Đạo Islam khi
truyền bá vào Việt Nam được gọi là đạo Hồi hay Hồi giáo. Trong những
sách sử Trung Hoa xưa, đạo Islam được gọi là Hồi giáo hoặc Hồi Hột giáo, vì
khi nó được truyền vào Trung Hoa thông qua một bộ lạc thuộc dân tộc Hồi Hột,
nên người Trung Hoa gọi Islam là đạo Hồi hoặc Hồi Hột giáo.
A. KHÁI QUÁT VỀ HỒI GIÁO
I. Khái
quát sự ra đời và quá trình truyền bá Hồi giáo vào Việt Nam
1. Sự ra đời và
phát triển của Hồi giáo
Đạo Islam khi truyền bá
vào Việt Nam được gọi là đạo Hồi hay Hồi giáo. Trong những sách sử Trung Hoa
xưa, đạo Islam được gọi là Hồi giáo hoặc Hồi Hột giáo, vì khi nó được truyền
vào Trung Hoa thông qua một bộ lạc thuộc dân tộc Hồi Hột, nên người Trung Hoa
gọi Islam là đạo Hồi hoặc Hồi Hột giáo. Sự ra đời của Hồi giáo bởi những tiền
đề kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng ở bán đảo Ảrập vào đầu thế kỷ VII.
1.1. Hồi giáo ra đời ở
bán đảo Ảrập vào đầu thế kỷ VII sau Công nguyên. Sự ra đời của tôn giáo này
xuất phát bởi một loạt nguyên nhân về kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng;
nó gắn liền với những biến chuyển xã hội, từ chế độ công xã nguyên thuỷ sang
chế độ xã hội có giai cấp. Lịch sử thống nhất nhà nước Ảrập thành một nhà nước
phong kiến độc quyền, đồng thời trên cơ sở thống nhất giữa các tín ngưỡng,
tôn giáo trên bán đảo Ảrập.
Sự ra đời của Hồi giáo gắn
liền với tên tuổi và sự nghiệp của Mohammad - người mạc khải, khai sáng tín
ngưỡng Hồi giáo. Mohammad được tín đồ Hồi giáo thế giới tôn vinh là
"tinh thần", "duy nhất", "toàn năng", "độ
lượng", "siêu việt" và "vĩnh cửu"... là thiên sứ và
Giáo chủ.
1.2. Sau khi Hồi giáo ra
đời, vào khoảng thời gian từ năm 622 đến năm 630, cùng với việc xây dựng lực
lượng, tôn giáo này phải trải qua thời kỳ đấu tranh quyết liệt, kết hợp những
cuộc "thánh chiến" với những hoạt động chính trị và ngoại giao,
Mohammad và những người Hồi giáo đã chinh phục được thành Mecca và truyền bá
Hồi giáo đến vùng này. Mohammad cùng những người anh em Hồi giáo xây dựng
Mecca thành "Thánh địa " - trung tâm Hồi giáo thế giới cho tới ngày
nay. Sau khi chinh phục thành Mecca, Hồi giáo đã trở thành một đế quốc bành
trướng thế lực, tiếp tục mở rộng "thánh chiến" tấn công để mở rộng
thế giới Hồi giáo. Mục tiêu trước hết là tiêu diệt người Do Thái ở Arabia,
tàn sát và bắt những người có thái độ chống đối làm nô lệ cho người Hồi giáo
chiến thắng. Từ năm 636, Hồi giáo bắt đầu những cuộc viễn chinh tấn công, mở
đầu cho một thời kỳ truyền bá Hồi giáo sang các quốc gia khác. Cho đến thế kỷ
XI, Hồi giáo trở thành một tôn giáo quốc tế, thống soái các quốc gia dân tộc
từ Địa Trung Hải đến Vịnh Ba Tư. Vào khoảng ba thế kỷ sau (từ thế kỷ XIV đến
XVI), Hồi giáo truyền bá xuống vùng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
1.3. Hiện nay, Hồi giáo
là tôn giáo có tín đồ đông nhất thế giới (trên 1,3 tỷ tín đồ), có mặt ở hơn
100 quốc gia trên tất cả các châu lục. Quốc gia có đông người Hồi giáo nhất
hiện nay không phải là nước ở khu vực Trung Đông như nhiều người vẫn tưởng,
mà là Indonesia nước ở khu vực Đông Nam Á với trên 180 triệu tín đồ chiếm 87%
dân số của đất nước này.
Mặc dù Hồi giáo Islam là
một tôn giáo lớn trên thế giới, nhưng lại không có hệ thống tổ chức giáo hội
quốc tế và không có hệ thống phẩm trật chức sắc (người giữ vai trò trung gian
thay quyền Thượng đế Allah) mà chỉ có các giáo sĩ đảm nhận những chức trách
như: Khalifat, Mufti, Naep, Hakim, Ahly, Imâm, Tuôn...
1.4. Từ khi Mohammad qua
đời, nội bộ Hồi giáo xảy ra nhiều cuộc tranh chấp quyền lực. Vì vậy, sau này
Hồi giáo phải chia thành các dòng, các hệ phái khác nhau. Cho đến nay, Hồi
giáo vẫn không có người thừa kế ngôi vị Khalifat (Giáo chủ). Đây là nguyên
nhân chính, là hệ quả của việc Hồi giáo không có tổ chức giáo hội quốc tế. Từ
thập niên 70 của thế kỷ XX trở lại đây, với sự gia tăng không ngừng số lượng
tín đồ Hồi giáo trên thế giới làm cho dạng thức thuần nhất của Hồi giáo thời
Mohammad không thể duy trì được mà đã có sự biến dạng thành những cộng đồng
(Jamah) ngăn cách bởi chế độ xã hội của mỗi quốc gia. Theo đó, Hồi giáo cũng
phát triển mối tương giao với những tín ngưỡng, tôn giáo khác. Chính vì vậy,
các quốc gia có đông người Hồi giáo có khuynh hướng thành lập tổ chức Hồi
giáo gắn với lãnh thổ của từng nước, kết hợp hoạt động tôn giáo với chăm lo đời
sống mọi mặt cho cộng đồng. Mặt khác, một số tổ chức Hồi giáo quốc tế cũng ra
đời, tuy nhiên các tổ chức này mang hình thức "liên hiệp" lỏng lẻo,
không phải là tổ chức giáo hội quốc tế.
2. Sự du nhập Hồi
giáo vào Việt Nam
Hồi giáo truyền vào khu
vực Đông Nam Á khá sớm, khoảng thế kỷ XI, XII. Nếu so với các khu vực Hồi
giáo khác trên thế giới, thì việc truyền bá Hồi giáo vào Đông Nam Á chủ yếu bằng
con đường "hoà bình" qua những thương nhân Ảrập, Ấn Độ, Ba
Tư. Những thế kỷ đầu sau khi ra đời, Hồi giáo phát triển nhanh như vũ
bão bằng chiến tranh với công thức “thanh gươm - vó ngựa - kinh
Qur'an". Tuy nhiên, khi chinh phục được Ấn Độ, đoàn quân Hồi giáo đã
mệt mỏi, lại đứng trước biển cả mênh mông đã cản bước tiến quân các chiến
binh Hồi giáo đến khu vực Đông Nam Á nên Hồi giáo đành phải truyền bá đến đây
qua các thương nhân và các giáo sỹ. Chính sự du nhập và phát triển bằng con
đường "hoà bình", lại từ nguồn Hồi giáo Ấn Độ đã dung hoà với văn
hoá Ấn Độ nên Hồi giáo ở khu vực Đông Nam Á thường bị pha trộn với tín ngưỡng,
phong tục tập quán địa phương. Điều này khác hẳn với những nơi Hồi giáo bành
trướng bằng những cuộc chiến tranh chinh phục. Hồi giáo khu vực Đông Nam Á
nói chung, ở Việt Nam nói riêng ít chịu ảnh hưởng của tư tưởng chủ nghĩa Hồi
giáo như một số khu vực khác.
Hồi giáo du nhập vào Việt
Nam qua các thời điểm khác nhau. Theo Tống sử Trung Quốc thì thế kỷ X đã thấy
người Chăm khi giết trâu để cúng, họ đều cầu nguyện câu kinh đề cao Thượng đế
Allah của người Hồi giáo, điều này có thể giả định từ thế kỷ thứ X, Hồi giáo
đã được truyền vào đất Chiêm Thành.
Vậy có thể nói: Từ thế kỷ
X, tín ngưỡng Hồi giáo đã manh nha ở Vương quốc Chămpa thông qua các thương
nhân từ Trung Cận Đông đem vào, gây ảnh hưởng nhất định trong đời sống tâm
linh người Chămpa. Nhưng Hồi giáo không phát triển, có lẽ vì lòng sùng tín thần
thánh Bàlamôn giáo, tập tục, lễ nghi cùng chế độ mẫu hệ đã bén rễ ăn sâu, trở
thành truyền thống trong xã hội Chămpa, trải qua hơn nghìn năm không dễ gì
thay đổi. Vì vậy, ở Vương quốc Chămpa cổ vào khoảng trước năm 1470 Hồi giáo
chưa phải là tôn giáo chính thống của người Chăm.
Sau năm 1470, một bộ phận
cư dân Chămpa lưu tán đã tiếp xúc với người Malaysia, Indonesia, Campuchia...
và họ bắt đầu tìm hiểu Hồi giáo ở các nước đó, nhiều người Chăm bỏ tôn giáo truyền
thống (đạo Bàlamôn) để theo Hồi giáo. Những người Chăm khi tiếp thu được tôn
giáo mới, họ quay về nước để truyền lại cho đồng bào mình. Từ đó Hồi giáo có
chỗ đứng đáng kể trong cộng đồng cư dân Chămpa và chính thời điểm này sự giao
hoà giữa đạo Islam và đạo Bàlamôn đã sản sinh ra một tôn giáo mới của người
Chăm, đó là đạo Bàni tại miền Nam Trung bộ.
Vào năm 1840, dưới triều
Nguyễn, quan bảo hộ Chân Lạp là Trương Minh Giảng bị quân của An Dương -
Campuchia đánh bại phải rút chạy về vùng thượng nguồn sông Tiền (Châu Đốc -
An Giang ngày nay) mang theo quân lính và người Chàm, người Mã lai theo Hồi
giáo, lúc đó nhà Nguyễn dựa vào lực lượng này lập các đội quân để giữ biên giới.
Từ đó hình thành vùng thứ hai theo Hồi giáo chính thống của người Chăm - đạo
Islam.
Những năm cuối thế kỷ
XVIII và đầu thế kỷ XIX, vùng Sài Gòn - Gia Định mở rộng giao lưu buôn bán với
một số quốc gia phương tây, từ đó trở thành trung tâm buôn bán của Nam bộ.
Các thương nhân đã thu nhận người Malaysia, Indonesia, Ấn Độ theo Hồi giáo.
Tuy nhiên, cho mãi đến cuối thế kỷ XIX khi Nam bộ bị Pháp chiếm đóng, quá
trình giao thương với bên ngoài ngày càng phát triển, là môi trường và điều
kiện để cho người Malaysia và Indonesia nhập cư vào đất này đông hơn. Ngoài
ra, trong khoảng thời gian từ năm 1880 - 1890, ở Gia Định cũng xuất hiện một
bộ phận người Ấn Độ, Pakistan có tín ngưỡng Hồi giáo là những thương nhân làm
nghề buôn bán tơ lụa, đồ gia vị cho những tiệm buôn, quán ăn. Đó là nguồn gốc
hình thành cộng đồng cư dân ngoại lai theo Hồi giáo ở TP. Hồ Chí Minh cho tới
ngày nay.
II. Đức tin và giáo luật
của Hồi giáo
1. Cũng như bất cứ một
tôn giáo nào, giáo lý Hồi giáo cũng bao gồm những quan niệm về thế giới và
con người. Tuy nhiên, giáo lý Hồi giáo chứa đựng yếu tố tín ngưỡng cổ của người
Ảrập. Cơ sở giáo lý Hồi giáo là niềm tin vào Thượng đế Allah và Thiên sứ
Mohammad, tin vào thiên thần và sự bất tử của linh hồn, tin vào ngày phục
sinh và phán xét cuối cùng. Đặc biệt là tin vào sự vĩnh cửu của kinh Qur'an
và luật Sariat.
Kinh Qur'an là thánh thư
của Hồi giáo, được thiết lập gồm 30 phần, 114 chương (Surah) với 6.211 câu
(Ayat) và được viết bằng tiếng Ảrập. Theo Hồi giáo, kinh Qur'an là những lời
giáo huấn của Thượng đế cho mọi người mà Thiên sứ Mohammad đã nhận được qua
thiên thần Gabriel trong khoảng 22 năm (610-632). Thực ra, kinh Qur'an là tập
hợp những lời thuyết đạo của Mohammad lúc còn tại thế, mãi về sau này được
sưu tầm, biên soạn thành văn bản chính thức lưu truyền cho đến ngày nay. Kinh
Qur'an được người Hồi giáo coi là "cuốn sách vĩ đại nhất, thông thái nhất"
chứa đựng mọi "chân lý và tri thức" của loài người.
Thực tiễn cho thấy, kinh
Qur'an không chỉ đơn thuần là kinh sách tôn giáo mà nó còn có ý nghĩa về tính
pháp lý trong xã hội, có nhiều quy định về vệ sinh, ăn ở, hôn nhân, cách cư xử
trong gia đình và trong quan hệ xã hội như: quan hệ mua bán, tài chính, chính
trị - có cả tội ác và hình phạt. Đây là một đặc điểm quan trọng nhất của Hồi
giáo, nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa đạo với đời, giữa tôn giáo và
chính trị.
Ngoài những điều, những
hành vi cuộc sống thường nhật của con người mà kinh Qur'an không quy định,
hành vi “đối nhân xử thế” của Mohammad hoặc những việc làm của tín đồ mà
không bị ngăn cấm đều được coi như những điều luật về tôn giáo và đạo đức của
con người. Sự ghi nhận đó là cơ sở và nguồn gốc sách luật thứ hai của tín ngưỡng
Hồi giáo - luật Sariat.
2. Hồi giáo là một tôn
giáo không có hệ thống phẩm trật chức sắc, tuy nhiên giáo luật Hồi giáo lại
chứa đựng nhiều nội dung và hành vi xử thế trong cuộc sống xã hội - con người
có tính chất bắt buộc cao và rất khắt khe. Nó vượt ra khỏi phạm vi đức tin và
những sinh hoạt tôn giáo thuần tuý để trở thành tiêu chuẩn pháp lý trong đời
sống xã hội, chi phối mọi hoạt động của người Hồi giáo. Vì vậy, một số quốc
gia Hồi giáo áp dụng và đưa luật Hồi giáo vào quản lý đất nước hoặc được thực
hiện với luật pháp nhà nước. Giáo luật Hồi giáo tập trung vào 5 điều sống đạo
cơ bản (còn gọi là 5 cốt đạo) sau đây:
- Xác tín hoặc còn gọi là biểu lộ đức tin (Tawhid).
- Cầu nguyện mỗi ngày (Solah).
- Tháng lễ Ramadan - tháng 9 Hồi lịch.
- Bố thí (Zakat).
- Hành hương (Hadji) viếng thánh địa Mecca.
Ngoài ra, những tín đồ Hồi giáo còn có nghĩa vụ dự thánh chiến (Jihad).
B. HỒI GIÁO Ở VIỆT NAM
I. Những đặc điểm chủ yếu
Ở nước ta, cộng đồng cư
dân Chăm theo Hồi giáo mang tính đặc thù rõ nét, được chia thành 2 dòng khác
nhau. Người ta thường gọi là Chăm Islam và Chăm Bàni với những đặc điểm chủ yếu
sau đây:
1. Truyền thống gắn
bó và đồng hành cùng dân tộc
Việt Nam chủ yếu chỉ có
người Chăm theo Hồi giáo. Vì vậy, Hồi giáo gắn bó với dân tộc Chăm, mà cư dân
Chăm là một dân tộc có nền văn hoá đa dạng và phong phú; có truyền thống yêu
nước, gắn kết với dân tộc và cách mạng, đã có nhiều đóng góp trong các cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm. Là một dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, đồng bào Chăm Hồi giáo luôn phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống
đoàn kết, yêu nước gắn bó với cộng đồng các dân tộc trong các cuộc kháng chiến
chống kẻ thù xâm lược, giành độc lập dân tộc.
Hơn nữa, từ khi có Đảng
đồng bào Chăm Hồi giáo luôn đi theo và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chấp
hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước;
làm tốt nghĩa vụ công dân, ủng hộ sự nghiệp đổi mới do Đảng đề xướng và lãnh
đạo, góp phần viết tiếp trang sử vẻ vang của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
2. Tính chính thống
của Hồi giáo có thay đổi
Bởi tác động của bản sắc
văn hoá dân tộc vùng Đông Nam Á, trong đó nền tín ngưỡng, tôn giáo bản địa cổ
Bàlamôn chiếm địa vị chủ yếu. Sự tác động này được gọi là quá trình “Chăm
hoá”.
Như khi nghiên cứu, để
chinh phục thế giới Ảrập và bành trướng thế lực, Hồi giáo chủ trương mở rộng
“đất thánh” bằng các cuộc thánh chiến, với khẩu hiệu “Thanh gươm, vó ngựa,
kinh Qur'an”. Nhưng khi Hồi giáo truyền bá xuống phía Đông bị cản trở bởi đại
dương nên không thể tiến hành thánh chiến mà các giáo sĩ truyền đạo thông qua
thương thuyền theo con đường mậu dịch để truyền bá và phát triển Hồi giáo ở
vùng này. Chúng ta có thể khẳng định khi Hồi giáo truyền bá xuống phía Đông
đã chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi bản sắc văn hoá truyền thống lâu đời của vùng
Á Đông và tín ngưỡng cổ Bàlamôn với chế độ mẫu hệ, làm cho tính cách Hồi giáo
phải biến đổi phù hợp với nền văn hóa bản địa.
3. Tính quốc tế của
Hồi giáo
Hồi giáo là tôn giáo có
số lượng tín đồ đông nhất thế giới, đang trong xu thế của quá trình “Hồi giáo
hoá thế giới”. Hơn nữa, thế giới đang đứng trước nguy cơ xung đột sắc tộc và
tôn giáo trong mối quan hệ “toàn cầu hoá”. Đảng ta chủ trương mở rộng quan hệ
quốc tế theo phương châm “Việt Nam là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng
thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Các tôn giáo ở Việt
Nam, nhất là Chăm Hồi giáo đã, đang và sẽ tiếp tục chịu sự tác động nhiều mặt
của Hồi giáo thế giới. Theo đó, một số sinh hoạt tôn giáo truyền thống của Hồi
giáo vốn mang tính quốc tế nay được mở rộng. Nó vừa là nhu cầu, vừa là đặc điểm
phổ biến đang phát triển.
Cùng với xu thế hội nhập
quốc tế của Nhà nước, Hồi giáo Việt Nam cũng mở rộng và phát triển giao lưu với
các cá nhân, tổ chức Hồi giáo ngoài nước. Mối quan hệ đó không chỉ vì mục
đích tôn giáo mà còn có những mục đích chính trị - xã hội. Nhằm thúc đẩy hoạt
động Hồi giáo nước ta hội nhập vào cộng đồng Hồi giáo thế giới.
II. Thực trạng về tình
hình Hồi giáo
1. Số lượng và
phân bố tín đồ
Hiện nay, theo số liệu
thống kê của các địa phương có Hồi giáo, số lượng tín đồ Hồi giáo khoảng hơn
72.000 người (bao gồm cả Chăm Bàni và Chăm Islam), cư trú trên địa bàn 13/63
tỉnh, thành phố cả nước. Hồi giáo ở nước ta hình thành hai dòng:
- Một là: Cộng đồng Hồi
giáo tuân thủ tương đối giáo lý Hồi giáo nguyên thuỷ gọi là Chăm Islam, sống
tập trung ở 12 tỉnh, thành phố: An Giang, TP. Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng
Nai, Ninh Thuận, Kiên Giang, Trà Vinh, Tiền Giang, Long An, Bình Dương,
Bình Phước và Thủ đô Hà Nội.
- Hai là: Cộng đồng theo
Hồi giáo đã bị “Chăm hoá” gọi là Chăm Bàni, sống tập trung ở ba tỉnh: Ninh
Thuận, Bình Thuận và Bình Phước.
Qua khảo sát về
tình hình Hồi giáo ở Việt Nam, có thể rút ra một số vấn đề sau:
- Hồi giáo ở Việt Nam
không nhiều và chủ yếu là trong cư dân Chăm. Tỷ lệ tín đồ tăng chậm trong thời
gian qua, ngoài một bộ phận bỏ tín ngưỡng Bàni theo Islam ở Phước Nam (Ninh
Thuận) vào những năm 60 của thế kỷ XX, số tín đồ theo Hồi giáo qua con đường
“truyền đạo” không đáng kể và chủ yếu là tăng tự nhiên.
- Dân cư hình thành theo
các nhóm cộng đồng Jam'ah có tính quần cư là chủ yếu, một bộ phận không lớn cộng
cư với người Kinh và các dân tộc anh em. Tuy nhiên, tính cộng đồng - nét truyền
thống tổ chức - xã hội của cư dân Chăm vẫn là lối sống đặc trưng của cư dân
Chăm Hồi giáo.
- Hồi giáo nước ta có sự
khác biệt giữa các vùng, trong đó Chăm Islam có mối quan hệ thường xuyên với
Hồi giáo thế giới, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á. Mối quan hệ đó, ngoài yếu
tố tôn giáo còn có quan hệ thân tộc.
2. Nhu cầu về niềm
tin tôn giáo
Đồng bào Chăm Islam và
Chăm Bàni có niềm tin tôn giáo sâu sắc vào Thượng đế Allah và Thiên kinh
Qur'an, là nhu cầu đời sống tinh thần không thể thiếu, nó gắn chặt với yếu tố
tôn giáo. Nó hoàn toàn khác với nhu cầu về vật chất trong đời sống xã hội.
Nhưng niềm tin đó lại có sự khác nhau trong quá trình thực thi giáo luật Hồi
giáo giữa hai dòng: Chăm Islam thực thi giáo luật Hồi giáo hầu như trọn vẹn
mang tính chính thống, yếu tố tôn giáo sâu sắc hơn; Chăm Bàni thực hiện giáo
luật mang tính tượng trưng, không thực hiện hết 5 điều sống đạo, chỉ thực hiện
trong tháng Ramadan mà họ quen gọi là tháng “vào chùa’’ của các vị chức sắc.
Mặt khác, Chăm Bàni chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tôn giáo Bàlamôn và tín ngưỡng
bản địa với chế độ mẫu hệ và tín ngưỡng đa thần, có yếu tố dân tộc mang tính
vượt trội.
3. Về thực trạng
kinh tế - xã hội
Đánh giá một cách tổng
quát, tình hình kinh tế - xã hội của đồng bào Chăm Hồi giáo nước ta hiện nay
được cải thiện. Đời sống kinh tế của đồng bào Hồi giáo được nâng cao nhờ cơ sở
hạ tầng phát triển, đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, phù hợp
với đặc điểm của từng vùng. Các biện pháp kỹ thuật được áp dụng vào sản xuất,
nhất là khi Đảng ta thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước. Cho nên, mức sống của
đồng bào Chăm cũng được nâng lên theo tỷ lệ chung ở từng vùng, từng địa
phương, số hộ đạt mức sống khá và giàu tăng lên. Tuy nhiên, vẫn còn một số cộng
đồng Hồi giáo nhỏ lẻ thiếu đất sản xuất. Do đó, tình hình tái nghèo và thất học
trong các cộng đồng này đang là một vấn đề cần được quan tâm.
Những năm gần đây, đời sống
văn hoá - xã hội trong các cộng đồng Hồi giáo cũng phát triển và tăng lên rõ
rệt. Theo đó, trình độ học vấn trong đồng bào Hồi giáo cũng từng bước nâng
lên, nhất là khi Nhà nước áp dụng chính sách miễn học phí cho học sinh là con
em đồng bào Chăm. Một bộ phận người Chăm Hồi giáo có trình độ cao đẳng, đại học
và trên đại học.
4. Về cơ sở thờ tự
Theo kết quả khảo sát, số
lượng cơ sở thờ tự của Hồi giáo đến năm 2009 là 79 cơ sở. Trong đó, Chăm
Islam có 40 thánh đường, 22 tiểu thánh đường; Chăm Bàni có 17 thánh đường
(chùa). So với trước ngày giải phóng miền Nam 30/4/1975, số lượng cơ sở thờ tự
của Hồi giáo tăng, nhiều cơ sở được trùng tu, sửa chữa khang trang.
5. Về tổ chức Hồi
giáo
Đối với Chăm Islam, trước
năm 1975, ở miền Nam, Hồi giáo có hai tổ chức chính thức là: "Hiệp hội
Chàm Hồi giáo Việt Nam" và "Hội đồng giáo cả Islam Việt Nam".
Hiệp hội Chàm Hồi giáo Việt Nam hoạt động dưới sự điều hành của Ban Quản trị
Hiệp hội Trung Ương và Đại hội đồng cơ sở. Nhằm mục đích: không hoạt động
chính trị mà duy trì những tinh hoa đạo đức trong sinh hoạt tôn giáo; thực
thi các tập tục truyền thống và đời sống đạo đã được kinh Qur'an giáo huấn.
Tuy nhiên, cả hai tổ chức này nhất là Hiệp hội Chàm Hồi giáo Việt Nam bị
chính quyền Mỹ, Ngụy lợi dụng, sử dụng làm công cụ chống cách mạng. Do đó, nó
cùng tồn tại đến ngày 30/4/1975 thì tự giải tán theo sự sụp đổ của chính quyền
ngụy Sài Gòn.
Mặt khác, trong cộng đồng
Chăm Bàni ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, trước năm 1975 đều có tổ chức
"Hội đồng giáo cả" tuy chưa được pháp luật thừa nhận nhưng trên thực
tế vẫn hoạt động và tồn tại cho đến nay.
Từ sau giải phóng miền
Nam đến trước khi có chủ trương của Đảng về công tác đối với Hồi giáo, ở Việt
Nam mới có một tổ chức là Ban Đại diện cộng đồng Hồi giáo TP. Hồ Chí Minh được
thành lập tháng 7/1992. Từ năm 2003 (thực hiện chủ trương của Đảng về công
tác Hồi giáo), Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp với Uỷ ban nhân dân các tỉnh,
thành phố có Hồi giáo đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo về mặt tổ chức cho
bà con tín đồ. Đến nay, đối với Chăm Islam, có thêm hai tổ chức Hồi giáo cấp
tỉnh ở tỉnh An Giang và Tây Ninh; đối với Chăm Bàni, có Hội đồng sư cả Hồi
giáo Bàni tỉnh Ninh Thuận. Trong thời gian qua, việc thành lập tổ chức của
các cộng đồng Hồi giáo giúp cho công tác quản lý nhà nước ở địa phương đối với
Hồi giáo tốt hơn, kịp thời đáp ứng những nguyện vọng chính đáng của bà con
tín đồ.
Thông qua các tổ chức
này, cấp uỷ, chính quyền, UBMTTQVN và đoàn thể các cấp có nhiều thuận lợi
trong việc tuyên truyền phổ biến chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng
và Nhà nước cho bà con tín đồ Hồi giáo. Nhằm giúp họ hiểu rõ sự quan tâm của
Đảng, Nhà nước đối với việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của tín đồ
Hồi giáo, củng cố niềm tin, ý thức tự nguyện ủng hộ và tham gia thực hiện
chính sách phát triển kinh tế - xã hội, cũng như chủ trương, chính sách tôn
trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta./.
Trần
Thị Minh Thu
Chuyên
viên Vụ Các tôn giáo khác
Ban
Tôn giáo Chính phủ
|