Ngày nay chúng ta đã thấy được việc ngụy
kinh của Trung Quốc như thế nào, họ đã tưới tẩm vào tâm chúng ta bằng những niềm
tin sai lạc, trong dòng sinh tử luân hồi hơn ngàn năm qua chúng ta chỉ biết dựa
vào sự gia hộ của Phật A Di Đà, 1 vị Phật do họ sáng tạo không tìm thấy trong
kinh Nguyên Thủy.
Kinh A Di Đà nằm trong hệ thống Đại Thừa mà các nhà nghiên cứu
Phật học cho rằng không phải do Phật thuyết, một loại ngụy kinh nhằm mê hoặc những
người muốn được giải thoát mà không nhọc sức tu hành. Những người bênh vực kinh
Đại Thừa đã không minh chứng được nguồn xuất xứ của kinh, không biết kinh được
kết tập thời điểm nào, vị Thánh Tăng nào đã chứng minh cho sự ra đời của Đại Thừa?
Sở trường của người Trung Quốc là ngụy tạo,
cái gì họ cũng làm được từ ngàn năm xưa cho đến ngày nay. Bắt đầu là ngụy kinh,
điển hình nhất là kinh A Di Đà của pháp môn Tịnh Độ. Phật A Di Đà do họ sáng tạo
dựa trên những truyền thuyết tưởng tượng của Ấn Độ Giáo, không đưa ra được chứng
cứ niên đại, thời điểm xảy ra trong kinh thì rất mơ hồ không kiểm chứng được
như "hằng hà sa kiếp trước", còn những nhân vật hay pháp thuật thì giống
như truyện phong thần, tề thiên đại thánh. . . Ngoài A Di Đà, 1 vị "Phật"
do trí tưởng của họ, họ tạo thêm 4 vị "bồ tát" tại Trung Quốc để cường
điệu cho rằng Tứ Đại Danh Sơn là đạo tràng của "bồ tát" Văn Thù (Ngũ
Đài Sơn), Phổ Hiền (Nga Mi Sơn), Địa Tạng (Cửu Hoa Sơn) và Quan Thế Âm (Phổ Đà Sơn). Những nhân vật này
không có thật, không chứng cứ lịch sử vì vậy không thể kiểm chứng được, Trung
Quốc đã thống trị đời sống tâm linh chúng ta, khiến chúng ta sợ sệt mỗi khi nói
đụng chạm đến những vị "bồ tát" này. Chúng tôi đã tới Trung Quốc 3 lần,
đã thấy tâm địa của chính quyền Trung Quốc, họ triệt để khai thác niềm tin mê
tín của tín đồ Phật giáo qua ngành du lịch để moi tiền Phật tử, họ tuyên truyền
trong đời người nếu được dịp đảnh lễ những vị "bồ tát" này, tín tâm sẽ
tăng trưởng cho con đường học Phật. Bốn ngọn núi này được tuyên truyền là nơi ứng
hiện của 4 vị "bồ tát", tứ Đại Danh Sơn có thể xem là điểm thu hút của
Đại thừa Phật Giáo hay nói khác hơn, Đại Thừa Phật Giáo Trung Quốc.
Chúng ta cũng nên thắc mắc, tại sao 4 vị
"bồ tát" này chỉ tập trung ở Trung Quốc mà không có những vị "bồ tát" ở những
quốc gia PG Đại Thừa khác? Một quốc gia có đến 4 vị "bồ tát" mà không
cảm hoá được sự tàn độc, gian ác của Trung Quốc.
Chẳng lẽ những "bồ tát" này
gia hộ cho Trung Quốc thành công trong việc đánh cắp kỹ thuật chế tạo phi cơ
chiến đấu và phi thuyền không gian của Mỹ? Gia hộ cho Trung Quốc thu lợi nhuận
rất nhiều qua việc đầu độc người tiêu dùng trong những thực phẩm đóng hộp của họ?
Gia hộ cho tinh thần hiếu chiến của Trung Quốc ngày càng dâng tăng để gây hấn với các quốc gia lân bang, mở rộng
biên cương với ý đồ làm bá chủ thế giới?
Chúng ta nên ý thức nhìn vào thực trạng,
Trung Quốc cái gì cũng dám làm, dám bất chấp thủ đoạn gian dối hầu đánh bóng uy
danh cho đất nước, họ đã dùng Phật Giáo làm bàn đạp tiến lên. Một chuyện không
thể tưởng tượng được khi họ đã quá đáng ca tụng bà Võ Tắc Thiên, nữ hoàng đế
duy nhất của của Trung Quốc, họ đưa những lời của bà này vào đầu kinh, làm kệ
khai kinh:
"Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chơn thiệt
nghĩa"
dịch:
Phật pháp rõ sâu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng
Nguyện rõ Như Lai nghĩa nhiệm mầu
Chứng cứ lịch sử cho thấy bà có 1 đời sống
không đạo hạnh, 1 người được mệnh danh là "nữ hoàng dâm đãng". Bà vào
cung từ tuổi 13 (năm 637), lên làm vua năm 66 tuổi (năm 690) và qua đời ở tuổi
81 (năm 705).Không chỉ quyến rũ cả hai cha con Đường Thái Tông và Đường Cao
Tông, bà còn đường đường chính chính trở thành vợ của cả hai vị vua này.
Khi Võ Tắc Thiên vào cung thì Đường Thái
Tông tuổi đã cao, sống chẳng được là bao, bà biết số phận bà phải rời cung khi
vua mất nên bà tìm cách thân gần với Lý Trị, con trai Đường Thái Tông – người sẽ
kế vị ngai vàng. Võ Tắc Thiên đã cố ý làm dáng, ve vãn Lý Trị, thậm chí lén lút
ân ái tư thông, khiến vị thái tử này đắm say men tình với vợ của vua cha. Sau
khi Đường Thái Tông băng hà, Đường Cao Tông Lý Trị lên ngôi, bà chính thức lấy
con của ông này, trở thành Hoàng hậu và về sau nắm hết quyền hành như một vị
Hoàng Đế. Cũng chính bà đã khuynh đảo triều chính, một tay nắm trọn thiên hạ và
lập ra triều đại của riêng mình, đó là nhà Võ Chu. Năm 654, Võ Tắc Thiên sinh một
con gái, khi đứa bé này được 1 tháng tuổi
VTT đã cố tình tự tay giết chết con mình
và rắp tâm vu oan cho Vương hoàng hậu nên đã gài bẫy để đúng thời điểm
đó, hoàng hậu tới phòng của con gái bà. Ngay lập tức, hoàng hậu bị vu họa là giết
con gái của VTT, vì thực ra chẳng ai có thể cam tâm làm được điều đó, và cũng
chẳng ai dám nghĩ mẹ có thể tự tay giết
chết đứa con ruột của mình. Sự độc ác của VTT khiến nhiều người phải kinh khiếp.
Sau khi Đường Cao Tông băng hà thì cuộc
sống hoang dâm của bà này không có gì kềm chế, bà cho tuyển những "mỹ
nam" để thỏa mãn dâm tính, bà bắt đầu chọn một tình nhân nhỏ tuổi hơn bà
là Trương Xuân Tông một chàng trai từng ăn nằm với Thái Bình Công Chúa con bà.
Và chỉ qua một đêm Võ Tắc Thiên thấy thỏa mãn hài lòng ngay với họ Trương.
Nhưng vì Trương Xuân Tông đang là nhân tình với Thái Bình Công Chúa, sợ con gái
đem lòng ghen tuông nên liền tiến cử Trương Dịch, Trương Dịch cũng thuộc “cao
thủ võ lâm” trong đường ân ái, nhưng Võ Tắc Thiên vẫn không buông Trương Xuân
Tông. Cả hai anh em họ Trương phải thi nhau cung phụng dục tình cho Võ Tắc
Thiên. Còn rất nhiều nhân vật được Võ Tắc Thiên ăn nằm, vì với dâm tính của bà
nên lúc đã gần 80 tuổi, không đêm nào Võ Tắc Thiên ngủ mà thiếu vắng đàn
ông.Trên đây chỉ là tóm lược những chuyện có thật về cuộc sống dâm loạn của bà
Võ Tắc Thiên, chúng ta có thể vào Google gõ từ "Võ Tắc Thiên", có rất
nhiều link nói về người đàn bà này.
Thế nên, 1 người với bản chất hoang dâm
quá độ, tâm trí tính dục lúc nào cũng chất ngất thì còn tư tưởng nào để có được
1 bài "kệ khai kinh" như nói trên. Đại Thừa Phật Giáo Trung Quốc đã
đưa vào đầu kinh tụng để thấy sự "vĩ đại" của bà. Thật ra bài kệ này
chẳng phải vĩ đại như khuôn vàng thước ngọc để Phật tử nương theo đó cho hành
trình tiến tu. Nó chỉ đúng ở vế thứ nhất:
Phật pháp rõ sâu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Được làm thân người đã khó, được biết đến
Phật pháp lại càng khó hơn, không ai phủ nhận điều này nhưng vế thứ hai thì
hoàn toàn sai:
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng
Nguyện rõ Như Lai nghĩa nhiệm mầu
Học và hiểu Phật pháp là duyên phước, là
hành trình chuyển nghiệp gian nan có khi kéo dài cả ngàn kiếp, muốn chuyển nghiệp
cần phải tạo phước, không phải chỉ chuyên trì tụng mà cần phải vun bồi thiện hạnh
để phá vỡ rào chắn của ma chủng, đi vào Phật tâm mới thông hiểu Phật lý, mới thấy
được con đường của nhân quả để cố gắng:
"Không làm mọi điều ác
Thành tựu các hạnh lành
Tâm ý giữ trong sạch
Chính lời chư Phật dạy"
(KPC 183)
Nếu chỉ chuyên trì tụng mà không phát
tâm hành thiện thì không phải lời Phật dạy, đó là giáo lý của Đại Thừa Trung Quốc,
gần 2000 năm qua chúng ta được tưới tẩm những hạt giống tàn độc, loại ma chủng
này khiến sử chúng ta đi theo lộ trình của chúng, chúng ta sẽ mãi mãi trầm luân
thống khổ trong dòng sinh diệt.
Hãy đọc lại lời của bà Võ Tắc Thiên:
"Nay con nghe thấy chuyên trì tụng
Nguyện rõ Như Lai nghĩa nhiệm mầu"
Có trì tụng từ kiếp này qua kiếp khác
cũng chẳng thấy được nghĩa nhiệm mầu của Như Lai. Chỉ có phước mới giúp chúng
ta trở về Phật tâm, tìm lại những hạt giống trí tuệ đã bị chôn vùi dưới đáy
tàng thức. Chúng ta phải tự đào bới qua hạnh lành vun trồng để dẹp tan hàng rào
ma quân đang ngăn chận chúng ta, nếu chỉ
chuyên lo trì tụng mà không làm phước thì chỉ là kẻ đứng ngoài và sẽ mãi mãi
trì tụng theo nghiệp dẫn dắt. Chúng ta được dạy "Từ bi phải có trí tuệ",
nhưng nghiệp tội sâu dầy chúng ta chỉ toàn gặp MA tuệ, còn lâu và rất lâu chúng
ta mới tìm thấy PHẬT tuệ.
Trong Lục Độ Ba La Mật bắt đầu bằng hạnh
bố thí, nó là cái móng của ngôi nhà 6 tầng. Trí huệ là tầng thứ sáu, tầng bậc
cao nhất mà chúng ta cần phải đạt tới để cứu cánh giải thoát. Bố thí-Trì giới-Nhẫn
nhục-Tinh tấn-Thiền định mới đến được Trí tuệ. Nếu bám chặt không buông lơi “Lục
Độ Ba La Mật” thì chúng ta sẽ không đi lạc ra ngoaì dòng pháp của Phật. Tiến
trình học Phật đi theo giáo lý nhân quả, ai cũng phải trải qua nghiệp của mình,
không ai thay thế cho ai được, Đức Phật cũng có cái nghiệp của nhục thân phải
trả trước khi đắc quả, nên chúng ta không thể đi ra ngoài qui luật này, vì vậy
chúng ta không thể đạt sự giải thoát qua pháp tu trì tụng như bài kệ của bà
VTT.
Đi buôn cần vốn, đi tu cần phước, đó là
chân lý, vì thiếu phước nên chúng ta mới bị Trung Quốc đánh lừa, chúng ta đang
đi trên lộ trình của ma, nghe theo ma có nghĩa chúng ta đang bồi đắp cho ma chủng
ngày càng lớn mạnh trong tâm, chúng ta không đủ sức cưởng chống lại mệnh lệnh
ban ra và trở nên quyến thuộc của chúng. Chúng ta đã bị trở thành 1 thứ robot,
không còn khả năng nhận biết đúng sai và trở nên cuồng tín khi phản biện những
thông tin trên mạng, "Đại Thừa là ngụy kinh không do Phật thuyết". Họ
đã không chứng minh được, nếu Đại Thừa là kinh do Phật thuyết thì tại sao qua 3
lần kết tập kinh điển đầu tiên đã không
nêu tên những bộ kinh của Đại Thừa? Ngay lần kết tập đầu tiên, "A Di
Đà" đã không được nhắc đến, nếu thực sự là nhân vật quan trọng của 1 tông
phái thì tại sao các Tổ lại vô tình đến thế!
Không nhắc là phải, vì 500 năm sau khi
Phật nhập niết bàn, Tịnh Độ tông mới ra đời, mới có hình tượng A Di Đà và những
hứa hẹn không tìm thấy trong kinh như
“Niệm Phật một câu, phước sinh vô lượng. Lễ Phật một lễ, tội diệt hà sa”. Và
100 năm sau thì có kinh Pháp Hoa, trong kinh Nguyên Thủy cũng không nêu tên bộ
kinh này. Đây là kinh do các Tổ trước tác nhưng Đại Thừa Trung Quốc cũng đánh lừa
chúng ta khi ghi "Tôi nghe như vầy" trên mỗi đầu kinh, Đức Phật có giảng
đâu mà nghe, ngài A Nan cũng tịch mất rồi. Đó là xảo ngôn vọng ngữ, là hàng giả,
chúng ta nên ý thức điều này để không quá sốt sắng biện hộ cho việc ngụy kinh của
Trung Quốc.
Trải qua thời gian dài bị công kích, họ
thấy không thể che dấu việc ngụy kinh được nữa nên họ bắt đầu gọi "Phật giáo phát triển" thay vì gọi "Đại
Thừa" Danh xưng này nói lên sự thay
đổi lời Phật dạy và thêm những lời không phải của Phật vào kinh, sự thay đổi
này chẳng qua một sự kết tập nào, đây là lối cai trị của thời phong kiến Trung
Quốc ngày xưa. Người dân chỉ biết tin nghe mà không dám phản đối dù biết việc
làm đó vô lý, dùng lời Phật phát triển cho 1 Phật giáo mới. Ai là người có thẩm
quyền làm công việc động trời này? Việc làm đó có đúng tâm ý Phật chăng?
Lời Phật là chân lý, đã là chân lý thì
không cần phải phát triển . Chân lý tự nó là thường không phải vô thường nên
các Tổ sư Trung Quốc đừng bóp méo lời Phật, đừng phát triển cái thường này. Chẳng
lẽ Tổ cao hơn Phật, thấy được những điều mà Phật chưa thấy?
Trung Quốc nhờ có Phật Giáo phát triển
nên có cơ hội đề cao bà Võ Tắc Thiên khi để bài kệ khai kinh của bà trên đầu
kinh Đại Thừa. Có những người bênh vực bà Võ Tắc Thiên cho rằng bà đã có nhiều
đóng góp cho sự phát triển Đạo Phật nhưng sự đóng góp nếu có, thì cũng không đáng kể vì bà đang là
vua có thừa quyền lực và tiền bạc nên chuyện gì bà cũng có thể làm được. Làm để
đánh bóng cho những việc nhơ nhớp bà từng làm, tội lỗi bà không bút mực nào kể
xiết.
Gieo nhân ác thì phải đền trả, không ai
thoát được nghiệp báo dù kẻ đó là vua chúa. Biết bao nhiêu người đã chết dưới
tay bà, những người ca ngợi bà là đã tùy hỷ việc ác của bà và sẽ đi cùng thuyền với bà. Xét cho cùng, bà
VTT đã giúp được gì cho Phật Giáo? Bài kệ khai kinh của bà đã đặt trên đầu kinh
đã nói lên sự ngạo mạn của Bà, hơn nữa pháp tu "chuyên trì tụng" là của
Đại Thừa Trung Quốc chứ nào phải của Phật. Tụng kinh, trì chú, niệm Phật không
mang đến phước báu nào, đó chỉ là phương tiện giúp chúng ta cột tâm không cho
niệm ác khởi lên để gieo hạt giống thiện lành. Giáo lý nhân quả là nền tảng của
Đạo Phật và PHƯỚC là nhân tố chính cho hành trình chuyển nghiệp.
Trong kinh Kim Cang dạy: "Muốn đạt
được trí huệ phải kinh qua quá trình bố thí". Đó là lời Phật dạy, Ngài không dạy chúng ta
"chuyên trì tụng" như bài kệ khai kinh của bà VTT, bài kệ này nói lên
sự tàn ác của bà VTT khi hướng dẫn chúng ta đi ra ngoài dòng pháp của Phật. Bà
chết đi nhưng bà để lại hạt giống tàn độc trên thế gian này, để trên đầu mỗi
quyển kinh như để nhắc nhở chúng ta và người người tin theo tín ngưỡng này. Tóm
lại, bà VTT chẳng có công đức gì cho Đạo
Phật mà là nghiệp tội cho việc gieo nhân mê tín cho người tin sai. Chúng ta nên
thức tỉnh, nên chấm dứt pháp tu hoang tưởng của Đại Thừa Trung Quốc để quay về
CHÁNH PHÁP của Phật nếu muốn tìm thấy con đường giải thoát ra khỏi biển khổ trầm
luân.
HT Từ Thông rất bức xúc trước hiện tượng
gieo rắc hạt giống mê tín của Đại Thừa Trung Quốc, ngài đã nhiều lần báo động về
chuyện kinh giả, Ngài cho rằng kinh điển ngày nay ngụy tạo quá nhiều, trong 1
thời pháp, ngài nói: "Trong đây nhiều lắm là 20% lời của Phật còn 80% chỉ
toàn là rác rưởi". Ngài cũng không tin về những "bồ tát" giả mạo
của Trung Quốc, ngài thẳng thừng nói: "không có ông nào, bà nào, thằng
nào, con nào độ cho qúy vị hết".
HT Thông Lạc cũng nhiều lần nhắc nhở
chúng ta: "Ðúng vậy, khi đem ra so sánh chúng ta thấy rằng kinh sách Ðại
Thừa không phải Phật thuyết 100%. Cho nên, những lời di chúc cuối cùng của đức
Phật đã dạy chúng ta phải cân nhắc kỹ lưỡng để không bị những kiến giải, tưởng
giải của các Tổ lường gạt. Như vậy, rõ ràng đức Phật đã biết trước, sau này các
Tổ sẽ làm sai lệch kinh sách Phật, cho nên Ngài đã chuẩn bị cho người đời sau
còn có chỗ dựa vững chắc để loại trừ những tà pháp của ngoại đạo đang pha trộn
trong giáo pháp Nguyên Thủy của Phật".
Khi đưa ra công trình này chúng tôi hy vọng
sẽ giúp chúng ta nhìn lại chặng đường tu học của mình. Chúng ta đã bị Đại Thừa
Trung Quốc đầu độc gần 2000 năm qua, những lời hứa hẹn của họ chúng ta không
tìm thấy trong kinh pháp, không chứng cứ lịch sử. Chúng ta cũng không nên cho rằng,
Tịnh Độ tông có rất nhiều người tin, phải có gì thù thắng lắm mới có số lượng lớn
như vậy. Nhiều người tin không hẳn là đúng và có giá trị, chân lý muôn đời vẫn
là chân lý, đá xanh dù có đánh bóng cở nào cũng không trở thành kim cương được.
Chánh pháp Phật là kim cương, là Đạo Phật Nguyên Chất, chúng ta phải lội ngược
dòng trở về Phật tâm, chính phước hạnh vun bồi của mỗi tự thân sẽ giúp chúng ta
tận diệt những ma chủng đang bám sát chúng ta. Khi loại được loài ma này chúng
ta sẽ thấy được hạt giống trí tuệ mà chúng ta đã có từ vô lượng kiếp, khi có được
báu vật trong tay, chúng ta sẽ nhận diện ra đâu là Phật pháp và đâu là MA pháp.
Lộ trình giải thoát đang ở trước mặt chúng ta.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
LOTUS
PRODUCTIONS