PHẬT A DI ĐÀ....

Theo kinh sách Đại Thừa thì Phật A Di Đà sống qua hàng ngàn kiếp. Thí dụ như theo hòa thượng Thích Thiện Hoa biên soạn thì 4 trong hàng ngàn kiếp đó được diễn tả dưới đây:

1/ Theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì "Đức Phật A Di Đà, kiếp trước là con của đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai. Ngài nhờ công đức thường giảng kinh Pháp Hoa cho chúng sanh nghe, nên thành Phật hiệu là A-di-đà ở cõi Tây Phương Cực Lạc".

2/ Theo kinh Quán Phật Tam Muội Hải thì "Đời quá khứ Ngài làm Tỳ-kheo, chăm lòng kính lễ quán tưởng tướng lông trắng giữa chặn mày của đức Phật Không Vương, nên được thọ ký Phật hiệu là A Di Đà ".

3/ Theo kinh Bi Hoa thì “Đời quá khứ hằng hà sa kiếp trước, A Di Đà là vua Chuyển Luân tên là Vô Trách Niệm. Một hôm vua nghe đức Phật Bảo Tạng đến thuyết pháp tại vườn Diêm Phù ở gần bên thành … Khi đó đức Phật Bảo Tạng liền phóng hào quang sáng ngời, soi khắp cả thế giới của chư Phật mười phương, cho chúng hội đồng thấy … Vua đảnh lễ Phật, quỳ gối chắp tay phát lời đại nguyện ... Do nhân duyên ấy, sau Ngài thành Phật hiệu là A Di Đà ở cõi Tây phương Cực Lạc”.

4/ Phật Thích Ca kể rằng "Đời quá khứ lâu xa, cách hơn 10 ức kiếp, vua một nước tên là Diệu Hỷ có người con trai thứ hai là Kiều Thi Ca bỏ ngôi vinh quí theo Phật Thế Tự Tại xuất gia dưới pháp danh là Pháp Tạng. Pháp Tạng đứng trước Phật, phát 48 lời đại nguyện muốn độ khắp tất mười phương chúng sanh … Khi ấy chư thiên rải hoa, tán thán, quả đất rúng động, giữa không trung có tiếng khen rằng ‘Pháp Tạng sẽ thành Phật hiệu là A Di Đà’".

Những bài biên soạn khác về Phật A Di Đà cũng đưa ra các câu chuyện huyền bí tương tự.

Ngay cả nếu chấp nhận rằng Phật A Di Đà đã có thật sự đầu thai qua hàng ngàn kiếp đi nữa thì địa danh, tên họ, gia tộc và kỷ niên của tất cả nhân vật trong chuyện đều được người viết kinh đề cập đến một cách đột ngột và tùy tiện. Các chi tiết trên đều không có bằng chứng lịch sử gì cũng như không thể nào kiểm chứng được.

Thí dụ như trong chuyện kể về kiếp thứ nhất ở trên thì “Đại Thông Trí Thắng Như Lai” là ai và gốc gác ở đâu? “Kiếp trước” là hồi nào, vào khoảng năm nào? Nếu chỉ vì “nhờ công đức thường giảng kinh Pháp Hoa cho chúng sanh nghe” mà được thành Phật thì như vậy chẳng phải trái ngược với lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni về cách thức đạt đến giác ngộ hay sao?

Trong chuyện kể về kiếp thứ hai ở trên cũng vậy, “phật Không Vương” là ai? Và có thật là chỉ vì “chăm lòng kính lễ quán tưởng tướng lông trắng giữa chặn mày của đức Phật Không Vương” nên được thành Phật chăng?

Trong chuyện kể về kiếp thứ ba và thứ tư, tên tuổi và gốc gác của các nhân vật cũng được giới thiệu đến dưới tính cách mơ hồ tương tự. Thời điểm trong các chuyện nầy cũng rất đáng nghi ngờ (thí dụ như “quá khứ hằng hà sa kiếp trước” và “10 ức kiếp”).

Nói chung, cách trình bày và giới thiệu các dữ kiện về Phật A Di Đà trong các kinh sách cũng như các tình tiết như “hào quang sáng ngời, soi khắp cả thế giới của chư Phật mười phương, cho chúng hội đồng thấy” hay là “khắp cõi đất đều rung động, hoa báu mưa xuống trên mình người, và giữa hư không tự nhiên tiếng nhạc vang lừng” làm người đọc không khỏi liên tưởng đến các chuyện giả tưởng như Tề Thiên Đại Thánh (con khỉ sinh từ đá, thực chất là thần khỉ Hanoma - Ấn Độ) hay Mục Kiền Liên Thanh Đề. Và giá trị của chúng có lẽ cũng không khác nhau mấy.

Những tài liệu và dữ kiện về Phật A Di Đà rất khó thuyết phục người khảo cứu rằng đây là một nhân vật lịch sử. Hơn nữa, chỉ có tông phái Đại Thừa thờ Phật A Di Đà trong khi tông phái Tiểu Thừa không công nhận vị phật nầy.

Khi nhìn qua lịch sử hình thành và phát triển của Đại Thừa, kết luận hữu lý nhất là Phật A Di Đà đã được đem vào kinh sách dựa trên những truyền thuyết, những vị thần tưởng tượng của Ấn Độ Giáo, như thần khỉ Hanôma mà Ngô Thừa Ân xây dựng một Tề Thiên Đại Thánh trong Tây Du Ký.

Những kinh sách nầy được sao đi chép lại qua bao nhiêu thế hệ không ai bao giờ kiểm chứng. Chùa chiềng theo kinh sách mà dựng tượng A Di Đà cũng không khác gì những tượng các Tổ, các Thánh, các La Hán, Tề Thiên Đại Thánh, Mục Kiền Liên, v.v. bất kể gốc gác lịch sử của các nhân vật trên.

Khuynh hướng của người Á Đông là thấy tượng thì bái lạy, thờ cúng. Dần dần rồi Phật A Di Đà chiếm một vị thế ngang hàng với nhân vật lịch sử trong Phật Giáo là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Làm ăn mua bán, hợp đồng, giao dịch, người có hộ khẩu thì chắc ăn hơn lại không tin không theo, người không rõ nguồn gốc hộ khẩu, địa chỉ thì cứ phát nguyện đi theo. Thật buồn cười cho sự ngây ngô!

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét

Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...