Nước Đại Việt dưới thời
vua Lê Thánh Tông là thời kỳ cường thịnh, được gọi là Hồng Đức thịnh thế.
Và điều đó khiến Lê Thánh Tông trở thành một trong những vị hoàng đế vĩ đại nhất
của lịch sử Việt Nam. Những giai thoại dưới đây kể về những chuyến vi
hành của vị vua sáng suốt này.
Nghề nào là nghề cao quý
Chuyện kể rằng, năm nọ,
nhân dịp đầu năm mới, vua Lê Thánh Tông mặc thường phục vi hành để xem xét tình
hình dân chúng.
![]() |
Vua Lê Thánh Tông, tranh của Vũ Huyên. (Nguồn: Internet) |
Ði
tới đâu, nhà vua cũng thấy la liệt những câu đối ca ngợi cảnh thái bình thịnh
trị, trong lòng vui mừng lắm. Riêng nhà nọ, chẳng thấy treo đèn, kết hoa mà
cũng chẳng đối liễn gì.
Vua lấy làm ngạc nhiên, rẽ
vào hỏi, chủ nhà trả lời rằng: “Chẳng giấu
gì bác, nhà cháu làm cái nghề hèn hạ quá, nên chẳng dám phô phang gì với ai cho
thêm tủi!”
Vua ngạc nhiên, hỏi: “Sao lại có nghề gì là nghề hèn hạ?”
Chủ
nhà thưa: “Dạ, nhà cháu chỉ chuyên đi… mót
phân người để bán thôi ạ!”
Nghe xong, vua cười nói: “Nếu
vậy nhà bác đây là sang trọng bậc nhất, mà nghề của bác cũng là vẻ vang bậc
nhất. Câu đối của bác nếu dán lên cũng hay bậc nhất, việc gì mà lại kêu là
hèn!”
Nói đoạn, vua lấy giấy
bút, đề giùm cho một đôi câu đối như sau:
“Ý
nhất nhung y, năng đảm thế gian nan sự,
Ðề
tam xích kiếm, tận thu thiên hạ nhân tâm”.
“Khoác
một áo bào, đảm đang khó khăn thiên hạ
Cầm
ba thước kiếm, tận thu lòng dạ thế gian”
Khách qua lại, nhìn thấy
câu đối ai cũng kinh ngạc trầm trồ.
Ngược lại, dù làm nghề cao
sang đến đâu, ví như giáo viên, bác sĩ… mà tâm địa hẹp hòi, đánh mất đạo đức,
thì cũng không sánh nổi anh chàng mót phân “tận thu lòng dạ thế gian” kia!
Vua hiền gặp “quân tử đạo chích”
Để yên nghiệp nước, vua
không chỉ chăm lo việc giáo hóa, nông tang, mà còn chú trọng tới luật pháp để
xã hội đi vào quy củ, Quốc triều hình luật ra đời từ lý do đó. Một trong những
trọng tội vua Lê Thánh Tông muốn bài trừ ở mọi góc độ là nạn tham ô, nhũng lạm,
nhất là đối với quan lại. Giai thoại dưới đây đề cập tới vấn đề xử tệ nhũng lạm,
có liên quan tới chuyến vi hành của vị vua sáng suốt.
Thời vua Thánh Tông trị
vì, ở Thăng Long có một tay đạo chích rất giỏi nghề. Nhưng khác với những kẻ
chôm chỉa thường thấy khác, hắn hay trộm của nhà giàu chia cho dân nghèo, mà chỉ
lấy của những kẻ giàu có bất chính. Do thoắt ẩn, thoắt hiện, ra tay nhanh như
chớp nên nhiều người gọi hắn là Quận Gió.
Đúng vào dịp Tết nọ, vua
Thánh Tông cải trang vi hành đón giao thừa. Biết tiếng Quận Gió, vua sai người
tìm ra nơi Gió đang ở, rồi tự mình giả cách làm học trò trường Giám (Quốc Tử
Giám) vào gặp. Chàng giám sinh hờ nói với Quận Gió:
“Tôi ở Thanh Hóa Thừa tuyên, làm học trò trường Giám, năm
hết tết đến muốn về quê mà trong tay không còn cắc bạc nào. Dám xin ông giúp
cho lộ phí đi đường”.
“Chẳng
giấu gì nhà anh, tôi là Quận Gió, chắc anh đã biết tiếng. Anh nghèo, tôi sẽ
giúp. Tiền không có sẵn, nhưng tôi sẽ lấy của mấy tay trọc phú giúp anh. Vậy,
bây giờ anh định lấy của nhà ai?”
Chàng giám sinh hồ hởi:
“Trộm của phú ông ở cửa Tây thành được không?”
“Không được! Ông ấy giàu nhờ cày sâu, cuốc bẫm, lao động
vất vả quanh năm suốt tháng”, Quận
Gió lắc đầu.
“Vậy trộm của chủ cửa hiệu vàng bạc ở phố cửa Đông
thành?”, chàng
giám sinh lại tiếp.
Quận Gió lại lắc đầu, đáp:
“Ông ấy người ngay thẳng. Có của là nhờ buôn bán, tích
cóp. Giờ anh đợi ở đây, tôi đến nhà lão quan coi kho bạc nhà vua ở phố cửa Bắc
chôm cho ông vài nén. Lão ấy có lắm vàng ròng, bạc nén trong nhà. Đó là những
thứ không phải của hắn”.
Nói xong, Quận Gió nhanh
như chớp đã mất hút trong đêm đen. Chưa đầy một khắc, Quận Gió đã quay lại với
hai nén bạc trên tay, mỉm cười với chàng giám sinh:
“Hai nén bạc này, anh có đủ tiền làm lộ phí và còn để
dùng vào việc sôi kinh, nấu sử. Mong rằng sau này anh đỗ đại khoa, nhớ đừng có
bòn rút xương máu, công sức của dân mà hãy làm một ông quan liêm”.
Chàng giám sinh gật đầu cảm
tạ, lại soi hai nén bạc dưới ánh đèn dầu, thấy đề bốn chữ: “Quốc
khố chi bảo”. Không nghi ngờ gì nữa, đây là bạc trong kho của nhà nước.
Sáng mùng một Tết, chàng
giám sinh ấy đã ngự trên ngai vàng, dưới sân điện, các quan tung hô chúc Tết.
Khi ấy, vua Thánh Tông mới kể về chuyến vi hành đêm giao thừa, lại cho mọi người
chuyền tay nhau hai nén bạc “Quốc khố chi bảo”.
Viên quan coi kho mặt cắt
không còn giọt máu, bị lột bỏ hết mọi tước vị. Gia sản bị tịch thu, thân bị lưu
đày vì tội nhũng lạm quốc khố nhà nước. Còn Quận Gió sau đó được vua cho mời
vào cung ban hiệu là “quân tử đạo chích” và ban thưởng rất hậu. Giai thoại vi
hành trên của vua phần nhiều mang tính hoang đường, nhưng việc xử nghiêm tệ
tham nhũng thì sử sách còn ghi lại rất nhiều.
Theo
Daikynguyenvn