“Mê tín” thường được hiểu là “tin vào những gì
mê hoặc, sai lầm”. Có một định nghĩa nữa, khách quan hơn, đó là “những niềm tin
hay ý niệm phát xuất từ lòng dễ tin không dựa trên lý lẽ hay kiến thức - nhất
là khi những niềm tin hay ý niệm nầy không cần có bằng chứng vững vàng và đầy đủ.”
Đa số quan điểm tín ngưỡng và thực hành trong
Phật Giáo ngày nay nằm trong hai định nghĩa trên.
Tôn giáo mang hai bản chất cơ bản đó là huyễn
hoặc và nô lệ hóa. Phật giáo không là một trường hợp ngoại lệ.
Khi nói về “huyễn hoặc”, tôi muốn đề cập đến
vô số những huyền thoại diễn tả thần phật, tiên thánh, ma quỷ, phép mầu trong hầu
hết tất cả kinh điển Phật giáo.
Theo tôi, các huyền thoại đó không phải là nền
tảng cơ bản trong lời dạy nguyên thủy của Đức Bổn Sư Thích Ca. Theo tôi, nếu
nhìn kỹ vào lịch sử Phật Giáo thì sẽ thấy là những huyền thoại đó đã được sư
tăng, chủ yếu là của phái Đại Thừa, thêu dệt thêm trong quá trình truyền chép
kinh điển qua nhiều thế kỷ. Nói cách khác, theo tôi thì đa số những gì truyền dạy
trong Phật giáo Đại Thừa đều là mê tín dị đoan; còn nguyên lý tín ngưỡng của Phật
giáo Tiểu Thừa thì tuy phản ảnh trung thực hơn những gì Đức Bổn Sư đã dạy nhưng
cũng vẫn không tránh khỏi nhiều vấn đề huyền bí huyễn hoặc.
Hậu quả tai hại nhất của sự “huyễn hoặc” nầy
là hiện tượng mê tín dị đoan lan tràn trong Phật Giáo. Đây là vì tăng ni, và Phật
tử đại chúng, đã đem các huyền thoại kể trên ra để biến chế ý tưởng cơ bản của
Phật pháp và pha trộn những tín ngưỡng dân gian khác vào nhau để tạo thành phương
cách thực hành đạo pháp của họ.
Có những mê tín dị đoan rất rõ rệt hiện đang
phổ biến tại nhiều chùa chiềng trong và ngoài nước Việt Nam như cúng sao giải hạn,
cầu vong, cầu siêu, cầu phước, bói toán, xin xâm, xin keo, chuộc giải bùa ngải,
coi ngày, coi tuổi, cúng đốt vàng mã, v.v. Nếu chính các tăng ni sư thực hành
những điều nầy thì trách sao Phật tử đại chúng chẳng noi gương làm theo.
Ngoài ra còn có một dạng mê tín dị đoan khác
khó nhận thấy hơn vì qua nhiều thế kỷ chúng đã được che đậy dưới lốt áo
"Phật pháp". Dạng mê tín dị đoan nầy liên quan đến các khái niệm như
"Tây Phương Cực Lạc", "đầu thai", "nhân quả" mà
tôi trình bày chi tiết ở các tiểu luận khác.
Yếu tố “nô lệ hóa” trong Phật Giáo tuy không
rõ rệt bằng nhưng vẫn mạnh mẽ và lan tràn tương tự như trong các tôn giáo độc
thần như Thiên Chúa Giáo, Do Thái Giáo và Hồi Giáo.
“Nô lệ hóa” là vì tín đồ Phật Giáo vẫn bị đe dọa
bởi những ý niệm như thất đức, tội lỗi, v.v. cũng như bị khuyến dụ bởi những hứa
hẹn như Niết Bàn, có phước, được phù hộ, v.v. “Nô lệ hóa” là vì Phật tử
có khuynh hướng tòng phục sư tăng vì tin rằng họ có những quyền phép đặc biệt để
cứu độ Phật tử, nắm giữ tiêu chuẩn đạo đức, có đạo đức hơn người “thường”, v.v.
Ngoài ra, Phật giáo cũng không tránh được cái
tệ nạn khi giới tu sĩ lạm dụng Phật pháp để phục vụ ích lợi riêng. Những lợi
ích riêng nầy mang đủ dạng từ tiền bạc, địa vị, uy quyền, chính trị cho đến tình
cảm...
Phương cách thực hành của Phật Giáo trong xã hội
có nhiều khiếm khuyết trầm trọng.
Thí dụ, nhìn vào các bảng tuyên dương công đức,
sổ vàng cúng dường chiếm ngữ ngay tiền sảnh các chùa miếu cùng với việc các “thầy”
chú trọng vào việc gây quỹ để tranh nhau xây cất chùa lộng lẫy huy hoàng, dựng
tượng Phật to lớn vĩ đại, v.v.., tôi không khỏi kết luận rằng phần lớn cái gọi
là đạo Phật ngày nay đã bị lạm dụng để biến thành một phương pháp mưu lợi cầu
danh.
Tôi cần nhấn mạnh là ở đây tôi không nói về lý
thuyết cơ bản của Đức Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni. Ở đây tôi đang nói về cái Phật Giáo đang được vô số (đại đa số) Phật tử
tin, áp dụng và thực hành ngày nay.
Có người cho rằng tôi không nên dựa trên sự hiểu
biết và cách thực hành của một số Phật tử để đánh giá Phật Giáo. Để trả lời tôi
sẽ dùng một sự so sánh giữa tôn giáo và ngôn ngữ dưới đây.
Trong ngôn ngữ thỉnh thoảng có những từ ngữ mới
được đặt ra bởi ai đó; nếu các từ ngữ mới nầy được nhiều người hiểu, dùng và phổ
biến sâu rộng thì chúng sẽ trở thành một phần của ngôn ngữ ấy (và nếu ít ai
dùng đến thì chúng sẽ dần dần biến mất đi).
Trong ngôn ngữ cũng thường có nhiều từ ngữ mà
ý nghĩa nguyên thủy của chúng được thay đổi dần theo thời gian và bối cảnh xã hội;
nếu đủ số người hiểu và dùng chúng theo cách mới thì chúng sẽ dần dần chính thức
mang những ý nghĩa mới.
Tôn giáo cũng tương tự như ngôn ngữ. Ý nghĩa
và đặc thù của mỗi tôn giáo được xác định và biến đổi bởi những gì số đông tín
đồ hiểu biết, nhìn nhận và thực hành.
Tôi biết rằng những điều tôi diễn tả ở trên đều
chỉ là những sự kiện và hiện tượng mà tôi thấy về Phật Giáo chớ không phải là
lý thuyết nguyên thủy thật sự của Đức Bổn Sư Thích Ca. Nhưng đây chính là cái
lý thuyết và bản chất của cái Phật Giáo mà đa số Phật tử nhận biết và thực
hành. Bất kể lời Ngài thật sự truyền dạy ra sao đi nữa, chỉ có cái hình thức
của đạo Phật mà đa số Phật tử đang hiểu và hành là cái đạo Phật được mọi người
nhận diện. Và đây cũng chính là cái đạo Phật mà tôi đánh giá.
Tôi cho rằng phần đông Phật tử ngày nay đều mê
tín và phần đông chùa chiềng sư sãi đều mưu lợi cầu danh cả. Tuy tôi không có dữ
kiện đầy đủ để đưa ra con số chính xác nhưng theo những gì tôi nhìn thấy thì
tôi cho rằng đại đa số Phật tử và tăng sư nằm trong thành phần nầy.
Cách truyền dạy Phật Giáo cũng giống như các
tôn giáo khác, Phật tử dựa vào giới tăng lữ để truyền giảng Phật pháp. Giới
tăng lữ cũng đóng vai trò lãnh đạo trong việc xác định và phổ biến các quy luật
từ việc nghi lễ, cúng bái cho đến tiêu chuẩn đúng sai, xấu tốt lẫn phong cách
sinh hoạt trong đời sống hàng ngày. Thế mà qua không biết bao nhiêu thế hệ nay,
vô số tăng sư qua lời nói và hành động của họ đã bóp méo lý thuyết Phật pháp cơ
bản và truyền dạy những điều sai lầm mà theo tôi chỉ đáng liệt vào mê tín dị
đoan.
Một thí dụ tiêu biểu và quảng bá rộng rãi nhất
là quan niệm nếu tụng niệm bao nhiêu hồi kinh gì đó, cầu thỉnh hình tượng Phật
gì đó đem về nhà thờ, cúng dường bao nhiêu tiền hay xây cất trùng tu chùa miếu
gì đó, v.v.. thì sẽ được nhiều phước đức và do đó sẽ được phù hộ cho tai qua nạn
khỏi, làm ăn phát đạt, gia đình êm ấm, tình duyên thuận lợi, v.v. Đây là một
cách mà "luật Nhân Quả" và khái niệm "nghiệp phước" đã và
đang được diễn giảng và truyền bá lan tràn trong Phật Giáo. Đây cũng là lý do
chính tại sao vô số Phật tử đến chùa xì xụp bái lạy trước các hình tượng Phật
sơn son thếp vàng lộng lẫy.
Có người cho rằng Phật tử làm những điều đó
không có hại gì cho ai cả. Tôi cho rằng tuy không trực tiếp làm hại đến ai
nhưng cách diễn giải sai lầm về luật Nhân Quả nầy đi ngược hẳn với lời dạy của
Phật rằng “tự mỗi người phải hành đạo để tự giải thoát mình vì không ai, kể cả
Phật, có thể cứu độ ai khác được”.
Và những quan niệm sai lầm loại nầy cũng dẫn đến
những phương cách hành đạo kỳ hoặc. Thí dụ như nhiều Phật tử được dạy rằng nếu
trả tiền cho người khác tụng kinh thì họ cũng được phước giống như tự họ tụng
kinh. Việc trả tiền nầy thường được Phật tử dùng một mỹ từ là “cúng dường”. Nhiều
người tuy muốn có phước nhưng vì không có thời giờ, hay kiên nhẫn, tụng kinh
nên thường “cúng dường” cho các tăng sư để tụng kinh thay thế giùm họ.
Trong những năm gần đây, phương cách hành đạo
kỳ hoặc vừa kể trên đã bước thêm bước nữa để trở thành quái đản: nhiều vị tăng
sư dùng thời giờ rảnh rỗi để tụng sẵn trước những tạng kinh “thịnh hành”. Những
vị tăng sư nầy ghi sổ cẩn thận số lần họ đã tụng các tạng kinh nầy; đến khi Phật
tử nào cần thí dụ như 120 thời kinh Pháp Hoa chẳng hạn thì họ chỉ cần trả một số
tiền đã quy định trước cho một vị tăng sư rồi vị nầy sẽ “hồi hướng” 120 thời
kinh Pháp Hoa (mà ông đã tụng sẵn rồi) qua cho Phật tử trên. Vị tăng sư nầy rồi
sẽ xóa bỏ 120 thời kinh Pháp Hoa ra khỏi danh sách lưu trữ của ông. Việc tụng
kinh trả tiền đã phổ biến thành một hệ thống kinh doanh có quy củ, bài bản hẵn
hòi.
Tôi cũng thường phê bình về những chuyện thờ
cúng rườm rà, lọng đón, chuông đưa, khẩn cầu Trời Phật, bái lạy tăng sư, đúc tượng,
phóng sinh, v.v.. thường thấy ở các chùa chiềng.
Nhiều người cho rằng đó chỉ là đặc thù của Phật
giáo khi tín đồ muốn biểu hiện lòng tin của họ một cách công khai giữa chốn
đông người. Và họ cho rằng vì thế thì không nên chấp nhất mà phê
bình, chỉ trích làm gì nhất là khi những việc làm trên tuy không đúng với thuyết
Phật dạy nhưng cũng không làm hại đến ai cả.
Trước nhất, những người đó không thấy rằng
chuyện hành đạo trái hẳn với thuyết Phật dạy như vậy thật ra có tác dụng làm hư
hoại cả đạo lý lẫn hành giả của Phật giáo. Nói cách khác nó làm hư hoại chính
các Phật tử như họ và làm hư hoại cả hệ thống triết lý, tư tưởng của Đức Bổn Sư
Thích Ca. Những chuyện làm nầy tạo ra cơ hội để các tăng sư gian tham mưu danh
cầu lợi dễ dàng, làm cho Phật tử càng ngày càng ngu muội hơn cũng như hao công
tốn của mà không được lợi ích gì cho quá trình phát triển tâm linh thật sự của
họ cả.
Thứ hai, chính cách suy nghĩ và thái độ trên
đã gián tiếp dung dưỡng để các điều sai trái trên tiếp diễn và bành trướng mãi
trong Phật Giáo.
Những sự việc tệ hại vừa kể trên chỉ là vài
thí dụ tiêu biểu của vô số những sự việc tương tự khác phổ biến trong Phật
Giáo.
Phần lớn Phật tử, kể cả giới tăng lữ, vì thiếu
hiểu biết và vì tham lam nên đã diễn giải sai lạc và áp dụng, thực hành thuyết
Phật một cách mê muội.
Dù muốn dù không, Phật Giáo được nhận diện và
đánh giá dựa trên những hành động và nhận thức của Phật tử. Những sự việc tệ hại
trên rất có thể đã bắt đầu xảy ra ngay từ lúc Phật Giáo mới thành hình; chúng
đang thịnh hành ngày nay và hầu như chắc chắn chúng sẽ tiếp tục xảy ra cho đến
ngày Phật Giáo tàn lụn…
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...