Phật giáo là một tôn giáo
khiêm tốn, chú trọng vào tâm linh và trí tuệ, nhắm vào mục đích giải thoát con
người khỏi thế giới biến động và khổ đau. Phật giáo không chủ trương tranh
giành uy quyền, củng cố thế lực hay bành trướng ảnh hưởng trong thế giới Vô
thường này. Phật giáo cũng không xem nặng hình thức màu mè và biểu tượng,
như vậy thì lá cờ Phật giáo giữ vai trò gì và vị trí của nó như thế nào trong bối
cảnh của Đạo Phật ngày nay. Suốt hơn hai ngàn năm trăm năm lịch sử Đạo Pháp, lá
cờ Phật giáo đã xuất hiện từ lúc nào và ở đâu, ý nghĩa của nó là gì?
Nguồn gốc lá cờ Phật giáo
Lá cờ Phật giáo mà ta thấy
ngày nay ra đời vào năm 1880 ở Tích Lan (Sri Lanka). Người có ý kiến mang đến
cho Phật giáo một lá cờ là một cựu đại tá quân đội Mỹ: Ông Henry Steel
Olcoott.
Đặt chân đến Tích Lan lần
đầu tiên vào năm 1879, ngay sau đó ông Olcoott đã hết sức say mê Phật giáo. Năm
1880 ông trở lại Tích lan và trình lên Ủy ban Phật giáo Colombo đề
nghị tạo cho Phật giáo một lá cờ. Hình thức và màu sắc của lá cờ xuất phát từ
trí sáng tạo của ông Olcoott, dựa vào sáu vòng hào quang của đức Phật và các
màu sắc của cầu vồng. Lá cờ cũng tượng trưng cho Lục đạo, tức sáu
đường tái sinh hay sáu thể dạng của tất cả chúng sinh trong cõi luân hồi.
Lá cờ được chính thức chấp
nhận trên đất Tích lan vào dịp lễ Phật đản ngày 28 tháng 4 năm 1885. Tuy nhiên
mãi đến ngày 25 tháng 5, năm 1950, trong lần hội nghị Phật giáo quốc tế ở thủ
đô Colombo (Tích lan), với 26 quốc gia tham dự, thì lá cờ ngũ sắc mới được
chính thức và nhất trí chấp nhận, nói lên sự thống nhất của Phật giáo thế giới.
Ngày nay, một lá cờ chung
cho toàn thể Phật giáo - biểu tượng của Hòa bình, Từ bi và Trí tuệ, không phân
biệt màu da và chủng tộc, không phân biệt giữa con người và tất cả những sự sống
khác - đã phất phới trên lãnh thổ của hơn 50 quốc gia trên thế giới. Ngày 24
tháng 2 năm 1951, tỳ kheo Thích Tô Liên, đại diện Ủy ban Phật giáo thế giới tại
Việt Nam, đi dự hội nghị Colombo đã đích thân mang lá cờ quý báu này về cho quê
hương chúng ta.
Hình thức lá cờ
Lá cờ hình chữ nhật, chia
đều thành sáu phần theo chiều dọc. Màu sắc gồm các màu của cầu vồng, nhưng chỉ
có năm màu được chọn : xanh dương, vàng nhạt, đỏ, trắng, cam (hay vàng nghệ), sọc
thứ sáu của lá cờ tượng trưng cho sự tổng hợp của các màu vừa kể. Vì thế, sọc
thứ sáu lập lại tất cả năm màu, nhưng xếp theo chiều ngang.
Lời đề nghị nguyên thủy của
ông H.S. Olcoott giải thích về lá cờ này không tìm thấy, tuy nhiên văn bản giải
thích hay tờ phác họa lá cờ của ông Olcoot có thể vẫn còn được lưu giữ trong
văn khố của Tích lan (?). Bài viết này do đó chỉ dựa vào một số tư liệu Tây
phương. Rất tiếc là trong các tài liệu này thì cách giải thích về màu sắc có vẻ
kém mạch lạc hoặc dùng những từ không phù hợp với Đạo Pháp cho lắm. Ý nghĩa tượng
trưng các màu sắc dựa theo các tài liệu ấy có thể được tóm lược như sau:
1) Màu xanh dương tượng
trưng cho « Thiền định ».
2) Màu vàng nhạt tượng
trưng cho sự « suy nghĩ đúng », có thể là « Chính tư duy » (?)
trong Bát chính đạo.
3) Màu đỏ tượng trưng cho
« sinh lực tâm linh » (?).
4) Màu trắng tượng trưng
cho « đức tin » (?).
5) Màu cam hay màu nghệ tượng
trưng cho « trí thông minh » (?), cũng có thể đây là « Trí tuệ »
(?).
6) Màu thứ sáu, tổng hợp của
các màu vừa kể, tượng trưng cho « hành vi không kỳ thị ».
Các tài liệu trên đây cũng
có thể đã được căn cứ vào các lời đề nghị của ông Olcoott (?). Dù sao thì lá cờ
cũng chỉ là một biểu tượng, và ý nghĩa mà ta gán cho nó là do nơi chúng ta. Ý
nghĩa của lá cờ sẽ được đề cập rộng hơn trong phần thứ hai của bài viết.
Henry Steel Olcoott là ai
?
H.S. Olcoott thực ra cũng
không phải là một người hoàn toàn vô danh. Ông sinh ngày 2 tháng 8 năm 1832 tại
New Jersey (Hoa kỳ) trong một gia đình Tin lành rất kỷ cương và ngoan đạo. Ngay
từ ngày còn nhỏ, cha mẹ ông đã khuyến khích ông quan tâm đến những vấn đề tâm
linh. Cha của ông là một thương gia, nhưng vào năm 1851 thì gia đình bị phá sản
và ông phải rời bỏ nhà trường. Sau một thời gian gián đoạn học hành và sống nhờ
họ hàng ở tiểu bang Ohio, ông trở lại đại học và trở thành một chuyên gia canh
nông. Ông viết báo và khảo cứu khoa học. Lấy vợ năm 1860, sinh được bốn con,
nhưng sau đó thì hai vợ chồng lại ly dị vào năm 1874.
Khi cuộc nội chiến ở Mỹ
bùng nổ thì ông gia nhập quân đội liên bang, giữ những chức vụ hành chính khá
quan trọng. Đến năm 1865, ông xuất ngũ và quay ra học luật rồi trở thành luật
sư và lại tiếp tục viết báo.
Ông Henry Steel OLCOOTT
(1832-1907)
Năm 1874 đánh dấu một khúc
quanh lớn trong cuộc đời của ông. Năm đó đã 42 tuổi, sau khi ly dị vợ, ông gặp
một người phụ nữ rất lạ lùng và đặc biệt và hai người kết bạn với nhau. Đó là
bà Helene Petrovna Blavatsky, một phụ nữ gốc người Nga, thuộc một gia đình thật
quý phái – có lẽ còn quý phái hơn cả gia đình của Nga hoàng lúc bấy giờ. Bà rất
quan tâm đến những vấn đề thần bí, đã từng chu du nhiều nơi trên thế giới, kể cả
Ấn độ và Tây tạng và viết khá nhiều sách. Bà Blavatsky và ông Olcoott cùng với
một người bạn nữa là William Quan Judge đứng ra thành lập hội Thông thiên học,
một truyền thống bao gồm tất cả các tôn giáo. Ông Olcoott được bầu làm chủ tịch
của hội này.
Bà Helene Petrovna
BLAVATSKY (1831-1891)
Năm 1878, trụ sở chính của
hội Thông thiên học được chuyển từ Mỹ về Adyar, một vùng ngoại ô của tỉnh
Madras ở Ấn độ. Trụ sở này vẫn còn hoạt động cho đến ngày nay. Tuy nhiên điều
đáng nêu lên hơn hết là khi ông Olcoott và bà Blavatsky đến Tích lan ngày 16
tháng 5, năm 1880 thì họ được dân chúng thủ đô Colombo tiếp đón rất trọng thể
vì họ đã được nghe danh ông từ trước. Ngày 25 tháng 5, ông Olcoott và bà
Blavatsky đã đến quỳ gối trước một tượng Phật khổng lồ tại đền Wijananda và xướng
lên bằng tiếng Pa-li những câu thệ nguyện về Tam quy (quy y Phật,
quy y Pháp, quy y Tăng) và Ngũ giới (không sát sinh, không trộm
cắp, không tà dâm, không nói xằng bậy, không say sưa), để xin được quy y.
Dư luận thời bấy giờ thường
gán cho ông cái biệt danh là người « Phật tử da trắng ». Thật vậy ông là một
trong những người Mỹ đầu tiên đã quy y. Sau đó, mặc dù ông đến Tích lan nhiều lần
và mỗi lần chỉ lưu lại trong một thời gian ngắn, ông đã thành lập được nhiều
trường đại học Phật giáo, chẳng hạn như các Đại học Ananda và Nalanda, các trường
Cao đẳng Phật học Dharmaraja và Visakha Vidyalaya…, tổng cộng gần 400 trường Phật
học. Ông giúp người Tích lan phục hồi truyền thống Phật giáo, chống lại ảnh hưởng
ngoại lai do thực dân Anh du nhập vào Tích lan. Ngoài ra ông lại còn cổ động cả
phong trào chống lại thực dân Anh trên phần đất này. Tháng 7 năm 1880, ông rời
Colombo như một vị anh hùng dân tộc của Tích lan. Sau đó ông quay trở lại vào
những năm 1881, 1882 và 1884. Năm 1884, khi rời Tích lan ông đi thẳng đến Luân
đôn và đòi chính quyền Anh phải thực thi sáu điều khoản ông đưa ra trong mục
đích bênh vực người Phật giáo Tích lan bị ức hiếp và bị hạn chế sinh hoạt Phật
sự ngay trên chính quê hương của họ. Chính quyền Anh quốc chỉ chấp nhận hai điều
khoản mà thôi. Kể lại những tình tiết trên đây, người viết chỉ nhắm duy nhất
vào mục đích trình bày nhiệt tâm của ông Olcoott đối với Đạo Phật nói chung và
đối với người dân Phật giáo Tích lan nói riêng mà thôi. Chẳng những ông có công
bênh vực và giúp hồi phục nền Phật giáo Tích lan mà lại còn mở đường cho Phật
giáo trên đất Mỹ nữa.
Ông H. S. Olcoott và Ngài
Sumangala, một vị cao tăng Tích lan trong Ủy ban Phật giáo Colombo
Ông mất ngày 17 tháng 2
năm 1907 tại Adyar. Người ta đã đắp lên người ông một lá cờ Mỹ và một lá cờ Phật
giáo rồi mang đi hỏa táng. Từ đó đến nay, 17 tháng 2 đã trở thành một ngày lễ của
Tích lan. Học sinh, sinh viên, Phật tử cùng với các nhà sư cầm cờ Phật giáo đi
diễn hành, đặt vòng hoa và lễ vật dưới chân đài tưởng niệm ghi nhớ công đức của
ông. Ngày nay, một đường phố lớn ở Colombo thủ đô Tích lan vẫn còn mang tên
ông.
Ý nghĩa của lá cờ Phật
giáo
Cách giải thích các màu sắc
của lá cờ như đã trình bày trong phần trên đây dựa vào một vài tài liệu bằng
Pháp ngữ. Trong một số tài liệu bằng Anh ngữ thì cách giải thích có khác hơn
đôi chút, tuy vẫn thiếu mạch lạc và không thống nhất. Sau đây là cách giải
thích thường thấy:
1) Màu xanh dương tượng
trưng cho Từ bi.
2) Màu vàng tượng trưng
cho Trung đạo.
3) Màu đỏ tượng trưng cho Đạo
đức.
4) Màu trắng tượng trưng
cho Đạo Pháp vượt ra khỏi không gian và thời gian.
5) Màu cam tượng trưng cho Trí
tuệ.
6) Màu tổng hợp (màu thứ
sáu) tượng trưng cho Sự thật tuyệt đối.
Vì lý do có nhiều khác biệt
trong ý nghĩa tượng trưng của màu sắc như đã trình bày, chúng ta cũng không nên
quá chú trọng và câu nệ vào cách giải thích từng màu. Chúng ta hãy xem lá cờ Phật
giáo tượng trưng cho ánh hào quang của Phật là đủ. Kinh sách kể rằng khi đức Phật
đạt được Giác ngộ dưới gốc cây Bồ đề thì thân của Ngài trở nên sáng ngời, tia
sáng toả rộng trên đầu tạo thành một hào quang sáu màu rạng rỡ.
Lá cờ được chia thành sáu
phần hay sáu sọc theo chiều dọc, tượng trưng cho sáu thể dạng của chúng sinh, tức Lục
thú hay Lục đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người,
A-tu-la và thiên). Sọc thứ sáu, tổng hợp của năm màu, tượng trưng cho sự hòa đồng,
không phân biệt giữa tất cả chúng sinh. Chẳng những lá cờ Phật giáo không mang
tính cách kỳ thị về quốc tịch, màu da và chủng tộc giữa con người, mà còn chủ
trương tôn trọng và hòa đồng tất cả mọi hình thức và dạng thể của sự sống.
Ta cũng có thể xem lá cờ
Phật giáo là ánh sáng của cầu vồng. Màu sắc trên lá cờ là màu sắc của cầu vồng.
Đối với Phật giáo Tây tạng, cầu vồng tượng trưng cho Báo thân (Sambhogakaya),
tức hiện thân của Phật, hình tướng của Phật.
Sau hết, tất cả mọi người
đều tìm thấy một chút màu cờ của quốc gia mình trên lá cờ ngũ sắc của Phật
giáo. Lá cờ Phật giáo không dương lên để phân định hay đánh dấu một lãnh thổ
nào cả, nó chỉ có thể kéo lên ở một nơi thật rộng lớn, một giang sơn không biên
giới, vượt khỏi mọi sự tranh giành. Giang sơn đó là giang sơn của Từ bi và rộng
lượng, của yêu thương và hy vọng. Giang sơn đó rộng lớn và mênh mông như không
gian.
Lá cờ Phật giáo cũng không
tượng trưng cho một chủ thuyết hay một niềm kiêu hãnh nào cả. Lá cờ Phật giáo
là biểu tượng của Hoà bình, không hề nhuốm một giọt máu nào, dù là giọt máu của
một sinh vật nhỏ nhoi và tầm thường nhất. Lá cờ Phật giáo được kéo lên để nhắc
nhở chúng ta hãy hy sinh tất cả cho sự an vui và hạnh phúc của nhân loại và tất
cả chúng sinh.
Lá cờ ấy cũng không kêu gọi
và không khích động ta phải xông lên để đương đầu với một kẻ thù nào cả. Đối với
người Phật tử, thì kẻ thù nguy hiểm và khó chế ngự nhất là kẻ thù đang ngự trị
trong tâm thức của mình, đang ẩn nấp trong thân xác của chính mình. Kẻ thù ngự
trị trong tâm thức là Vô minh, hận thù, tham lam và bám níu ; kẻ
thù ẩn nấp trong thân xác là những bản năng thú tính của chính mình.
Kết luận
Một lá cờ nói chung, thực
ra chỉ là một biểu tượng và ta có thể gán cho nó bất cứ một ý nghĩa nào ta muốn.
Đối với lá cờ Phật giáo, rất có thể ta cũng nhìn thấy nó mang nhiều màu sắc vui
mắt và xem nó như một vật trang trí ở cổng chùa, trước cửa nhà hay trên bàn thờ
Phật.
Tuy nhiên biết đâu rằng, đến
một lúc nào đó khi ta ngước nhìn lá cờ Phật giáo thì tâm thức ta bỗng nhiên sẽ
bừng lên ánh hào quang của Phật, rạng rỡ và muôn màu.
Khi nhìn thấy lá cờ đột
nhiên ta sẽ đồng loạt quán nhận được tất cả sáu thể dạng của chúng sinh : từ ngạ
quỷ, quỷ đói đến súc sinh, từ con người đến thánh nhân và thiên nhân, không mảy
may phân biệt, ghét bỏ, hận thù hay ganh tỵ. Tất cả chúng sinh và chính ta đều
đang quờ quạng trong bóng đêm, như đang bước đi trong một giấc mộng du. Bỗng
nhiên tâm thức ta bị khích động mãnh liệt bởi lòng Từ bi vô biên và ta ước mong
được gieo rắc tình thương trên khắp sáu nẻo của luân hồi.
Hoặc cũng có thể khi nhìn
lên lá cờ Phật giáo, tâm thức ta bỗng thấy cả một cầu vồng chan hòa ánh sáng nối
liền tâm thức của mình với tâm thức của Phật.
Chỉ khi nào đạt được như
thế thì có lẽ khi ấy ta mới mong có đủ sức mạnh để hiểu được hết ý nghĩa thật sự
của lá cờ Phật giáo.
Hoang Phong
Bures-Sur-Yvette (Pháp quốc)
20.05.07