BA QUE XỎ LÁ

Thành ngữ người Việt “Ba que xỏ lá” có liên quan gì tới que và lá thật không?
Dân gian thường hay dùng “Ba que xỏ lá” hoặc “bọn ba que” để chỉ những người lừa lọc, bịp bợp, đểu cáng. Tại sao lại có câu thành ngữ này?

Quay trở lại thời Pháp thuộc, có một số người chuyên tổ chức các trò đỏ đen mà bây giờ nhân dân hay gọi là “trò chơi có thưởng”. Nếu bây giờ, họ sử dụng các thiết bị hiện đại để lừa bịp người khác thì trước kia chỉ có mỗi hai dụng cụ đơn giản là một chiếc que và ba chiếc lá, mỗi chiếc lá có đính một vòng nhỏ ở cuống.
Người chơi cầm que nhỏ xỏ vào ba cái vòng này và mỗi người chỉ được xỏ một lần. Người nào có thể xuyên chiếc que qua cả ba vòng tròn nhỏ đó sẽ lĩnh thưởng. Nếu chỉ chạm vào bất kỳ một trong ba chiếc vòng sẽ bị mất tiền đặt cược. Nghe có vẻ đơn giản và không quá khó phải không bạn? Cách thứ hai, chúng cho người chơi nhìn ba chiếc que rồi giấu đi, trong đó chỉ có một chiếc xỏ một cái lá và người chơi đặt cược để đoán xem chiếc que nào là có lá.
Cả hai cách này đa phần chủ trò đều có thể dùng các thủ đoạn gian lận để khiến người chơi chẳng bao giờ thắng được tiền. Do vậy, câu thành ngữ “ba que xỏ lá” mới ra đời. Cũng theo các nhà nghiên cứu thì từ cách chơi thứ nhất, nhiều người cho rằng phiên bản đầu tiên của câu này phải là “xỏ lá ba que” nhưng về sau đã đổi ngược lại cho dễ đọc hơn.
Ý thức luân lý của người Việt Nam đã thành một phản ứng hết sức sâu xa, khiến nó tỏa ra ở khắp mọi nơi, mọi mặt sinh hoạt vật chất cũng như tinh thần.
Trong văn chương bình dân của người Việt Nam, thành ngữ, tục ngữ, cổ tích chiếm một địa vị đáng kể, và hầu hết nó là luân lý sống động, cụ thể và rất thực tiễn, được viết thành vần thành điệu rõ ràng.
Người dân Việt sống giữa thành ngữ, tục ngữ, cổ tích như con cá sống giữa biển, và tinh thần của họ qua các lời nói hàng ngày thật là phong phú, ý tình xây dựng rút từ tục ngữ, cổ tích, ca dao.
Cả những người dân quê thất học, tâm não cũng thấm nhuần được khá nhiều những câu răn dậy truyền khẩu có điệu có vần để họ sử dụng trong cuộc đối thoại như những nguyên tắc vàng ngọc, và cả trong khi chửi rủa như những luận chứng bất khả di dịch.
Một điều rất đáng chú ý là có những câu thành ngữ, tục ngữ hết sức bóng bẩy, rất đỗi khó hiểu, nhiều người trí thức có văn bằng cao cũng không thể nào giải nghĩa cho gọn gàng, thế mà những người bình dân Việt Nam vẫn sử dụng được một cách chính xác đặc biệt trong lúc nói năng. Dĩ nhiên người nói không sao giải nghĩa các câu phát biểu một cách phân minh, vì họ chỉ hiểu nó bằng trực giác. Căn bản tâm hồn họ như làm bằng chất luân lý và thông cảm với luân lý một cách tự nhiên dễ dàng.
Cả đến những thần thoại của họ cũng có một tinh thần luân lý đặc biệt, hướng về những giá trị rất cao đẹp, hoặc là đề cao giống nòi như chuyện Con Rồng Cháu Tiên, ca ngợi anh hùng cứu quốc như chuyện Phù đổng Thiên vương, cổ võ hôn nhân bình đẳng tự do như chuyện Tiên Dung và Chử Đồng tử, phát huy đức tính siêng năng như Sơn tinh Thủy tinh.
Tóm lại, những điều nhân nghĩa thủy chung bao giờ cũng là xương tủy trong thần thoại của họ.
Không chỉ ở trong văn chương bình dân, ý niệm luân lý mới thành chất sống, thành xương tủy, mà cả đến văn chương bác học của lớp sĩ phu ngày xưa vốn là tầng lớp hưởng thụ trong xã hội, ý thức luân lý cũng hết sức đậm đà.
(Nguồn góp nhặt)