Đạo Tin lành ra đời
ở châu Âu vào thế kỷ thứ XVI có nguồn gốc chính trị, xã hội sâu xa.
I. VỀ TÊN GỌI ĐẠO TIN LÀNH
Tên gọi của mỗi tôn giáo đều
mang một ý nghĩa riêng, có khi nó liên quan đến một địa danh, một nhân vật
sáng lập, một điển tích lịch sử hay mỗi xu hướng giáo lý, thần học. Cũng có
khi tên gọi của một tôn giáo xác định mối quan hệ mang tính lịch sử... Tên gọi
của đạo Tin lành, có một ý nghĩa riêng và chỉ rõ mối quan hệ giữa đạo Tin
lành với các tôn giáo trong Kitô giáo.
Vào đầu Công nguyên, ở
vùng Trung Cận Đông thuộc vùng đất của đế quốc La Mã xuất hiện một tôn giáo mới
thờ Đấng Cứu thế - ngôi hai Thiên Chúa, tiếng Hy Lạp là Jésus Christ. Danh
xưng Jésus Christ dịch qua tiếng Việt là Giê-su Ki-ri-xi-tô, gọi tắt là Giêsu
Kitô; chữ Jesus dịch qua âm Hán là Gia tô; chữ Christ là Cơ đốc. Như vậy, đạo
thờ Đấng Cứu thế có những tên gọi theo cách dịch khác nhau: đạo Kitô, đạo
Giatô, đạo Cơ đốc. Từ tôn giáo địa phương thế kỷ IV đạo Kitô trở thành tôn
giáo của đế quốc La Mã rộng lớn và thường được gọi là Catholic. Thực ra tên gọi
Catholic có từ rất sớm để chỉ những cộng đồng Kitô giáo ban đầu và nó có nguồn
gốc từ tiếng Hy Lạp: Katholikos có nghĩa là chung (General), là thông thường
(Common) hay toàn bộ (Universal). Sau này, khi Kitô giáo phân rẽ thành Công
giáo Rôma, Chính thống giáo, Tin lành, Anh giáo thì trong nhiều trường hợp
Catholic (Công giáo) vẫn chỉ toàn bộ truyền thống Kitô giáo. Ở Việt Nam,
Catholic gọi là Công giáo, có một thời kỳ người Việt Nam gọi Công giáo là
Thiên Chúa giáo. Gọi như vậy không đúng vì cả Chính thống giáo, Tin lành, Anh
giáo đều thờ Thiên Chúa. Thấy thế, có người bổ sung thêm từ Rôma và gọi là đạo
Thiên Chúa hệ Rôma. Cách gọi này có vẻ rõ hơn nhưng xem ra cũng không chuẩn
xác, nên đã trở lại tên gọi chính thức của nó là: đạo Công giáo.
Đến thế kỷ XI, cụ thể là
năm 1054 Ki-tô giáo diễn ra cuộc đại phân liệt lần thức nhất, một bên theo
văn hoá Hy Lạp, một bên theo văn hoá La tinh, gọi là phân liệt Đông - Tây,
hình thành tôn giáo mới ở phương Đông: Chính thống giáo (Orthodoxism). Tên gọi
này biểu lộ quan điểm (Dox) thẳng thắn và đúng đắn (Ortho) của một "giáo
thuyết về niềm tin chân thật". Đôi khi người ta gọi Chính thống giáo là
Kitô giáo phương Đông. Thậm chí trong một số văn cảnh, người ta dùng các từ
Đông phương, Hy Lạp, Constantinople để chỉ Chính thống giáo, các từ: Tây
phương, La tinh, Rôma để chỉ Công giáo.
Thế kỷ XVI, cuộc đại phân
liệt lần thứ hai diễn ra trong Công giáo, hình thành một tôn giáo mới - đạo
Tin lành. Giáo hội Công giáo và phong kiến châu Âu gọi là đạo chống đối -
Protestantism, khi sang Trung Quốc, Protestantism dịch qua Hán gọi là "đạo
Thệ phản". Cuộc đại phân liệt lần thứ hai thực chất là cuộc cải cách tôn
giáo, cho nên trong nhiều trường hợp người ta còn gọi đạo Tin lành là "đạo
Cải cách" (Reformism). Đạo Tin lành truyền vào Việt Nam đầu thế kỷ XX,
ở miền Bắc được gọi theo cách của người Trung Quốc là "đạo Thệ phản",
ở miền Trung gọi là "đạo Giatô", ở miền Nam gọi là "đạo Huê Kỳ".
Đầu những năm 20, 30 của thế kỷ XX giáo sĩ Cadman người Canada thuộc Hội Truyền
giáo Cơ đốc - CMA, cùng với văn sĩ Phan Khôi dịch Kinh thánh ra tiếng Việt
Nam, hai ông không dịch Phúc âm (Evangelical) là "Tin mừng" như đạo
Công giáo, mà dịch là "Tin lành". Cách gọi Phúc âm là Tin lành của
những người theo đạo Cải cách (Thệ phản) dần dần thành thói quen và nhất là
nó phân biệt được với đạo Công giáo nên người ta gọi luôn đạo Cải cách là đạo
Tin lành cho đến ngày nay.
Cùng thời gian với việc ra
đời đạo Tin lành, xuất hiện một trào lưu cải cách theo cách riêng ở nước Anh
hình thành Anh giáo - Angelicalsm.
Như vậy, Kitô giáo hay Cơ
đốc giáo bao gồm: Công giáo (Catholic), Chính thống giáo (Orthodoxsm), Tin
lành (Protestantism), Anh giáo (Angelicalism), hay nói cách khác, đạo Tin
lành là "anh em" cùng một gốc với đạo Công giáo, đạo Chính thống và
Anh giáo.
II. HOÀN CẢNH VÀ ĐIỀU KIỆN
RA ĐỜI ĐẠO TIN LÀNH
1. Đạo Tin lành ra đời ở
châu Âu vào thế kỷ thế XVI có nguồn gốc chính trị, xã hội sâu xa. Trước hết
là sự xuất hiện của giai cấp tư sản với những yêu cầu mới về chính trị, xã hội,
tư tưởng tôn giáo. Trong điều kiện thời Trung cổ, Giáo hội Công giáo và giai
cấp phong kiến có quan hệ chặt chẽ với nhau, đạo Công giáo trở thành chỗ dựa
tư tưởng cho chế độ phong kiến, Giáo hội Công giáo bị chính trị hoá trở thành
thế lực phong kiến, giai cấp tư sản đã thực hiện cuộc cải cách đạo Công giáo
để "tháo bỏ hào quang tôn giáo" của giai cấp phong kiến, để thu hẹp
dần lực lượng và ảnh hưởng của giai cấp phong kiến, trước khi tiến hành cuộc
cách mạng xã hội - cách mạng tư sản để lật đổ chế độ phong kiến.
2. Đạo Tin lành ra đời thể
hiện sự khủng hoảng nghiêm trọng về vai trò ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo
do những tham vọng quyền lực trần thế và sự sa sút về đạo đức của hàng giáo
phẩm, nhất là sau cuộc "lưu đày Babylon" (1387 - 1417). Cùng với sự
khủng hoảng, uy tín ảnh hưởng của Giáo hội là sự bế tắc của nền thần học Kinh
viện (hình thành từ thế kỷ XII) - cơ sở quyền lực của Giáo hội Công giáo.
3. Đạo Tin lành ra đời xét
về mặt văn hoá, tư tưởng được thúc đẩy bằng phong trào Văn hóa phục hưng - chủ
nghĩa nhân văn, chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu thế kỷ XV, XVI. Với chủ trương đề
cao con người, đề cao nhân tính, nhân quyền đối lại việc đề cao thần tính, thần
quyền, đề cao tự do cá nhân, dân chủ và sự hưởng lạc, đối lại sự kìm hãm dục
vọng và sự ràng buộc của chế độ phong kiến và luật lệ Công giáo, đề cao lòng
yêu nước cụ thể đối lại đề cao lòng yêu Thiên Chúa và một nước Chúa chung
chung diệu vợi... Văn hoá phục hưng - chủ nghĩa nhân văn đã tạo ra chiều kích
mới về văn hoá, tư tưởng, cách nhìn mới về con người và tôn giáo, làm cơ sở
cho việc nảy nở và tiếp thu những tư tưởng cải cách tôn giáo.
4. Đạo Tin lành ra đời là
sự kế thừa, tiếp nối các phong trào chống lại quyền lực Giáo hoàng và Giáo
triều Rôma từ nhiều thế kỷ trước, mà tiêu biểu là một số phong trào từ thế kỷ
XII trở đi, như: phong trào Albigeois (thế kỷ XII) ở Pháp, phong trào
Waldensians (thế kỷ XII) ở Pháp, phong trào John Wycilff (thế kỷ XIV) ở Anh,
phong trào Jerome Savararola (thế kỷ XV) ở Ý, và nhất là phong trào Jean Huss
(thế kỷ XV) ở Tiệp…
5. Nguyên nhân trực tiếp
hay đúng hơn là nguyên cớ của cuộc cải cách là đời sống sa hoa hưởng lạc của
hàng giáo phẩm trong giáo triều Rôma và nhất là việc giáo hoàng Leon X ra lệnh
ban ơn toàn xá cho những ai dâng cúng tiền của cho Giáo hội bằng cách cho bán
"bùa xá tội". Những người xướng xuất và lãnh đạo cuộc cải cách
không phải ai khác là những giáo sĩ Công giáo: linh mục, tiến sĩ Thần học
Martin Luther (1483 - 1546), linh mục Thomas Munzer (1490 - 1525), linh mục
Jean Calvin (1509 - 1564), linh mục Ubric Zwinghi (1484 - 1531)...
Phong trào cải cách tôn
giáo nổ ra đầu tiên ở Đức vào tháng 11 năm 1517 bằng việc Martin Luther công
bố 95 luận đề chống lại chức vụ giáo hoàng, giáo quyền Rôma và việc bán
"bùa xá tội". Từ nước Đức, phong trào lan sang các nước Pháp, Thụy
Sĩ, Anh, Scốtlen, Ai-rơ-len, Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy... để đến giữa thế kỷ
XVII, sau cuộc chiến tranh ba mươi năm (1618 - 1648) bất phân thắng bại, gây
nhiều tổn thất, cả châu Âu và giáo triều Rôma chấp nhận những người cải cách
và từ đó hình thành một tôn giáo mới tách ra khỏi đạo Công giáo - đạo Tin
lành.
III. QUÁ TRÌNH TRUYỀN BÁ ĐẠO
TIN LÀNH
Thế kỷ XVII giai cấp tư sản
ở châu Âu bước lên vũ đài chính trị, tự khẳng định mình bằng một loạt cuộc
cách mạng tư sản (cách mạng tư sản Anh 1640, cách mạng tư sản Pháp 1789...).
Đặc biệt, sau đó giai cấp tư sản châu Âu tiến hành các cuộc chiến tranh xâm
lược ra bên ngoài để mở rộng thị trường và khai thác nguyên vật liệu. Đạo Tin
lành đã khai thác triệt để hoàn cảnh chính trị, xã hội nói trên nhằm mở rộng ảnh
hưởng. Nếu cuối thế kỷ XVII, mới có 30 triệu tín đồ thì cuối thế kỷ XVIII đầu
thế kỷ XIX, đạo Tin lành có đến trên 100 triệu tín đồ. Thế kỷ XX, với hai cuộc
chiến tranh thế giới (1914 - 1918, 1939 - 1945) và tiến trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá với tốc độ như vũ bão đã tạo môi trường thuận lợi cho đạo
Tin lành phát triển mở rộng ra nhiều nước trên thế giới. Đạo Tin lành ra đời ở
châu Âu, sau đó truyền sang các nước Bắc Mỹ. Ở Bắc Mỹ gặp môi trường tự do, đạo
Tin lành phát triển, hình thành nhiều tổ chức, hệ phái. Rồi từ Bắc Mỹ, bằng
nhiều con đường, trong đó có việc nhờ dựa vào vị thế, ảnh hưởng của Mỹ, đạo
Tin lành truyền trở lại châu Âu và lan toả ra toàn thế giới. Đó là con đường
phát triển của đạo Tin lành, đồng thời lý giải: cái nôi của đạo Tin
lành ở châu Âu, còn trung tâm (điều hành) Tin lành thế giới ở Bắc Mỹ.
2. Một điều cần quan tâm nữa,
trong quá trình phát triển, trước đây và hiện nay, một mặt khai thác điều kiện
thuận lợi như nói trên, mặt khác tự bản thân đạo Tin lành rất năng động, luôn
luôn đổi mới và thích nghi, đặc biệt là chủ trương "nhập thế", lấy
các hoạt động xã hội làm phương tiện, điều kiện để thu hút tín đồ. Đồng thời
do ra đời muộn, khi địa bàn truyền giáo ngày càng ít. Từ rất sớm, đạo Tin
lành đã hướng các hoạt động truyền giáo đến vùng dân tộc thiểu số. Trên bình
diện thế giới vào những thế kỷ trước, châu Á, châu Phi, châu Mỹ là những vùng
xa xôi của "châu Âu văn minh". Hiện nay, đối với từng quốc gia,
vùng miền núi, biên giới, hải đảo là những nơi dân tộc thiểu số sinh sống.
3. Đến nay, chỉ gần năm
trăm năm kể từ khi ra đời, đạo Tin lành phát triển với tốc độ rất nhanh, trở
thành một tôn giáo lớn, đứng thứ ba sau đạo Hồi giáo, Công giáo với khoảng
550 triệu tín đồ của 285 hệ phái có mặt ở 135 nước của tất cả các châu lục,
trong đó tập trung ở các nước công nghiệp tiên tiến như Tây Âu, Bắc Âu và Bắc
Mỹ.
IV. GIÁO LÝ, LUẬT LỆ, LỄ
NGHI VÀ TỔ CHỨC
Đạo Tin lành có nhiều tổ
chức hệ phái. Mặc dù có những điểm khác nhau về nghi thức hành đạo và cách tổ
chức giáo hội giữa các hệ phái, nhưng nhìn chung đều thống nhất ở những nội
dung, nguyên tắc chính. Có thể khái quát giáo lý, luật lệ, lễ nghi, tổ chức của
đạo Tin lành để so sánh với đạo Công giáo như sau:
1. Kinh thánh và giáo lý
+ Trước hết về Kinh
thánh, cả hai tôn giáo Tin lành và Công giáo đều lấy Kinh thánh (gồm Cựu ước
và Tân ước) làm nền tảng giáo lý. Đạo Tin lành đề cao vị trí của Kinh thánh,
coi đó là chuẩn mực căn bản, duy nhất của đức tin và sự hành đạo. Đạo Công
giáo lại cho rằng ngoài Kinh thánh còn có những văn bản khác như nghị quyết
các Công đồng chung, các sắc chỉ, thông điệp... của Giáo hoàng, về nguyên tắc
cũng có giá trị như giáo lý. Đạo Tin lành đề cao Kinh thánh một cách tuyệt đối,
tất cả tín đồ và chức vụ mục sư, truyền đạo đều sử dụng Kinh thánh, nói và
làm theo Kinh thánh. Đối với đạo Tin lành, Kinh thánh có vị trí cực kỳ quan
trọng. Trong các trường hợp, Kinh thánh giữ vai trò như một giáo sĩ trên cả
hai phương diện mục vụ và truyền giáo.
+ Giáo lý của đạo Tin lành
và Công giáo về cơ bản giống nhau. Cả hai tôn giáo đều thờ Thiên Chúa, tin
theo thuyết "Thiên Chúa ba ngôi" (Ngôi Một: Cha, Ngôi Hai: Con,
Ngôi Ba: Thánh thần; Ngôi Hai được "lưu xuất" từ Ngôi Một, Ngôi Ba
được "lưu xuất" từ Ngôi Một và Ngôi Hai); tin vũ trụ, muôn vật đều
do Thiên Chúa tạo dựng và có điều khiển; tin con người do Thiên Chúa tạo dựng
theo cách riêng và có phần hồn và phần xác; tin con người có tội lỗi; tin có
Ngôi Hai Thiên Chúa là Giêsu Kitô xuống trần chịu nạn, chịu chết chuộc tội
cho loài người; tin có Thiên thần và Ma quỷ, có Thiên đàng và Địa ngục; tin
có ngày Phục sinh, Tận thế và Phán xét cuối cùng.
Tuy nhiên, có một số chi
tiết trong một số tín điều truyền thống của đạo Công giáo được đạo Tin lành sửa
đổi và lược bỏ tạo ra sự khác biệt nhất định giữa đạo Tin lành và Công giáo.
+ Đạo Tin lành tin có sự
hoài thai Chúa Giêsu một cách mầu nhiệm của bà Maria nhưng cho rằng bà Maria
chỉ đồng trinh cho đến khi sinh Chúa Giêsu, sau đó không còn đồng trinh nữa.
Thậm chí một số phái Tin lành cho rằng Kinh thánh nói Bà Maria sau khi sinh
Chúa Giêsu còn sinh cho ông Giuse một số người con khác một cách bình thường.
Một số phái Tin lành đã trích dẫn những câu Kinh thánh nói về việc bà Maria
có con thêm với ông Giuse, như trong sách Matheu ở chương 13 câu 54, 55 có
nói: "... Anh em Ngài (Chúa Giêsu) có phải là Giacô, Giosep,
Simson, Giuđa ?" (Matheu 13; 55,56); hoặc sách Giăng chương 2, câu
12 còn nói rõ hơn: "Sau việc đó, anh em và môn đệ Ngài (Chúa Giêsu) đều
xuống thành Ca-bê-na-um" (Giăng 2; 12). Do vậy, đạo Tin lành chỉ
kính trọng chứ không tôn sùng thờ lạy bà Maria như đạo Công giáo. Bà Maria chỉ
có công sinh và nuôi dạy Chúa Giêsu, chứ không phải là mẹ của Thiên Chúa.
+ Đạo Tin lành tin có
Thiên sứ, có các thánh Tông đồ, các Thánh tử đạo và các Thánh khác, nhưng
cũng chỉ kính trọng và noi gương, chứ không tôn sùng và thờ lạy họ như đạo
Công giáo. Đạo Tin lành không thờ các tranh ảnh, hình tượng cũng như các di vật.
Không tôn sùng và thực hiện hành hương đến các Thánh địa, kể cả Giêrusalem,
núi Xinai, đền thánh Phêrô và Phaolô.
+ Đặc biệt, đạo Tin lành
không thờ lạy các hình tượng và họ cho rằng Kinh thánh đã dạy: "Hình
tượng là công việc do tay người làm ra, hình tượng có miệng mà không nói, có
tai mà không nghe, có lỗ mũi mà chẳng ngửi, có tay nhưng không rờ rẫm, có
chân nào biết bước đi... phàm kẻ nào làm hình tượng mà nhờ cậy nơi đó, đều giống
nó" (Thi thiên 115; 4-8).
Tuy nhiên, trong một số
trường hợp, đạo Tin lành có dùng các tranh ảnh, hình tượng trong sinh hoạt
tôn giáo nhưng mang ý nghĩa tài liệu để giảng giải, truyền thụ.
+ Đạo Tin lành tin có
Thiên đàng, Hoả ngục nhưng không quá coi trọng tới mức dùng nó làm công cụ
khuyên thưởng răn đe, trừng phạt đối với con người. Đạo Tin lành không có Luyện
ngục, nơi tạm giam các linh hồn mắc tội nhẹ đang chờ cứu vớt như đạo Công
giáo. Họ cho rằng Kinh thánh chỉ nói đến Thiên đường, Hoả ngục, không nói đến
Luyện ngục.
2. Luật lệ, lễ nghi
Trong đời sống tín ngưỡng,
đạo Tin lành là một tôn giáo đặc biệt đề cao lý trí trong đức tin, cho rằng sự
cứu rỗi chỉ đến bởi đức tin chứ không phải vì những "hình thức ngoại tại"
(tức là không phải vì các luật lệ, lễ nghi). Do đó luật lệ, lễ nghi, cách thức
hành đạo của đạo Tin lành đơn giản không cầu kỳ, rườm rà như đạo Công giáo.
+ Trong bảy phép Bí tích của
đạo Công giáo (Rửa tội, Thêm sức, Giải tội, Thánh thể, Sức dầu, Truyền chức,
Hôn phối) đạo Tin lành chỉ thừa nhận và thực hiện phép Rửa tội (Bắptem), phép
Thánh thể. Vì họ cho rằng Kinh thánh chỉ nói đến những phép đó mà thôi. Một số
phái Tin lành có thêm lễ Dâng con trẻ cho Thiên Chúa, dựa theo tích trong Cựu
ước rằng A-bra-ham đã dâng con trai là Y-Sác cho đức Giê-hô-va.
+ Đạo Tin lành cho rằng
phép Bắptem không phải tẩy trừ tội lỗi một cách linh nghiệm mà đó là sự thay
cũ đổi mới của mỗi con người, một sự liên lạc bằng lương tâm và lý trí đối với
Chúa Trời. Do vậy, người chịu Bắptem phải đủ tuổi để hiểu biết các lẽ đạo, và
nhất là phải ăn ở trong sạch, không được phạm tội. Nghi lễ Bắptem của đạo Tin
lành được tiến hành theo lối cổ như thánh Gioan rửa tội cho Chúa Giêsu trên
sông Gio-đăng bằng cách dìm cả người xuống nước, chứ không dội ít nước lên đầu
một cách tượng trưng như Công giáo.
+ Nguyên thuỷ, đạo Tin
lành có 3 quan điểm về Lễ Thánh thể: M. Luther tuy tuyên bố không công nhận
"thuyết biến thể" nhưng lại cho rằng bánh và rượu trong Lễ Thánh thể
cũng là máu thịt Chúa Giêsu, uống rượu và ăn bánh là uống máu và ăn thịt Chúa
Giêsu; U.Zwingli cho rằng Lễ Thánh thể chỉ đơn thuần kỷ niệm về sự chết của
Chúa Giêsu, bánh và rượu chỉ có ý nghĩa vật chất; J. Calvin dung hoà quan điểm
của Luther và Zwingli, rằng rượu và bánh trong Lễ Thánh thể vừa có ý nghĩa vật
chất (ở bên ngoài), vừa có ý nghĩa thuộc linh (ở bên trong). Trong quá trình
phát triển, tuy các phái Tin lành còn có những quan điểm khác nhau về Lễ
Thánh thể nhưng nhìn chung đều phủ nhận "thuyết biến thể" của đạo
Công giáo. Đa số phái Tin lành cho rằng Lễ Thánh thể là kỷ niệm về sự chết của
Chúa Giêsu chuộc tội cho loài người, qua đó nhắc nhở con người sống xứng đáng
với Thiên Chúa. Lễ Thánh thể của đạo Công giáo được tiến hành với nghi thức
rườm rà, tín đồ chỉ được ăn "Bánh thánh" còn "Rượu thánh"
không được uống mà dành cho các giáo sĩ. Đạo Tin lành thực hiện nghi lễ Thánh
thể đơn giản hơn, tất cả tín đồ và giáo sĩ cùng uống rượu và ăn bánh. Lễ
Thánh thể thường được tổ chức vào chủ nhật đầu tiên của từng tháng.
+ Ngoài hai phép Bắptem và
Mình thánh, đạo Tin lành duy trì các lễ như lễ Nôel, lễ Phục sinh, lễ Dâng
con trẻ cho Chúa, lễ Hôn phối và các nghi lễ khác cho người quá cố...
+ Đạo Công giáo cho rằng
con người không những phải làm việc thiện mà còn phải hãm mình để chuộc tội.
Đạo Tin lành lại quan niệm rằng việc chuộc tội cho loài người đã có Chúa
Giêsu làm trọn rồi. Con người làm việc thiện để tỏ ra xứng đáng với Thiên
Chúa. Con người phải có đức tin mới được cứu vớt.
+ Tín đồ đạo Công giáo
xưng tội trong toà kín với linh mục là hình thức chủ yếu nhất, còn tín đồ đạo
Tin lành xưng tội trực tiếp với Thiên Chúa. Đạo Công giáo đặt ra nhiều bài
kinh để cho mọi người cầu nguyện hàng ngày (quen gọi là Kinh nguyện). Đạo Tin
lành chỉ tin có Kinh thánh, dùng Kinh thánh trong tất cả các sinh hoạt tôn
giáo. Khi xưng tội cũng như khi cầu nguyện, tín đồ đạo Tin lành có thể đứng
giữa nhà thờ, trước đám đông để sám hối hoặc nói lên ý nguyện của mình một
cách công khai.
+ Nhà thờ (thánh đường) của
đạo Công giáo được xây dựng tốn kém, kiến trúc đồ sộ theo lối cổ, bài trí
công phu cầu kỳ và cho rằng đó là Nhà Chúa - nơi Chúa ngự một cách linh
thiêng, đặc biệt, trong và ngoài nhà thờ, treo nhiều ảnh tượng. Nhưng trái lại,
nhà thờ đạo Tin lành thường kiến trúc hiện đại, đơn giản, trong nhà thờ không
có tượng ảnh, chỉ có cây thập giá biểu tượng Chúa Giêsu chịu nạn. Trong nhiều
trường hợp đạo Tin lành chỉ sử dụng những phòng họp hoặc hội trường đôi khi một
nhà tạm của tín đồ dùng để làm điểm nhóm lễ, chia sẻ lời Chúa trong Kinh
thánh.
3. Chức sắc và tổ chức
Giáo hội
+ Chức sắc của đạo
Tin lành gồm các chức vụ: mục sư (tên gọi theo Kinh thánh) và dưới mục sư là
truyền đạo (còn gọi là giảng sư). Hiện nay, Hội thánh Việt Nam (miền Nam), Hội
thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) đều thống nhất gọi truyền đạo là mục sư
nhiệm chức. Một số phái Tin lành vẫn duy trì chức giám mục, nhất là những hệ
phái chịu ảnh hưởng của Anh giáo. Chức sắc đạo Tin lành chủ yếu là nam, nhưng
cũng có một số phái có tuyển chọn cả phụ nữ và nhìn chung họ không giữ chế độ
độc thân. Chức sắc đạo Tin lành tuy được coi là "người chăn bày"
nhưng không có thần quyền, tức là không có quyền thay mặt Thiên Chúa ban
phúc, tha tội cho tín đồ, không phải là cầu nối trung gian trong mối quan hệ
giữa tín đồ đạo Tin lành với đấng thiêng liêng. Quan hệ giữa giáo sĩ với tín
đồ bình đẳng, cởi mở. Có hệ phái Tin lành bầu ra mục sư, truyền đạo theo thời
gian. Chức sắc đạo Tin lành hoạt động dưới sự kiểm soát của tín đồ, hàng năm
tín đồ bỏ phiếu tín nhiệm mục sư (hoặc truyền đạo) quản nhiệm Hội thánh cơ sở.
Đạo Tin lành chủ trương
xây dựng các giáo hội độc lập với những hình thức cơ cấu khác nhau, tuỳ thuộc
vào từng hệ phái và hoàn cảnh điều kiện cho phép. Có hệ phái Tin lành duy trì
cơ cấu 2 cấp Trung ương và Hội thánh cơ sở (chi hội), có hệ phái Tin lành duy
trì thêm cấp trung gian là Giáo khu hay Địa hạt (tương đương như giáo phận của
đạo Công giáo). Nhân sự lãnh đạo các cấp giáo hội theo nhiệm kỳ thông qua bầu
cử dân chủ (trực tiếp, bằng phiếu kín, từng chức danh). Thành phần lãnh đạo
Giáo hội không chỉ có mục sư, truyền đạo mà có cả tín đồ tham gia. Đặc biệt,
các hệ phái Tin lành đều trao quyền tự quản cho hội thánh cơ sở với tinh thần
tự lập, tự dưỡng, tự truyền. Các hệ phái Tin lành không ngăn cản tín đồ, chức
sắc tách ra để gia nhập các hệ phái khác hoặc đứng độc lập.
+ Đạo Tin lành thường có
hai sinh hoạt về mặt tổ chức là Bồi linh và Hội đồng (đại hội đại biểu). Bồi
linh còn gọi là Hội đồng linh tu được tổ chức hàng năm theo các cấp giáo hội
để nâng cao trình độ giáo lý, thần học cho tín đồ, mục sư, truyền đạo. Tuỳ
theo cấp tổ chức bồi linh mà thành phần tham dự khác nhau. Nếu bồi linh cấp
trung ương thì chỉ có các mục sư, truyền đạo và những chức vụ chủ chốt của
các chi hội. Nếu bồi linh ở cấp chi hội thì mở rộng đến các tín đồ. Đại hội đại
biểu ở cấp chi hội thường họp mỗi năm một lần, gọi là Hội đồng thường niên. Hội
đồng ở chi hội có nhiệm vụ tổng kết công việc trong một năm và bàn chương
trình hoạt động của năm tới, bầu ban chấp sự; bỏ phiếu tín nhiệm mục sư, truyền
đạo chủ tọa và bầu chọn đại biểu đi dự Đại hội đồng cấp trên (nếu trùng nhiệm
kỳ của Đại hội đồng). Đại hội đại biểu trên cấp chi hội là Đại hội đồng.
Thành phần tham dự Đại hội đồng là các mục sư, truyền đạo và đại biểu tín đồ
được cử ở các chi hội.
Đại hội đồng tổ chức theo
nhiệm kỳ để giải quyết các công việc nội bộ, xây dựng hoặc sửa đổi hiến
chương (Điều lệ) và bầu nhân sự lãnh đạo giáo hội.
V. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ ĐẠO
TIN LÀNH
Qua phân tích quá trình ra
đời, phát triển, giáo lý, luật lệ, lễ nghi, tổ chức giáo hội chúng tôi khái
quát một số nét đặc trưng cơ bản của đạo Tin lành như sau:
1. Đạo Tin lành là tôn
giáo tách ra từ đạo Công giáo ở thế kỷ XVI cùng với sự xuất hiện của giai cấp
tư sản và chủ nghĩa tư bản. Nội dung cải cách chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng
dân chủ tư sản, ý chí tự do cá nhân. Trong sinh hoạt tôn giáo, đạo Tin lành đề
cao vai trò cá nhân. Trong sinh hoạt về tổ chức, đạo Tin lành đề cao tinh thần
dân chủ. Các luật lệ, lễ nghi, cách thức hành đạo, cơ cấu tổ chức của đạo Tin
lành đơn giản, nhẹ nhàng không rườm rà, gò bó như đạo Công giáo.
2. Những nội dung cải cách
đã làm cho đạo Tin lành trở thành một tôn giáo có mầu sắc mới mẻ, thích hợp với
giai cấp tư sản, tiểu tư sản, công chức, trí thức... thị dân nói chung trong
xã hội công nghiệp. Đặc biệt với lối sống đạo nhẹ nhàng, đề cao đức tin và
vai trò cá nhân, đạo Tin lành duy trì tín ngưỡng trong mọi hoàn cảnh chính trị,
xã hội, kể cả những khi bị o ép, cấm cách.
3. Đạo Tin lành còn là một
tôn giáo có đường hướng và phương thức hoạt động rất năng động, luôn đổi mới
từ nội dung đến hình thức để thích nghi với hoàn cảnh xã hội. Đặc biệt, đạo
Tin lành tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội, nhất là lĩnh vực từ thiện
nhân đạo, lấy đó làm phương tiện mở rộng ảnh hưởng. Điều này tạo ra uy tín và
khả năng tiếp cận, chung sống với nhiều chế độ chính trị khác nhau.
4. Ngoài tầng lớp thị dân,
đối tượng truyền đạo quan trọng thứ hai của đạo Tin lành là đồng bào các dân
tộc thiểu số. Đó là những vùng đất mới - nơi chưa có tôn giáo chính thống hoặc
tôn giáo, tín ngưỡng cũ đang suy thoái, mất uy tín, nơi đời sống dân sinh,
trình độ dân trí thấp. Truyền đạo đến những vùng này, đạo Tin lành không những
phát huy lợi thế vốn có "đơn giản về luật lệ, lễ nghi, cách thức hành đạo"
mà còn nghiên cứu rất kỹ đặc điểm lịch sử, văn hoá, tâm lý, lối sống, phong tục,
tập quán của từng dân tộc, chủ động địa phương hoá, dân tộc hoá để dễ dàng
hoà nhập.
5. Ra đời, phát triển cùng
với giai cấp tư sản cho nên đạo Tin lành có mối quan hệ khá chặt chẽ với giai
cấp tư sản. Giai cấp tư sản sử dụng đạo Tin lành như một thứ vũ khí trong các
cuộc cách mạng tư sản ở thời kỳ đầu và việc tìm kiếm thị trường thuộc địa sau
này. Ngược lại, đạo Tin lành nhờ dựa vào giai cấp tư sản để củng cố phát triển
lực lượng, kể cả việc lợi dụng các cuộc chiến tranh xâm thực mà giai cấp tư sản
tiến hành.
6. Tuy nhiên, trong từng
thời kỳ lịch sử, từng tổ chức hệ phái Tin lành, mối quan hệ nói trên có sự
thay đổi ở từng nước, từng khu vực. Thời gian sau này, đạo Tin lành chịu ảnh
hưởng của các xu hướng tiến bộ trên thế giới nên nhiều phái Tin lành tách dần
khỏi sự kiềm tỏa của các thế lực chính trị./.
Vụ
Tin lành
Ban Tôn giáo Chính Phủ
|