Nho giáo (Khổng giáo) chủ trương nhập thế, nên các môn đồ của
2 tôn giáo nầy thường kích bác lẫn nhau.
Chỉ có bực thượng trí với
tâm hồn phóng khoáng mới tiếp thu được Lão giáo.
Học thuyết của Lão giáo rất
cao siêu, ít người hiểu thấu, bực thượng trí thì ít, bực hạ trí thì phần nhiều,
nên họ hiểu Lão giáo theo lối thấp kém, biến Lão giáo thành lối luyện tập bùa
phép, pháp thuật trừ quỉ khiển tà, làm nhiều điều dị đoan mê tín, sai lạc với
tôn chỉ cao thượng buổi đầu.
III. Kinh điển & Giáo
lý của Lão giáo:
Đức Lão Tử, khi đi qua ải
Hàm Cốc thì gặp Doãn Hỷ, là quan Doãn giữ ải Hàm Cốc. Doãn Hỷ lạy Đức Lão
Tử xin thọ giáo. Đức Lão Tử bằng lòng lưu lại ải một thời gian để truyền đạo
cho Doãn Hỷ, rồi soạn ra sách ĐẠO ĐỨC KINH truyền cho Doãn Hỷ, dặn cứ tu theo
đó thì đắc đạo.
Doãn Hỷ cứ noi theo kinh
mà tu, dần dần trở nên thông thái, tự viết ra một cuốn kinh gọi là
Kinh Tây Thăng gồm 36 bài, nhưng kinh nầy không truyền lại.
Kế tục Lão Tử có Trang Tử,
Liệt Tử, nhứt là Trang Tử đặc sắc hơn cả, sáng tác ra Nam Hoa Kinh khi ẩn tu tại
núi Nam Hoa, làm sáng tỏ thêm học thuyết của Lão Tử.
Vậy Giáo lý của Tiên
giáo được giảng rõ trong 2 cuốn kinh:
- Đạo Đức Kinh của Đức
Lão Tử.
- Nam Hoa Kinh của
Trang Tử, còn gọi là sách Trang Tử.
1. Đạo
Đức Kinh:
Đạo Đức Kinh gồm 81
chương chia làm 2 phần: Thượng và Hạ, lời lẽ khúc chiết, ý nghĩa uyên thâm, bàn
luận về hai chữ Đạo và Đức, về cơ Tạo Đoan định vị Trời Đất, hóa sanh vạn
vật. Vạn vật khi đã sanh thành rồi thì mỗi vật đều tích lũy Đạo và Đức
nơi mình để sống và tiến hóa.
Quan niệm về Vũ trụ và
Nhơn sanh như thế nên Đức Lão Tử theo đó mà lập thành Giáo lý của Ngài.
a) Bàn về chữ Đạo : Trong
chương mở đầu của Đạo Đức Kinh, Đức Lão Tử bàn về chữ ĐẠO:
Đạo khả Đạo phi thường Đạo,
Danh khả Danh phi thường Danh.
Vô Danh Thiên Địa chi thủy,
Hữu Danh vạn vật chi mẫu.
Nghĩa là: Đạo nói
được không phải là Đạo thường,
Danh gọi được không
phải là Danh thường.
Cái Vô Danh là khởi
đầu của Trời Đất,
Cái Hữu Danh là mẹ
của muôn vật.
Chữ THƯỜNG ở đây có nghĩa
là mãi mãi, luôn luôn, bất biến, dù mọi vật biến đổi, nhưng tự nó không đổi. Vậy
chữ Thường mà Đức Lão Tử dùng để chỉ cái gì luôn luôn là thế, tức là xem nó là
qui tắc.
Đạo là Vô Danh, nên nó
không thể chứa đựng ngôn ngữ, nhưng khi ta muốn nói tới nó, ta phải mượn ngôn
ngữ, gọi là ĐẠO.
ĐẠO là cái mà bất cứ vật
gì, và tất cả mọi vật đều do đó mà sanh ra. Bởi nó luôn luôn có trong mọi vật,
nên ĐẠO luôn luôn hiện hữu. Nó là cái bắt đầu của mọi cái bắt đầu.
Đức Lão Tử nói về lý Âm
Dương: Đạo sinh nhất, Nhất sinh nhị, Nhị sinh tam, Tam sinh vạn vật,
nghĩa là : Đạo sanh một, một sanh hai, hai sanh ba, ba sanh vạn vật.
Vạn vật giai phụ Âm
bảo Dương, xung khí dĩ vi hòa, nghĩa là : : Muôn vật đều
cõng một Âm và bồng một Dương, nhân chỗ xung nhau mà hòa nhau.
b) Bàn
về chữ Đức :
Đức Lão Tử nói : Đạo
sinh chi, Đức xúc chi, vật hình chi, thế thành chi. Thị dĩ vạn vật mạc bất tôn
Đạo nhi quí Đức. Đạo chi tôn, Đức chi quí, phù mạc chi mệnh nhi thường tự
nhiên. Cố Đạo sinh chi, Đức xúc chi, trưởng chi, dục chi, đình chi, độc chi, dưỡng
chi, phúc chi.
Nghĩa là: Đạo sanh ra nó
(vạn vật), Đức chứa đựng nó, rồi thì vật chất khiến nó thành hình, hoàn cảnh
khiến nó thành vật. Vì thế, muôn vật đều phải tôn Đạo mà quí Đức. Đạo được tôn,
Đức được quí, không có cái gì sai khiến mà vẫn tự nhiên như thế. Cho nên, Đạo
sanh ra nó, Đức xúc tích nó, làm cho nó lớn, làm cho nó sống, làm cho nó hiện
ra hình, làm cho nó thành ra chất, và nuôi nấng che chở nó.
Xem thế, Đạo sanh ra và Đức
nuôi dưỡng.
Đạo như là khối gỗ chưa đẽo
gọt, tức là giản dị. Không có gì giản dị hơn cái Đạo Vô Danh. Đức là cái gì giản
dị sau Đạo, và người theo Đức thì phải sống cuộc đời càng giản dị càng hay.
Người có cuộc sống hợp với
Đức thì phải ở ngoài vòng phân biệt tốt xấu, thiện ác. Đức Lão Tử nói: Thiên
hạ giai chi mỹ chi vi mỹ, tư ác dĩ, giai tri thiện chi vi thiện, tư bất
thiện dĩ.
Nghĩa là: Nếu thiên hạ biết
được đẹp là đẹp thì ấy là có xấu; biết thiện là thiện thì ấy là có bất thiện.
Vì vậy, Đức Lão Tử cho cái
Nhân và Nghĩa của Nho gia là những đức tánh làm suy đồi Đạo và Đức. Do đó, Lão
Tử nói: Cố thất Đạo nhi hậu Đức, thất Đức nhi hậu Nhân, thất Nhân nhi hậu
Nghĩa, thất Nghĩa nhi hậu Lễ, nghĩa là: mất Đạo mới có Đức, mất
Đức mới có Nhân, mất Nhân mới có Nghĩa, mất Nghĩa mới có Lễ.
Người ta để mất cái Đức
nguyên thủy là vì có quá nhiều ham muốn và hiểu biết. Thỏa mãn ham muốn tức là
tìm hạnh phúc, nhưng khi cố tìm cách thỏa mãn quá nhiều ham muốn thì ta chỉ đạt
kết quả trái lại.
Đức Lão Tử nhấn mạnh đến
Quả dục (Ít ham muốn), nên nói : Chẳng có họa nào lớn hơn là không biết
đủ, chẳng có lỗi nào lớn hơn là muốn được.
c) Chủ nghĩa
Vô Vi:
Vô Vi là không làm, tức là
để cho tự nhiên diễn tiến.
Đức Lão Tử thấy cái tự
nhiên bao giờ cũng có lợi chớ không có hại. Đã thế thì cứ phó mặc cho tự nhiên
làm việc. Nhúng tay vào guồng máy thiên nhiên, không khỏi mang họa vào mình.
Bởi vậy, Đức Lão Tử cho Vô
Vi vừa là chủ nghĩa rất hợp với lẽ tự nhiên, vừa là chủ nghĩa vạn năng. Lão Tử
đem nó ứng dụng vào tất cả các việc trong đời, từ việc nhỏ như tu thân, xử sự hằng
ngày, cho đến việc lớn như lo hạnh phúc cho xã hội.
Chữ VÔ trong Vô Vi không
có nghĩa tuyệt đối, nên chủ nghĩa Vô Vi của Đức Lão Tử cũng không phải là không
hành động mảy may.
Đức Lão Tử nói: “Đạo
thường vô vi nhi vô bất vi.” Nghĩa là: Đạo thường không làm (tức là
thuận với lẽ tự nhiên), nhưng không cái gì mà nó không làm.
Trong Trời Đất, cái gì
cũng có nguyên nhân. Có sống mới có chết, có làm mới có thất bại,
có cạnh tranh mới có người cạnh tranh với mình. Muốn được bình yên vô sự
thì đừng cạnh tranh, mình không tranh thì thiên hạ không ai cạnh tranh với mình.
(Phù duy bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh).
Vậy muốn khỏi thất bại,
muốn tránh những cái di hại do nó mà ra, người ta cũng phải trừ cái
nguyên nhân của nó.
Nguyên nhân của sự thất bại
là gì? Đức Lão Tử cho nó là : “Có làm” (HữuVi). Đức Lão Tử nói: Vi giả
bại chi, chấp giả thất chi. Thị dĩ Thánh nhân vô vi cố vô bại, vô chấp cố
vô thất. Dân chi tòng sự, thường ư cơ thành nhi bại chi. Nghĩa
là: Người có làm tất có thất bại, người muốn cầm giữ tất bị mất. Cho nên Thánh
nhân không làm việc gì nên không bại (bao giờ). Người thường làm việc, thường
khi gần thành thì bị thất bại.
Chủ nghĩa Vô Vi làm thế
nào mà trừ được những nguyên nhân sanh ra những điều có hại?
Người đời thường hay khinh
suất, coi thường những việc nhỏ mọn dễ dàng, đến lúc những cái nhỏ mọn đã thành
ra những nguyên nhân to lớn; những cái dễ dàng đã thành ra những nguyên
nhân khó khăn, lúc đó mới lo làm thì bấy giờ không thể làm được nữa.
Chủ nghĩa Vô Vi cốt ở diệt
những nguyên nhân tai hại từ khi nó chưa phát hiện. Đức Lão Tử nói: Làm cách Vô
Vi, thờ cái Vô Sự, mến cái Vô Vị (không mùi vị). Lớn nhỏ, ít nhiều, đều lấy Đức
báo lại thù oán. Lo việc khó từ khi còn dễ, làm việc lớn từ khi còn nhỏ. Việc
khó trong thiên hạ, tất phải làm từ khi còn dễ, việc lớn trong thiên hạ tất phải
làm từ khi còn nhỏ. Vì vậy, Thánh nhân không bao giờ làm việc lớn nào mà có thể
thành được việc lớn. Vâng nhận một cách khinh suất tất nhiên ít được đúng lời,
coi là dễ bao nhiêu thì càng khó khăn bấy nhiêu. Vì vậy, Thánh nhân thường
lấy làm khó mà chung qui không việc gì khó. (Vi vô vi, Sự vô sự,
Vị vô vị, Đại, tiểu, đa, thiểu, báo oán dĩ đức. Đồ nan ư kỳ thị, vi đại ư kỳ tế.
Thiên hạ nan sự, tất tác ư dị, thiên hạ đại sự, tất tác ư tế. Thị dĩ Thánh nhân
chung bất vi đại, cố năng thành kỳ đại. Phù khinh nặc tất quả tín, đa dị tất đa
nan. Thị dĩ Thánh nhân do nan chi, cố chung vô nan kỳ.)
Bổn ý của Đức Lão Tử không
phải ngồi khoanh tay mà nhìn. Ngài cũng không muốn lo việc thiên hạ, nhưng lo hẳn
bằng cách trừ những cái mầm hại trước khi nó nẩy nở ra.
Vì vậy, chủ nghĩa Vô Vi
không phải là không làm, không trị, nhưng phải làm từ cái lúc chưa có việc gì xảy
ra, trị lúc chưa loạn. (Vi chi ư vị hữu, trị chi ư vị loạn).
d) Bàn về việc
Chánh trị: Trị nước an dân.
Đức Lão Tử cho rằng, quốc
gia lý tưởng là quốc gia được một Thánh nhân cai trị. Điều nầy đồng quan điểm với
các Nho gia, nhưng Nho gia lại nói rằng : Khi lên cầm quyền, Thánh nhân phải
làm nhiều việc ích lợi cho dân.
Còn Đức Lão Tử thì nói
trái lại : Bổn phận của Thánh Vương không phải làm việc mà phải không làm gì cả
(Vô Vi), vì những việc rối loạn xảy ra trong đời nầy không phải vì nhiều việc
chưa được làm, mà vì quá nhiều việc đã được làm.
Đức Lão Tử nói rõ: Dân có
nhiều ngày kỵ úy thì dân nghèo. Dân có nhiều khí giới thì nước loạn. Người nhiều
tài khéo thì vật giả mạo càng thêm. Pháp lệnh càng tăng thì trộm cướp càng nhiều.
Hành động đầu tiên của
Thánh Vương là bỏ hết mọi điều ấy.
Đức Lão Tử còn nói: Dứt
Thánh bỏ trí, dân lợi gấp trăm. Dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại hiếu từ. Dứt khéo bỏ
lợi, trộm cướp chẳng còn. Không chuộng người hiền, khiến dân không tranh. Không
trọng vật quí hiếm, khiến dân không trộm cướp. Không thấy vật đáng ham, khiến
lòng dân không loạn. (Tuyệt Thánh khí trí, dân lợi bách bội. Tuyệt nhân
khí nghĩa, dân phục hiếu từ. Tuyệt xảo khí lợi, đạo tặc vô hữu. Bất thượng
hiền, sử dân bất tranh. Bất quí nan đắc chi vật, sử dân bất vi đạo. Bất
kiến khả dục, sử dân tâm bất loạn).
Cho nên lối trị dân của bực
Thánh Vương là làm cho lòng trống bụng no, yếu chí, mạnh xương, thường khiến
cho dân không biết ham muốn, để cho những kẻ có biết cũng không dám làm. (Thánh
nhân chi trị, hư kỳ tâm, thực kỳ phúc, nhược kỳ chí, cường kỳ cốt, thường sử
dân vô tri vô dục, sử tri giả bất cảm vi giả.)
Thánh Vương sẽ diệt mọi
nguyên nhân rối loạn trong đời. Sau đó sẽ trị vì bằng chủ nghĩa Vô Vi. Vô Vi là
không làm gì, nhưng mọi việc đều thành.
Đức Lão Tử nói: Ta không
làm mà dân tự hay. Ta thích yên mà dân tự chánh. Ta vô sự mà dân tự giàu.
Ta không muốn mà dân tự phác.
Không làm (Vô Vi) mà không
có gì chẳng làm được. Đó là tư tưởng đặc biệt của Lão Tử, nó có vẻ như mâu thuẩn,
nghịch lý. Nhưng theo các Đạo gia, vị cầm quyền quốc gia phải bắt chước
theo Đạo. Nhà cầm quyền không làm gì, mà để cho mọi người dân làm điều gì
mà mỗi người có thể làm.
Từ luận lý đó, Lão Tử nói
thêm : Thánh vương không làm cho dân sáng mà làm cho dân ngu.
Chữ “ngu” ở đây có
nghĩa đặc biệt như câu: Đại trí nhược ngu. Cái ngu của bực Thánh
nhân là đại trí. Cái ngu của dân ở đây là không tham vọng, sống giản dị tự
nhiên.
2. Nam Hoa
Kinh của Trang Tử:
Bộ Nam Hoa Kinh hiện nay
còn được 33 thiên, chia làm 3 phần: Nội thiên, Ngoại thiên và Tạp thiên. Có giá
trị nhứt là 3 bài: Tiêu dao du, Tề vật luận, Thu thủy.
Trang Tử chủ trương trở về
với tự nhiên, đề cao cá nhân tự do, cho rằng vạn vật đều bình đẳng với nhau,
không có thiện ác, không có phải trái, không có tốt xấu, vinh nhục,…
Tư tưởng của Trang Tử rất
lãng mạn, thâm thúy, kỳ dị. Đặc biệt nhứt là giọng phúng thích của Ông, không
chừa một hạng người nào, từ vua tới quan, từ hạng ham giàu mà Ông gọi là vô sỉ
đến hạng trí thức theo Nho, theo Mặc, Ông cũng miệt thị.
Ông không màng thế tục,
không ham sống, không sợ chết, coi cuộc đời chỉ là giấc mộng lớn, chết là tỉnh
mộng.
Văn luận thuyết của Ông thật
độc đáo, cuồn cuộn như sông lớn, không dùng phép lý luận để thuyết phục như Mạnh
Tử, mà chỉ dùng những ý tưởng lạ, những kết luận đột ngột, những tỉ dụ không ai
ngờ để làm cho người đọc ngạc nhiên thích thú hoặc xấu hổ mà không cãi được.
Những tư tưởng của Trang Tử
thể hiện trong Nam Hoa Kinh kể ra được như sau:
a) Đường
lối để đạt đến hạnh phúc:
Bài đầu tiên trong Nam Hoa
Kinh là Tiêu Dao Du gồm nhiều câu chuyện vui. Trang Tử
đã cho thấy đường lối để đạt hạnh phúc: Sự phát triển tự do bản tính của con
người có thể đem ta đến hạnh phúc tương đối. Muốn có hạnh phúc tuyệt đối, phải
có sự hiểu biết thấu đáo về bản chất sự vật.
Theo Trời là nguồn gốc của
mọi điều hạnh phúc và tốt lành. Theo Người là nguồn gốc mọi sự khó nhọc và tai
hại.
Mọi vật đều khác nhau về bản
tính và khả năng tự nhiên. Nhưng điều giống chung là mỗi vật đều được hạnh phúc
ngang nhau khi khả năng của chúng được sử dụng trọn vẹn và tự do. Đó chỉ là hạnh
phúc hữu hạn, còn tương đối.
Người không hiểu biết thì
buồn rầu. Nhưng khi đã hiểu biết rõ thì không cảm thấy buồn rầu nữa. Cho nên có
thể lấy lý mà hóa tình. Người ta có thể dùng lý trí chế ngự tình cảm.
Trang Tử chủ trương rằng: Thánh
nhân khi đã hiểu biết hoàn toàn về sự vật thì không còn tình cảm nữa. Điều ấy
có nghĩa là Thánh nhân không còn bị cảm xúc làm lay động tâm hồn. Do đó, nhờ sự
hiểu biết bản chất sự vật mà Thánh nhân không thấy buồn khổ vì những đổi thay của
cuộc đời. Thánh nhân không còn phụ thưộc vào ngoại vật và do đó, hạnh phúc
không còn bị hạn chế bởi ngoại vật. Thánh nhân đã đạt đến hạnh phúc tuyệt
đối vậy.
Trang Tử nhấn mạnh đến
sự hợp nhứt giữa người và vạn vật. Muốn thực hiện sự hợp nhứt ấy, phải có sự hiểu
biết và trí thông minh cao hơn nữa. Hạnh phúc do sự hợp nhứt ấy là hoàn toàn
tuyệt đối.
b) Tư tưởng Chánh
trị và xã hội:
Trang Tử phản đối kịch liệt
lối trị dân bằng những luật pháp máy móc của chánh quyền. Ông chủ trương rằng:
Phương sách cai trị dân chúng hay nhứt là Vô Chánh phủ. Ông nói: Ta
nghe nói để yên thiên hạ chớ không nghe nói trị thiên hạ. Để yên thiên hạ
là sợ làm cho thiên hạ tính bị hư, đức bị dời. Nếu thiên hạ không hư tính,
không dời đức, thì cần chi phải trị thiên hạ.
Thánh nhân là người đã hợp
nhứt với Đạo. Thánh nhân có thể cai trị thiên hạ, nhưng chánh trị của
Thánh nhân là để yên thiên hạ, và để cho mọi người tự do sử dụng một cách trọn
vẹn những khả năng tự nhiên của họ.Đạo là Vô Danh, do đó Thánh nhân cũng Vô
Danh, vì đã hợp nhứt với Đạo.
c) Quan
điểm siêu việt:
Trang Tử chủ trương những
quan điểm “đúng sai”, đều được mỗi người nêu lên căn cứ trên kiến
thức chủ quan của mình. Tất cả đều là những quan niệm tương đối.
Vượt lên trên một chút thì
sự đúng sai, sống chết đều chỉ là sự thay đổi của sự vật. Cùng một sự vật,
nhưng trên khía cạnh nầy thì đúng, trên khía cạnh khác thì sai. Vậy thì ta cũng
không cần phải tự mình quyết định điều gì là đúng, điều gì là sai.
Vượt lên trên nữa, tức là
quan điểm siêu việt, thì phải nhìn sự vật trong ánh sáng của Trời, tức là quan
điểm của Đạo. Mặc dầu mọi vật khác nhau, nhưng chúng đều giống nhau ở điểm
chúng được hữu ích, vì tất cả đều do Đạo mà ra. Do đó, đứng trên quan điểm siêu
việt, tức là Đạo, ta thấy dẫu có phân biệt nhau nhưng vẫn có thể thông làm một.
Sự phân biệt giữa Ngã và
Vô Ngã, cũng là tương đối. Đứng trên quan điểm Đạo, thì Ngã và Vô Ngã hợp nhứt.
Hãy quên đi sự phân biệt
phải trái. Hãy vui trong cõi vô cùng và dừng lại ở đấy. Cõi vô cùng là cảnh giới
của những người đạt đến Đạo.
Trang Tử đã đạt đến sự giải
đáp cuối cùng của vấn đề bổn lai của Đạo gia nguyên thủy. Vấn đề ấy là giữ mạng
sống và tránh hiểm nguy đau khổ. Nhưng với bực Thánh nhân, nó không còn là vấn
đề nữa. Trang Tử viết: Trời Đất là vạn vật hợp nhứt. Đạt đến cái NHỨT thì hợp
làm một với Trời Đất, tay chân ta không hơn gì bùn đất, sống chết, đầu cuối,
không khác gì sự nối tiếp ngày đêm, đều không thể làm bận lòng. Như vậy hẳn
không bận tâm gì về được thua, còn mất.
Vì thế, Trang Tử giải quyết
vấn đề bổn lai của Đạo gia nguyên thủy bằng cách bỏ hẳn nó đi. Đó là phương
pháp Triết học để giải quyết vấn đề.
Một khi đã quên hết mọi sự
phân biệt thì trở thành cái NHỨT BẤT PHÂN HÓA, tức là cái Đại Toàn Thể. Bởi vì
Thánh nhân đã thỏa mãn điều kiện nầy nên ta có thể nói rằng, Thánh nhân đã đạt
đến sự hiểu biết siêu việt mà Đạo gia gọi là “Hiểu biết không phải là
hiểu biết”.
Sự khác biệt giữa Thánh
nhân và người ngu dốt, bổn lai cũng rõ như sự khác biệt giữa người can đảm
và người không biết sợ, vì người nầy không biết sợ là gì. Người ngu dốt bổn lai
là người không có hiểu biết, chớ không phải là người có sự không hiểu biết. Đó
là giai đoạn cuối cùng, giai đoạn đạt đến sự không hiểu biết mà
Đạo gia gọi là “Hiểu biết không phải là hiểu biết”.
IV. Triết lý của
Lão giáo:
1. Quan
niệm về Vũ trụ và vạn vật :
Đối với Đức Lão Tử, nguyên
thủy của vũ trụ và vạn vật là ĐẠO.
ĐẠO là thể vô hình vô tướng,
không sinh không diệt, hằng hữu đời đời. Sở dĩ người ta không thấy được Đạo là
vì nó là những nguyên tố rời rạc, chưa kết thành hình tượng.
ĐẠO sanh một, một sanh
hai, hai sanh ba, ba sanh vạn vật. Một đó là Thái cực, Hai đó là Âm Dương, Ba
đó là Tam Thiên Vị (Ba ngôi: Thái cực, Dương và Âm). Âm và Dương ấy thâu nhận
Sanh quang từ ngôi Thái cực, rồi vừa xung đột vừa hòa hiệp, để tạo thành Càn
Khôn Vũ Trụ và vạn vật. Cho nên, trong vạn vật đều có Âm Dương: Vạn vật đều có
cõng một Âm và bồng một Dương.
Vậy theo Đạo giáo, trước
khi vũ trụ thành hình, trong khoảng không gian hư vô bao la, có một chất sinh rất
huyền diệu, gọi là ĐẠO. Đạo biến hóa ra Âm Dương. Âm Dương xô đẩy và hòa hiệp tạo
ra CKVT và vạn vật.
Vạn vật được hóa sanh ra,
tác động với nhau, phồn thịnh với nhau, rồi cuối cùng tan rã để trở về trạng
thái không vật không hình, tức là trở về nguồn gốc của nó là ĐẠO.
2. Quan
niệm về Nhân sinh:
Đức Lão Tử quan niệm rằng:
Đạo Trời không thân ai, không sơ ai. Trời Đất sanh ra muôn vật, rau cỏ,
chim muôn, nhơn loại, không phải cốt để chúng ăn thịt nhau, nhưng các sanh vật
đều được dùng cái nó sở thích để sống.
Đức Lão Tử không lấy cuộc
đời làm lạc thú, xem việc sống như một nghĩa vụ, không yếm thế, không lạc quan,
và xem cái chết là một việc phục tùng theo lẽ tự nhiên nhứt định.
Lão Tử ghét những người
ham mê danh lợi, quá coi trọng cái xác thịt của mình. Cái xác thịt nầy là một
cái không đáng quí, vì nó thường là mối lo cho người ta; đáng quí nhất là khi
người ta biết đem thân ra phụng sự thiên hạ.
Đức Lão Tử khuyên người đời
không nên quá tôn trọng và thiên về đời sống vật chất, phải tiết chế lòng ham
muốn, nên chú trọng tinh thần, lấy cái tâm đè nén cái khí, thà bỏ cái thân nầy
mà giữ được Đạo và Đức.
Lão Tử không bàn đến Thượng
Đế, Linh hồn, Thiên đàng, Địa ngục, mà chỉ nói một cách tổng quát về nguồn gốc
của con người và vạn vật là từ ĐẠO mà ra, và cuối cùng thì trở về ĐẠO, hòa vào
ĐẠO.
3. Lý
Vô Vi:
Muốn hòa vào ĐẠO, Đức Lão
Tử nói về Lý Vô Vi. (Vô Vi là không làm, tức là không can thiệp và tự nhiên, để
con người sống theo tự nhiên và cùng với tự nhiên tiến hóa).
Lý Vô Vi gồm: Vô cầu, Vô
tranh, Vô đoạt, Vô chấp.
- Vô cầu, giúp
ta vô vọng, xa lìa vọng tưởng điên đảo.
- Vô tranh,
giúp ta vô đại, xa lìa ý tưởng hơn thua, cao thấp.
- Vô đoạt,
giúp ta vô thủ, xa lìa ý tưởng có, không, còn, mất.
- Vô chấp,
giúp ta vô ngại, xa lìa ý tưởng trược thanh.
Vô Vi tức
Đạo. Đạo thường vô vi nhi vô bất vi. (Không
làm tức là Đạo. Đạo thường không làm, mà không gì không làm được).
Từ chỗ không làm mà làm được
tất cả. Làm được tất cả mà như không làm gì cả. Đó là bí quyết của Đạo.
Lý Vô Vi quá sức huyền diệu
cao viễn, ít ai thấu triệt nổi, thành ra bị thất truyền hay bị hiểu sai lạc đi.
Thực hiện theo lý Đạo thì
phải Luyện Kim đơn, để gom Tam Bửu: Tinh, Khí, Thần, về một, tức là
Tinh Khí Thần hiệp nhứt. Ta phải thanh luyện tiếp để xả hết, hòa vào hư không,
tức là trở về hiệp nhứt với Đạo.
Luyện Kim đơn là luyện cho
thành Thánh thai (Anh nhi, Xá lợi), chớ không phải luyện thuốc
Tiên, trường sanh bất tử. Luyện cho cái Tánh trở thành Kim cang bất hoại, gặp động
không loạn, nhập trần không nhiễm, định mà không chết cứng, đi đứng nằm ngồi mà
như không đi đứng nằm ngồi, thuyết giảng đạo pháp mà như không thuyết giảng, vv…
tức như thế là nhập vào Lý Vô Vi vậy.
V. Sự truyền bá Lão
giáo tại Trung Hoa:
Sau đời Đức Lão Tử thì có
Trang Tử (Tất Viên) và Liệt Tử làm sáng thêm cái Đạo của Lão Tử và quảng bá ra.
Lão giáo rất huyền diệu
cao siêu, ít người hiểu thấu, nên những người học Đạo sau nầy biến thành bọn
phương sĩ cầu phép Thần Tiên và thuật trường sanh bất tử.
Vua Tần Thủy Hoàng sai Từ
Phúc, Lư Sinh ra biển Đông tìm thuốc trường sanh.
Vua Hán Võ Đế cũng rất
sùng tín Lão giáo, cùng với Đông Phương Sóc cầu Đấng Diêu Trì
Kim Mẫu giáng phàm.
Đời Đông Hán có Trương Đạo
Lăng học theo sách Đạo Đức Kinh, rồi làm ra sách gọi là Đạo Kinh, giảng cái thuật
trường sanh.
Bọn Trương Giác, Trương Tu
(sau nổi lên làm Giặc Khăn Vàng) chính là học trò của Trương Đạo Lăng, luyện được
phép hô phong hoán võ, sái đậu thành binh.
Thời nhà Đường, Lão giáo
thạnh hành, ngang bằng với Nho giáo và Phật giáo, truyền bá khắp nơi trong nước.
Đời nhà Tống, nhà vua lập
thêm nhà thờ Đạo giáo, đặt ra giai cấp (Tiên sinh, Xử sĩ) và quan hàm (Thị Thần,
Hiệu Tịch) cho đồ đệ.
Đến đời Nam Tống, Đạo giáo
(Lão giáo) có phần suy.
Đến đời nhà Nguyên, Đạo
giáo được chia thành 3 phái: Chính Nhất giáo, Chân Đại Đạo giáo, và Thái Ất
giáo, lưu hành khá rộng.
Đời nhà Minh, Đạo sĩ
Trương chính Thường được phong là Chân Nhân (Chơn Nhơn) hàm Chánh Nhị phẩm. Vua
Minh Thế Tôn rất sùng tín Đạo giáo, đặt Đạo trường ở trong Cung, nhiều văn thân
phụ họa đều được hiển đạt, bọn giáo đồ cậy thế ấy thường làm nhiều điều càn dỡ.
Vua Minh Mục Tông lên ngôi, giết các Đạo sĩ gian ác, nhưng vẫn tôn trọng Đạo
giáo.
Đời nhà Thanh, Đạo giáo
cũng khá thạnh hành, khắp nơi trong nước đều có nhà thờ Đức Lão Tử. Ở Bắc Kinh
có Bạch Vân Quán, chứa đến 3000 quyển sách Đạo giáo . Thuật của Đạo giáo lúc nầy
là vào núi luyện Khí dưỡng Thần, hoặc luyện đơn sa, uống cho sống lâu, hoặc
vẽ bùa trừ ma quỉ, trị bịnh tà. Các Đạo sĩ đều dùng áo tràng và mão màu vàng.
Ở kinh đô, có lập ra Đạo Lục
Ty, ở các phủ có Đạo Kỷ Ty, ở các châu có Đạo Chính Ty, ở các huyện có Đạo Hội
Ty, để quản lý các Đạo sĩ.
Tóm lại, sau khi Trang Tử
mất, Liệt Tử qua đời, từ đó về sau, không có vị nào hiểu thấu giáo lý của Đạo
giáo để đứng ra chỉnh đốn và xiển dương thêm, nên Đạo giáo thất chơn truyền
nhanh chóng, biến thể ra những hình thức mê tín dị đoan như luyện thuốc trường
sanh, bùa chú, đồng bóng.
Cũng có một số rất ít người
hiểu rõ Đạo giáo, nhưng lại không ra giúp việc chỉnh đốn Đạo pháp mà lại rút vào
thâm sơn cùng cốc tu luyện thành Tiên. Nhưng tinh thần của Đạo giáo thì vẫn ảnh
hưởng mạnh trong khắp các từng lớp dân chúng, đến vua quan và các trí thức Nho
gia.
VI. Tiểu sử Đức
Lão Tử:
Đức Lão Tử là chơn linh của
Đức Thái Thượng Đạo Tổ giáng trần vào thời nhà Thương bên Tàu.
Đức Thái Thượng Đạo Tổ,
còn gọi là Đức Thái Thượng Đạo Quân, là Đấng do Khí Tiên Thiên hóa sanh thuở
chưa tạo Thiên lập Địa.
Tiên
Thiên khí hóa,
Thái Thượng Đạo Quân.
(Kinh Tiên giáo)
Đức Thái Thượng Đạo Tổ là
Ông Thủy Tổ của Đạo Tiên. Ngài có pháp lực vô biên, biến hóa vô cùng, khi hiện
xuống cõi trần để độ những người có duyên phần, khi trở về cõi Thượng
Thiên.
Theo sách Tam Hoàng Thiên
Kinh, Đức Thái Thượng hiện xuống cõi trần
Vào thời Thái cổ nước Tàu:
- Đời Thiên
Hoàng Thị, Ngài là Bàn Cổ.
- Đời Địa Hoàng
Thị, Ngài là Vạn Pháp Thiên Sư.
- Đời Nhơn
Hoàng Thị, Ngài là Đại Thanh Tử.
Vào thời Thượng cổ, cũng ở nước Tàu:
- Đời vua Phục
Hy, Ngài là Huất Hoa Tử.
- Đời vua Thần
Nông, Ngài là Xích Tùng Tử.
- Đời vua Huỳnh
Đế, Ngài là Quảng Thành Tử.
- Đời vua Thiếu
Hạo, Ngài là Tùy Ưng Tử.
- Đời vua
Chuyên Húc, Ngài là Xích Tinh Tử.
- Đời vua
Nghiêu, Ngài là Vụ Thành Tử.
- Đời vua Thuấn,
Ngài là Y Thọ Tử.
- Đời vua Hạ Võ,
Ngài là Chân Hành Tử.
- Đời vua Thành Thang,
Ngài là Tích Tắc Tử.
Đến đời vua Võ
Đinh nhà Thương (1324 trước Tây lịch), Đức Thái Thượng Đạo Tổ mới giáng
sanh xuống trần là Lão Tử. Việc giáng sanh của Ngài rất huyền
diệu phi thường.
Theo truyền thuyết kể lại,
vào đời vua Bàn Canh nhà Thương (1461 trước Tây lịch),
có một nàng con gái gọi là Ngọc Nữ vừa được 8 tuổi,
con của một gia đình đạo đức, ra chơi sau vườn, thấy trên cây
lý có một trái chín thật ngon, cô liền hái ăn. Ăn xong, cô cảm thấy mỏi
mệt và có thai.
Cha của Ngọc Nữ
thấy sự lạ kỳ, liền toán quẻ Âm Dương, đoán biết có một vị Đại
Tiên giáng trần trong bụng con gái của mình, nên mừng rỡ và nuôi con
gái rất kỹ.
Nàng Ngọc Nữ chịu mang
thai như vậy mãi cho đến già mà không đẻ. Đến năm Ngọc Nữ 80 tuổi, tức
là đã mang thai ngót 72 năm, lúc đó đã qua 3 đời vua
nhà Thương là: Vua Bàn Canh, vua Tiểu Tân, vua Tiểu Ất, và bắt đầu đời vua
Võ Đinh (1324 trước Tây lịch), Bà Ngọc Nữ thấy trăng tỏ, bèn đi dạo
chơi nơi vườn. Khi đi ngang cội cây lý ngày xưa thì đứa con từ trong
bụng theo nách mẹ nhảy ra ngoài. Bà Ngọc Nữ giựt mình kinh hãi, coi lại nách
mình liền lại như thường. Đứa con nhảy ra, đã ở trong bụng mẹ
72 năm nên đầu tóc bạc trắng, nên mới gọi là Lão Tử
(Con già). Lúc đó là giờ Sửu ngày 15 tháng 2 âm lịch năm Canh Thìn.
Lão Tử chỉ cây Lý bảo rằng
đó là họ của Ngài. Ngài xưng hiệu là Lão Đam, tự là Bá Đương, lại mỗi bên
tai có 3 lỗ nên còn gọi Ngài là Lý Nhĩ.
Ngài có miệng rộng, răng
thưa, thiên đình cao, râu tốt, mắt vắn, tai dài, sóng mũi cao lớn như chẻ hai,
trên trán có đường nhăn như 3 chữ Tam Thiên.
Cội cây
Lý, nơi giáng sanh của Đức Lão Tử, ở tại xóm Khúc Nhơn,
làng Lại, huyện Khổ, nước Sở, ngày nay thuộc tỉnh An Huy, tỉnh Hồ
Nam.
Do đó, trong Kinh Tiên
giáo có câu :
Nhị
ngoạt thập ngũ,
Phân
tánh giáng sanh.
Nghĩa
là: Ngày 15 tháng 2,
Chiết
chơn linh giáng sanh xuống trần.
Đức
Lão Tử có giáng cơ cho biết năm giáng sanh của Ngài trong 4 câu thơ khoán thủ
sau đây:
LÝ đào mầm tược
tượng long
lân,
LÃO luyện đơn
thành nhị xác thân.
TỬ
phủ ngồi tu lo nấu
thuốc,
GIÁNG sanh Thương đợi
Võ Đinh quân.
Khoán thủ 4 chữ: Lý Lão Tử
giáng, và câu thơ chót có nghĩa là: Giáng sanh vào thời nhà Thương, đợi đến
vua Võ Đinh mới chào đời.
Hết thời nhà Thương, qua đến
thời nhà Châu, đời vua Thành Vương (1115 trước Tây lịch), Lão Tử có ra làm
quan Trụ Hạ Sử tại Tàng Thư Viện nhà Châu để có cơ hội nghiên cứu Thái Cực
Đồ. Ngài độ được Từ Giáp là người giữ Tàng Thư Viện, và sau đó, hai thầy trò từ
chức để đi dạo các nước Tây phương. Đến đời vua Châu Khương Vương, nối tiếp
vua Thành Vương, Lão Tử trở về, đặng 3 năm thì Ngài lại đi giáo đạo miền Tây vức.
Ngài ngồi xe trắng trâu xanh do Từ Giáp đánh xe, khi đến ải Hàm Cốc, quan Doãn
giữ ải tên là Hỷ (nên thường gọi là Doãn Hỷ) coi Thiên văn biết có một vị
Đại Thánh sắp đi qua ải, nên chuẩn bị mặc triều phục nghinh tiếp. Khi thấy Đức
Lão Tử tới, biết Ngài là Thánh nhân nên tôn Lão Tử làm thầy, xin theo học đạo.
Nguyên Ông quan Doãn Hỷ nầy
là chơn linh của Nguơn Thủy Thiên Tôn giáng trần. Khi Bà mẹ có nghén Ông thì
chiêm bao thấy một đoạn lụa đỏ từ Trời sa xuống vấn quanh mình, sau sanh ra
Doãn Hỷ thì thấy sen mọc quanh nhà trổ bông. Ngài lớn lên, con mắt sáng như
sao, râu dài, tướng tốt, có tài xem Thiên văn. Khi làm quan Doãn giữ ải Hàm cốc,
Doãn Hỷ nhìn lên bầu Trời thấy một vầng mây tím bay ngang từ huớng Đông qua hướng
Tây, Ngài biết đó là điềm có Thánh nhân sắp qua ải để đi về hướng Tây, nên chuẩn
bị chu đáo nghinh tiếp.
Do đó, trong Kinh Tiên
giáo có câu :
Tử
khí đông lai,
Quảng
truyền Đạo đức.
Nghĩa là: Vầng khí mây màu tím từ hướng Đông bay tới,
Rộng truyền Kinh Đạo Đức.
Nhắc lại, khi Lão Tử đến ải Hàm Cốc, thấy Doãn Hỷ có lòng thành nên bằng lòng ở
lại ải ngót 3 tháng để dạy đạo cho Doãn Hỷ.
Khi thấy Đức Lão Tử chuẩn bị ra đi thì Doãn Hỷ bạch thầy xin cho biết danh tánh
và tình nguyện đi theo thầy.
Đức Lão Tử đáp :
- Ta sanh ra đã nhiều đời, tên họ có biết bao nhiêu mà kể. Hiện thời, người đời
gọi Ta là Lão Tử. Ngươi có lòng muốn theo Ta, song ngươi mới tu luyện còn
non, chưa từng biến hóa thần thông, thì theo Ta sao đặng. Ngươi cứ tu hành theo
phép đã dạy cho lâu thì sau nầy cũng được như Ta, đi đâu cũng đặng.
Nói rồi, Đức Lão Tử truyền cho Doãn Hỷ quyển sách Đạo Đức Kinh gồm 5363
chữ, dặn rằng:
- Ngươi cứ theo sách nầy mà học, tu đúng phép 1000 ngày, rồi đi qua nước Thục,
tìm Ta tại chợ Thanh Dương.
Nói xong, Đức Lão Tử lên xe trắng trâu xanh, Từ Giáp đánh xe, hiện hào quang đi
về hướng Tây mất dạng.
Doãn Hỷ ngó theo thầy, lạy tạ.
Sau đó, Doãn Hỷ cứ học theo Đạo Đức Kinh mà tu, lâu ngày trở nên thông huệ, tự
viết ra được một cuốn sách gồm 36 bài gọi là Kinh Tây Thăng.
Gần đến kỳ ước hẹn với thầy, Doãn Hỷ sửa soạn đi qua nước Thục để tìm thầy y
như lời thầy đã dặn. Khi đến nước Thục, Doãn Hỷ hỏi thăm chợ Thanh Dương ở đâu
thì không một ai biết cả.
Lúc ấy, Đức Lão Tử đã trở lại Thiên Cung, rồi lại xuống trần đầu kiếp vào nhà họ
Lý ở nước Thục, là nhà đạo đức hiền lương. Khi vợ họ Lý sanh được bé trai ít
tháng thì có một con dê xanh (Thanh dương) đến chơi giỡn với bé. Đó là Đức Lão
Tử dặn con Thanh dương ở Thiên cung hiện xuống.
Ngày kia con dê xanh chạy đâu mất, cậu bé khóc hoài. Họ Lý phải sai đầy tớ đi
khắp nơi tìm kiếm, bắt gặp dê xanh dẫn về, đi ngang qua một cái chợ.
Doãn Hỷ đang lúc hỏi thăm tìm chợ Thanh dương, bỗng thấy có người dắt con dê
xanh đi qua chợ, liền chợt nghĩ rằng chắc thầy mình đang ở chỗ nầy. Nghĩ vậy,
Doãn Hỷ liền chạy theo người dắt dê xanh hỏi :
- Chú dắt con dê nầy đi đâu vậy ?
Người ấy đáp :
- Chủ tôi có sanh một cậu
trai, cách ít tháng có con dê nầy tới chơi với cậu nhỏ. Bữa kia nó đi mất, cậu
nhỏ cứ khóc hoài. Chủ tôi sai tôi đi tìm kiếm mà dắt về.
Doãn Hỷ đi theo người đầy tớ ấy đến nhà thì bảo người đầy tớ :
- Chú vào thưa với cậu nhỏ là có Doãn Hỷ đến tìm.
Anh đầy tớ cười thầm: Cậu
nhỏ chưa giáp thôi nôi, biết chi mà thưa với gởi, nhưng anh ta cũng vào nói:
- Có Doãn Hỷ đến tìm cậu.
Cậu bé nghe nói thế liền
ngồi dậy đáp:
- Doãn Hỷ y lời,
không đến trễ.
Kế đó Doãn Hỷ bước vào.
Bỗng thấy cậu bé vùng lớn lên như người thường, ngồi trên tòa sen,
hào quang sáng lòa. Cả nhà đều kinh hãi. Người ấy nói:
- Ta là Lão Tử đầu thai một
lần nữa.
Doãn Hỷ mừng rỡ, đến lạy
thầy. Lão Tử nói:
- Khi trước, Ta chẳng dắt
ngươi theo vì sợ ngươi tu không bền chí. Nay ngươi đã tu luyện kỹ lưỡng, hào
quang ẩn ẩn muốn lòa.
Nói rồi, Đức Lão Tử niệm
chú, truyền cho Thần Tiên xuống hầu, phong Doãn Hỷ phục chức Nguơn Thủy Chưởng
giáo, cai trị 8 vạn Thần Tiên, lại truyền phép cho cả nhà họ Lý tu thành Tiên hết
thảy.
Về sau, đến đời vua Châu Kỉnh
Vương, Đức Khổng Tử qua kinh đô nhà Châu học Lễ, nghe nói có Đức Lão Tử tại đó,
liền đến xin ra mắt và hỏi Đức Lão Tử về Lễ. (Chuyện gặp gỡ nầy có chép trong
sách Sử Ký của Tư Mã Thiên)
.
Đức Khổng Tử chủ
trương theo các nghi lễ của các vua đời trước, nhưng Đức Lão Tử bác bỏ ý kiến
đó, nói rằng:
- Những người mà
Ông nói đó đều tan xương nát thịt cả rồi, chỉ còn lời nói của họ mà thôi.
Vả lại, người quân tử gặp thời thì xe ngựa nghinh ngang, không gặp thời thì tay
vịn nón lá mà đi chơn không. Tôi nghe nói : Người buôn giỏi thì biết giấu của
báu, khiến người ta thấy dường như không có hàng; người quân tử có đức tốt thì
diện mạo thường như ngu si. Ông nên bỏ cái khí kiêungạo cùng
cái lòng ham muốn nhiều, cái vẻ hăm hở cùng cái khí tham
lam đi, những thứ ấy đều không ích chi cho Ông. Tôi chỉ nói với Ông có thế
thôi.
Đến khi Đức Khổng Tử cáo từ,
Đức Lão Tử tiễn Đức Khổng Tử ra cửa và nói:
- Tôi nghe nói: Người giàu
sang lấy tiền bạc để tiễn nhau, người nhân đức dùng lời nói để tiễn nhau. Tôi
không thể làm người giàu sang, nhưng trộm lấy tiếng là người nhân đức, xin có lời
nầy tiễn Ông : Kẻ thông minh và sâu sắc là gần với cái chết vì họ khen chê người
ta một cách đúng đắn; kẻ giỏi biện luận, đầu óc sâu rộng làm nguy hiểm đến thân
mình vì họ nêu lên cái xấu của người khác. Kẻ làm con không có cách nào để giữ
mình, kẻ làm tôi cũng không có cách gì để giữ mình.
Ý của Đức Lão Tử, khi nói
ra các lời trên với Đức Khổng Tử, là Ngài chống lại sự thông minh, sự
Trung và sự Hiếu, là những nguyên lý mà Đức Khổng Tử đang chủ trương, bởi vì:
Có trí khôn thì dễ nguy, nếu cứ theo Trung và Hiếu thì cứ hoàn toàn bị lệ thuộc
vào vua và vào cha mẹ, khó lòng được sống tự do tự tại, ung dung thơ thới.
Đức Khổng Tử ra về, nói với
các học trò:
- Con chim, ta biết
nó bay; con cá ta biết nó lội, con thú ta biết nó chạy. Đối với loài chạy thì
ta có thể dùng lưới để săn, đối với loài lội thì ta có thể dùng câu để bắt, đối
với loài bay thì ta có thể dùng cung tên mà bắn, đến như con rồng cỡi mây cỡi
gió lên Trời, ta không sao biết được. Hôm nay, gặp được Lão Tử, Ông ta có lẽ là
con rồng chăng?
Kể từ đó về sau, Đức Lão Tử
không đầu thai xuống trần nữa. Khi biết người nào có duyên phần thì Ngài
dùng thần thông hiện xuống cõi trần để dạy đạo cho người ấy tu luyện, rồi Ngài
trở lại Cung Tiên.
Đến đời nhà Tấn, Đức Lão Tử
có hiện xuống, xưng là Hà Thượng Công dạy An Kỳ học đạo.
Đến đời vua Hán Văn Đế, Đức
Lão Tử hiện xuống trần, xưng là Quảng Thành Tử. Hán Văn Đế rất mộ đạo, sai sứ đến
rước về triều. Quảng Thành Tử nói:
- Lẽ nào không đích thân tới
rước mà lại sai sứ đến?
Sứ giả về tâu lại, Hán Văn
Đế đến gặp Quảng Thành Tử, nhà vua nói:
- Ở trong nước là bề tôi của
vua, thầy tuy có đạo mặc dầu, song cũng là dân của Trẫm, sao không chịu sụt lại
một chút mà làm kiêu như vậy ? Hay là Trẫm không làm được họa phước cho thầy
chăng?
Quảng Thành Từ nghe vua
nói như vậy, liền cất mình bay lên cao độ 100 thước, ngồi trên thinh không, ngó
xuống nói với vua Hán Văn Đế rằng:
- Nay, trên chẳng tới Trời,
dưới chẳng tới Đất, Bệ hạ làm họa phước cho ta sao đặng.
Vua Hán Văn Đế biết lỗi,
liền bước xuống xe làm lễ, xin thọ giáo. Quảng Thành Tử đưa cho nhà vua một cuốn
kinh bảo cứ học theo đó mà tu luyện.
Qua đến đời vua Hán Thành
Đế, Đức Lão Tử lại hiện xuống tại suối Khúc Dương , truyền đạo cho Vu Kiết.
Đời vua Hán An Đế, Đức Lão
Tử truyền Kinh Tội Phước Tân Khoa cho Lưu Tiên.
Đời vua Hán Trinh Đế, Đức
Lão Tử hiện xuống truyền kinh Bắc Đẩu cho Trương Thiên Sư.
Đời vua Hán Hoàn Đế, Đức
Lão Tử hiện xuống núi Thiên Thai truyền kinh Bác Động cho Vạn Niên Tiên sinh.
Đời vua Hán Linh Đế, Đức
Lão Tử hiện xuống truyền kinh cho Trương Thiên Sư một lần nữa.
Qua đời nhà Đường, Đức Lão
Tử hiện xuống tại núi Dương Giác, truyền đạo cho Đường Công.
Đời vua Đường Cao Tổ, có
người ở Phổ Châu, tên là Thiện Hành, đi ngang qua núi Dương Giác, gặp một Ông
già mặc áo trắng, gọi đến nói rằng:
- Ngươi về tâu lại với Đường
Thiên tử: Thái Thượng Lão Quân là Ông nội.
Đường Cao Tổ hay tin, liền
lập miếu thờ tại núi Dương Giác, và tôn Đức Lão Tử là “Huyền Nguơn Hoàng
Đế”.
Hồi thời nhà Châu, Đức Lão
Tử có hiện xuống truyền đạo cho Ông Lý Ngưng Dương, tu hành đắc đạo thành Tiên,
hiệu là Lý Thiết Quày (thường gọi là Lý Thiết Quả), đứng đầu Bát Tiên.
Đức Thái Thượng Đạo Tổ có
một kiếp giáng sanh xuống trần là Lão Tử, nên Ngài cũng được gọi là Thái
Thượng Lão Quân.
Tóm lại, từ thời tạo dựng
Trời Đất và có nhơn loại đến nay, không có thời nào mà Đức Thái Thượng Đạo Tổ
không giáng trần để độ những người có căn lành, tu hành đắc đạo.
Ngài do Khí Tiên Thiên hóa
sanh, nên Ngài có pháp thuật vô biên, biến hóa vô cùng, khi hiện xuống cõi trần,
khi trở về cõi Thượng Thiên, khi đầu thai xuống trần mang xác phàm để dễ truyền
đạo và giáo hóa nhơn sanh.
VII. Lão giáo tại
Việt Nam:
Lão giáo được người Tàu
truyền sang nước ta một lượt với Nho giáo, từ thời Sĩ Nhiếp làm Thái Thú. Dân
VN tin tưởng và sùng kính, nhưng không ảnh hưởng bằng Nho giáo.
Đời vua Đinh Tiên Hoàng,
Lão giáo khá bành trướng. Nhà vua phong Trương Ma Ni làm Tăng Lục Đạo Sĩ.
Qua đời nhà Lý, Lão
giáo vẫn tiếp tục thạnh hành.
Đến đời nhà Trần, vua Trần
Thái Tôn mở khoa thi Tam giáo, chọn những người tài giỏi về Nho giáo, Lão giáo,
và Phật giáo. Đến đây thì 3 đạo được tôn trọng như nhau. Ai theo đạo nào mà cái
học được tinh thâm thì được vua dùng, vời ra giúp nước, chớ không chỉ căn cứ
vào Nho học.
Qua đời nhà Lê, Lão giáo vẫn
không suy, nhưng đạo Nho và đạo Phật lại phát triển thạnh hơn. Vua Lê Thần Tôn đã
cho phép Trần Lộc lập ra Đạo Nội Tràng.
Từ đó về sau, Lão giáo vẫn
tồn tại, nhưng kém phổ thông. Tinh thần Lão giáo vẫn ảnh hưởng sâu xa vào tâm hồn
người Việt Nam. Bậc thượng lưu trí thức có tư tưởng phóng khoáng tự do,
không thích đem thân mình vào vòng danh lợi thì tìm cảnh an nhàn thung dung tự
tại, sống theo tinh thần của Lão giáo, tu dưỡng tánh tình.
Giới Nho sĩ, trong thuở
tráng niên, đem thân vào vòng danh lợi thì dùng Nho giáo để trị nước an dân, cứu
khổn phò nguy, nhưng khi trở về già, thì lại thích hợp với Lão giáo, sống thanh
tĩnh vô vi cùng với thiên nhiên.
Người bình dân thì tin tưởng
vào chuyện Thần Tiên, cúng vái xin bùa phép, đồng bóng, làm cho những biến thể
mê tín dị đoan của Lão giáo luôn luôn tồn tại.
Đạo giáo thất chơn
truyền tại đâu?
“Còn Đạo giáo là huyền bí,
thậm chí ư huyền bí, nên bực thượng trí mới thấu đáo chỗ căn nguyên, còn
thường nhơn chí hạ rất khó thông cơ mầu nhiệm vô cùng, bởi vậy mới hiểu lầm,
tưởng sai, mà bày ra phép tắc, phù chú, làm cho mê hoặc thói đời, thêm hủ phong
tục, khiến người nhiễm lấy dị đoan, nào là hô phong hoán võ, tróc quỉ trừ ma,
bày binh bố trận, mới biến ra Tả đạo Bàng môn, thiệt là rất hại.
“Đạo
thâm viễn, người tầm chẳng thấu,
Nên càng ngày ẩn giấu nơi
trong.
Về sau hậu học
bất thông,
Đem ra họa vẽ cua còng lôi thôi.”
(Trích
ĐTCG)
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...