Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ra đời tháng 5 năm
1867 tại Cù lao Ba (huyện An Phú, tỉnh An Giang ngày nay), do ông Ngô Lợi (ông
còn có tên gọi khác là Ngô Viện, Cao Văn Do, Bảy Do, Năm Thiếp) sáng lập. Ông
sinh tại Mỏ Cày - Bến Tre, là sỹ phu Cần Vương, tham gia khởi nghĩa ở vùng Mỹ
Tho - Tiền Giang, bị giặc truy nã, ông chạy vào vùng Thất Sơn - An Giang ẩn
thân.
I. Khái quát lịch
sử ra đời và quá trình phát triển của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa
Thế kỷ XIX là thời kỳ chế độ phong kiến ở
nước ta suy tàn, nhân dân phải chịu cảnh lầm than khổ cực. Khi đó, thực dân
Pháp tiến hành xâm lược nước ta (1858). Trong cảnh nước mất, nhà tan, người
nông dân mất nhà cửa, ruộng đất, gia đình ly tán, cuộc sống của nhiều người tưởng
chừng vô vọng. Trước bối cảnh đó, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đã ra đời như một
“phương thuốc” cứu thế cho một bộ phận nông dân Nam bộ.
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ra đời tháng 5 năm
1867 tại Cù lao Ba (huyện An Phú, tỉnh An Giang ngày nay), do ông Ngô Lợi sáng
lập. Ông sinh tại Mỏ Cày - Bến Tre, là sỹ phu Cần Vương, tham gia khởi nghĩa ở
vùng Mỹ Tho - Tiền Giang, bị giặc truy nã, ông chạy vào vùng Thất Sơn - An
Giang ẩn thân.
Khi mới ra đời, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa được
ông Ngô Lợi gọi là đạo Thờ ông bà, sau này tín đồ gọi đạo của mình
là đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Việc truyền đạo được ông Ngô Lợi thực hiện qua việc chữa
bệnh, khi bệnh dịch đang hoành hành. Sau này, ông gắn việc truyền đạo với quá
trình tập hợp nông dân khai hoang lập ấp, xây dựng căn cứ cách mạng. Trong quá
trình ổn định cuộc sống của tín đồ ở núi Tượng, ông Ngô Lợi đã cho xây dựng
chùa miếu để thực hành nghi lễ, đẩy mạnh việc truyền đạo rộng rãi ở vùng Thất
Sơn và các vùng xung quanh để thu nạp tín đồ. Trong thời gian không lâu, đã có
rất nhiều người đi theo ông để học đạo. Năm 1870, Ngô Lợi chính thức nhận danh
hiệu Đức Bổn sư.
Hình thức và cách thức tuyên truyền,
phát triển đạo của Đức Bổn sư Ngô Lợi là thể hiện nội dung “Tu nhân - học Phật” qua
các bộ kinh hoặc chuyển thành các thể thơ dưới dạng Sấm vãn với lời lẽ bình dị,
mộc mạc dễ nhớ và dễ đi vào lòng người, rất phù hợp với trình độ và điều kiện
hoàn cảnh của nông dân lúc bấy giờ. Do đó, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa nhanh chóng được
người nông dân tiếp nhận.
Sau khi ông Ngô Lợi viên tịch tại núi Tượng
(1890), đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa không có người kế vị, các mối đạo đều giao cho ông
Trò, ông Gánh phụ trách. Không lâu sau, một số ông Gánh rời vùng Thất Sơn đi
các nơi khác truyền đạo. Vì vậy, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa hình thành hai hệ thống:
Một hệ thống được duy trì ở các làng được coi là thánh địa của đạo Tứ Ân Hiếu
Nghĩa như: An Định, An Hoà, An Thành, An Lập thuộc vùng Thất Sơn - An Giang.
Tín đồ ở các làng này được gọi là tín đồ nội thôn. Hệ thống thứ hai là tín đồ ở
những nơi mà các ông Gánh đi truyền đạo như Kiên Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Tiền
Giang, Cần Thơ, Bà Rịa - Vũng Tàu... hệ thống này được gọi là ngoại thôn.
Tín đồ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có chung niềm
tin tôn giáo sâu sắc, đó là thực hiện "Tứ đại trọng ân". Họ
gọi nhau là thân bằng và có tính cộng đồng, bởi quan điểm yêu thương đồng bào
đã thấm nhuần trong tư tưởng của họ. Từ khi Đức Bổn sư Ngô Lợi truyền bá đạo Tứ
Ân Hiếu Nghĩa đến trước năm 1975, số lượng tín đồ phát triển rất đông, khoảng
hơn 10 vạn người. Sau giải phóng miền Nam, đời sống kinh tế, văn hoá-xã hội của
tín đồ được nâng lên, nhưng nhu cầu dựa vào yếu tố tôn giáo của một bộ phận tín
đồ nhạt dần, làm cho tôn giáo nội sinh này khó có thể phát triển và mở rộng phạm
vi hoạt động.
II. Giáo lý, giáo luật và lễ nghi của
đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa
1. Giáo lý, giáo luật, kinh sách
Tôn chỉ hành đạo của đạo Tứ Ân Hiếu
Nghĩa là "Hành Tứ ân - Sống hiếu nghĩa - Vì đại đoàn kết dân tộc". Đạo
Tứ Ân Hiếu Nghĩa lấy đạo hiếu làm đầu, không thừa nhận ly gia cắt ái, không đặt
ra giới luật khắt khe và không có sự phân biệt, kiêng kị khác nhau giữa chức sắc
và tín đồ. Cũng giống như giáo lý của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương là Tu nhân
- học Phật, nhưng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đã phát triển ở nhiều khía cạnh và cụ
thể hoá hơn.
Về tu nhân: Đức Bổn sư Ngô
Lợi dạy tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa phải tu nhân vì phải trau dồi đạo đức thì mới
hoàn thành tốt công việc và sống tốt với mọi người trở thành người có ích cho
xã hội. Tu nhân có nghĩa là phải thực hiện tứ đại trọng ân: ân cha mẹ, ân đất
nước, ân tam bảo và ân đồng bào.
Ân tổ tiên, cha mẹ: cha mẹ là người có
công sinh thành dưỡng dục ta, vì vậy đền đáp công lao trời biển ấy mới xứng
đáng là đạo làm người. Đồng thời phải biết ơn ông bà, tổ tiên là thế hệ đã
sinh thành ra cha mẹ. Để đền đáp công ơn tổ tiên, cha mẹ ta phải làm những điều
tốt đẹp, làm vui lòng cha mẹ, tránh những điều xấu ảnh hưởng đến tổ tiên, ông
bà. Bên cạnh đó, ta phải biết chăm lo cúng giỗ tổ đường. Chính xuất phát từ việc
phải báo hiếu cha mẹ, ông bà nên đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa không chủ trương ly gia
cắt ái để đi tu.
Ân đất nước: đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa cho rằng
tổ tiên, cha mẹ và chúng ta, ai cũng có quê hương đất nước - nơi chôn nhau cắt
rốn và nuôi dưỡng mỗi chúng ta. Vì vậy, phải có bổn phận bảo vệ quê hương, đất
nước mỗi khi có giặc ngoại xâm, xây dựng quê hương giàu mạnh.
Ân tam bảo: phải đền ơn tam bảo gồm Phật,
Pháp, Tăng bằng cách noi theo những lời Phật dạy, truyền bá đến mọi người để
loại trừ lòng ham muốn hẹp hòi, cùng hướng tới chân, thiện, mỹ.
Ân đồng bào, nhân loại: phải biết sống với
đồng bào bằng tình huynh đệ vì đó là những người cùng màu da, cùng chung cảnh
ngộ, cùng chia sẻ buồn, vui. Ngoài ra, mỗi chúng ta còn chung sống với nhân loại
trên trái đất, vì vậy không được phân biệt màu da, chủng tộc, phải sống trong
hoà bình.
Như vậy, tu nhân trong đạo Tứ Ân Hiếu
Nghĩa rất gần gũi với quan niệm “tu nhân tích đức” của ngời Việt Nam. Tu nhân,
với nội dung chủ yếu là thực hiện tứ đại trọng ân của tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa
là hoà nhập vào cuộc sống thực tại để đáp ứng những yêu cầu của cuộc sống chứ
không phải vì kiếp sau.
Kinh sách của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là những
lời giáo huấn được viết bằng chữ Hán của Đức Bổn sư Ngô Lợi, trong đó có ba bộ
kinh chủ yếu là: Bà-la-ni Kinh, Kinh pháp bửu trường sanh và Kinh siêu độ. Mỗi
cuốn kinh có nội dung riêng cho từng vấn đề, có thể nêu một số cuốn kinh phổ biến
sau:
- Cuốn kinh đầu tiên là Bà-la-ni Kinh được
dùng tụng niệm nhiều trong các dịp cúng lễ.
- Cuốn thứ hai là Linh Sơn Hội Thượng
Kinh, là cuốn kinh mà tín đồ phải thuộc vì nó hướng dẫn rõ nội dung, nghi thức
các bước cúng dường và một số bài kinh tụng hàng ngày.
- Hiếu nghĩa kinh là cuốn nói về hiếu
nghĩa ở đời.
- Siêu thăng kinh là cuốn kinh mang nội
dung cầu siêu cứu độ vong kinh các vị tiền nhân có công với đạo, với làng.
Bên cạnh hệ thống kinh sách truyền giảng
đạo lý, nghi thức thờ cúng, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa còn có hệ thống Sấm vãn (còn gọi
Sấm giảng) được các cao đồ (ông Trò, ông Gánh) sáng tác để cụ thể hoá những lời
dạy của Đức Bổn sư Ngô Lợi. Được viết bằng thể thơ lục bát, ngũ ngôn, thất
ngôn nhằm phục vụ những bài cúng dường và khuyên răn người đời tu nhân, tích đức
nên Sấm vãn được truyền miệng rộng rãi và dễ dàng bám sâu vào tiềm thức của tín
đồ.
2. Về thủ tục nhập đạo
Nghi thức nhập đạo của đạo Tứ Ân Hiếu
Nghĩa là thể lệ mang tính long trọng của việc đón nhận thành viên gia nhập đạo
Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Việc gia nhập đạo là hoàn toàn tự nguyện, không phân biệt, lựa
chọn hay hạn chế các đối tượng gia nhập, miễn là người đó thực hiện được những
quy định của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Người muốn vào đạo trước hết phải tìm đến Đức
Bổn sư, các đệ tử của ông hoặc sau này là ông Trò hay ông Gánh để tìm hiểu và
biết cụ thể hơn về đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Khi đã chấp nhận thọ giáo thì
người đó đến gặp một trong những vị nói trên để được tiến hành các thủ tục nhập
đạo. Tín đồ nào thọ giáo với vị Trưởng Gánh nào thì trở thành thân bằng của
Gánh đó. Thông thường đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tổ chức thọ giáo cho tín đồ vào ba dịp
trong năm là Lễ Thượng nguyên (rằm tháng Giêng), Lễ Trung nguyên (rằm tháng Bảy)
và Lễ Hạ nguyên (rằm tháng Mười). Người được thọ giáo phải đến chùa Tứ Ân Hiếu
Nghĩa cúng lạy, sau đó vái ở bàn thờ Tam Bửu gia để khẳng định mình đã thuộc về
Gánh đó. Vị Trưởng gánh phát cho tín đồ mới bộ Lòng phái gồm
có: Lòng phái, Thế độ, Thái kiệt, Tiên sinh và Trần Điều. Sau 3 năm kể từ ngày
thọ giáo, tín đồ được Trưởng gánh cho nhận thêm Bùa đời. Bộ Lòng
phái là báu vật của tín đồ, đối với họ, nó không những có ý nghĩa xác nhận tín
đồ là thành viên của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa mà còn là bảo linh được mang trước ngực
lúc sống và mang theo người lúc chết để phù hộ cho người đó.
III. Chức sắc, chức việc và hệ thống tổ
chức đạo
1. Chức sắc, chức việc đạo Tứ Ân
Hiếu Nghĩa
Người sáng lập ra đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa
được gọi là Đức Bổn sư. Đức Bổn sư gọi tín đồ là Bá gia.
Dưới Đức Bổn sư là các đại đệ tử, còn gọi là các cao đồ. Trong số các cao đồ được
phân ra những chức năng cụ thể khác nhau: những người phát huy ý tưởng của Đức
Bổn sư được gọi là ông Trò; những người thay mặt Đức Bổn sư chăm lo việc đạo của
một nhóm tín đồ được gọi là ông Gánh.
Giúp việc cho Trưởng gánh có Thông tín,
Cư sỹ và Thủ lễ. Thông tín là người thông báo các ngày lễ, các sự việc như tang
ma, cưới hỏi, ốm đau cho mọi người trong Gánh biết và đứng ra quyên góp tiền bạc,
phẩm vật khi cần thiết. Mỗi Gánh có 1 đến 2 Thông tín.
Cư sỹ là người có nhiệm vụ soạn sớ, điệp,
tụng kinh, thỉnh chuông, mõ trong các buổi cúng lễ. Tuỳ theo số lượng tín đồ, mỗi
Gánh có từ 2 đến vài chục Cư sỹ.
Thủ lễ có nhiệm vụ chuẩn bị bàn ghế, bố
trí công việc, thắp hương và dâng cho các Trưởng gánh nguyện hương trong các buổi
cúng lễ.
Thực tế cho thấy, trình độ học vấn của
các chức sắc, chức việc thấp. Do vậy, có nhiều hạn chế trong việc hướng dẫn tín
đồ thực hiện các lễ nghi tôn giáo, việc truyền giảng giáo lý... làm cho tôn
giáo này khó phát triển rộng.
2. Hệ thống tổ chức đạo
Trong quá trình tồn tại và phát triển, đạo
Tứ Ân Hiếu Nghĩa không chủ trương lập các tổ chức hành chính của đạo từ Trung
ương đến cơ sở như một số tôn giáo khác. Người đứng đầu là Đức Bổn sư, dưới Đức
Bổn sư là các đại đệ tử, hay còn gọi là các cao đồ. Trong số các cao đồ được
phân ra những chức năng cụ thể khác nhau: những người phát huy ý tưởng của Đức
Bổn sư được gọi là ông Trò; những người thay mặt Đức Bổn sư chăm lo việc đạo của
một nhóm tín đồ được gọi là ông Gánh.
Gánh của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là nơi tập
hợp tín đồ cùng thọ giáo với một ông Gánh. Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 24 Gánh, đứng
đầu Gánh là Trưởng Gánh, Trưởng Gánh không phải do bầu cử mà suy cử, thông thường
do cha truyền con nối hoặc truyền hiền, họ là người có nhiều hiểu biết về đạo
pháp và uy tín trong tín đồ. Trưởng Gánh có nhiệm vụ trông coi việc đạo, tổ chức
cúng lễ trong Gánh. Trường hợp chưa suy cử được Trưởng Gánh thì Gánh đó cử vị đại
diện Gánh.
Trước đây, các Trưởng Gánh và đại diện
Gánh đã thống nhất hình thành một tổ chức gọi là “Đạo hội” nhằm phối hợp chăm
lo, điều hành mọi công việc của toàn đạo. “Đạo hội” là tổ chức cao nhất trong đạo
Tứ Ân Hiếu Nghĩa có trụ sở đặt tại chùa Tam Bửu - Phi Lai, thị trấn Ba Chúc,
huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang bao gồm các vị Trưởng Gánh và Đại diện Gánh.
Ngoài ra, còn có Ban Quản tự chùa Tứ Ân
Hiếu Nghĩa do Trưởng Gánh bầu lên. Ban Quản tự có nhiệm vụ giúp Trưởng Gánh
trong việc tổ chức nghi lễ thờ cúng, trùng tu, sửa chữa chùa, miếu, quản lý tài
chính và làm từ thiện xã hội. Ban Quản tự chùa thường có từ 7 đến 11 thành viên
với nhiệm kỳ là 03 năm.
IV. Cơ sở vật chất đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa
Cơ sở thờ tự của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là
hệ thống các chùa, đình, miếu, Tam Bửu gia và bàn thờ tại gia đình. Chùa Tứ Ân
Hiếu Nghĩa khác với chùa Phật giáo, vì đây không phải là nơi tu hành của những
người cắt ái ly gia mà là nơi thờ cúng các đối tượng tôn giáo và thực hiện các
lễ nghi của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Chùa Tứ Ân Hiếu Nghĩa còn là nơi để chữa bệnh
cho tín đồ và để tín đồ thể hiện mối quan hệ với thân bằng của mình. Hiện nay,
chùa Tứ Ân Hiếu Nghĩa tập trung nhiều nhất ở vùng Thất Sơn, tại các làng: An Định,
An Hoà, An Lập và An Thành.
Bên cạnh hệ thống chùa, tại các làng đạo
Tứ Ân Hiếu Nghĩa còn có các đình, miếu là nơi diễn ra các sinh hoạt tôn giáo của
tín đồ và là một bộ phận trong hoạt động tôn giáo do các Trưởng Gánh trực tiếp
phụ trách.
Tam Bửu gia là Phủ thờ của Gánh đạo Tứ
Ân Hiếu Nghĩa. Toàn đạo có 24 Gánh thì có 24 Tam Bửu gia. Tam Bửu gia được xây
gần nhà Trưởng Gánh, là một hình thức nhà thờ dòng họ của tín đồ, trong đó dòng
họ Trưởng Gánh trở thành tộc trưởng của một dòng họ. Tam Bửu gia do gia đình
Trưởng Gánh trông coi, cúng lễ. Ngoài ra, mỗi gia đình tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa
đều có nhiều bàn thờ tại nhà để thể hiện trọn vẹn tinh thần Tứ Ân Hiếu Nghĩa.
Một thực tế đặt ra hiện nay là sự khó
khăn trong việc thống kê các cơ sở thờ tự của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Tam Bửu gia
thuộc hệ thống cơ sở thờ tự của đạo, tuy nhiên nó lại là nơi thờ riêng của dòng
họ Trưởng gánh và thường được xây trên mảnh đất của dòng họ.
V. Tình hình đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa hiện
nay
Theo số liệu thống kê của Ban Tôn giáo-Sở
Nội vụ các tỉnh, thành phố hiện nay có khoảng 78.000 tín đồ đạo Tứ Ân Hiếu
Nghĩa, phân bố tập trung ở các tỉnh Tây Nam bộ như: An Giang, Đồng Tháp, Cần
Thơ, Vĩnh Long, Trà Vinh, Tiền Giang, Kiên Giang, Bà Rịa - Vũng Tàu. Trong đó,
An Giang là trung tâm của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Sự phân bố tín đồ này cho thấy
đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là một tôn giáo bản địa, cơ bản giới hạn trong vùng đồng bằng
sông Cửu Long.
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ra đời trong bối cảnh
đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, nguyên lý của đạo được nhấn mạnh nhằm khơi
dậy lòng yêu nước, tự hào về nòi giống, kêu gọi mọi người đứng lên chống giặc
ngoại xâm để đền ơn đất nước, bảo vệ những thành quả mà cha ông đã gây dựng. Do
vậy, phong trào chống Pháp của những người theo đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa nổi lên mạnh
mẽ.
Trong kháng chiến chống Mỹ, nhiều tín đồ
đã tích cực tham gia với tư tưởng "Ân tổ tiên, ông bà và đất nước”.
Các làng đạo ở vùng Thất Sơn đã có nhiều chiến công góp phần vào sự nghiệp giải
phóng đất nước. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc của các xã có đông tín đồ
Tứ Ân Hiếu Nghĩa ở An Giang như: Ba Chúc, Lương Phi đã được Nhà nước phong tặng
danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và nhiều Huân, Huy chương cao
quý khác. Theo thống kê chưa đầy đủ, toàn đạo có 05 Mẹ Việt Nam anh hùng, 03
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 380 gia đình liệt sĩ; 250 gia đình thương
binh, 430 gia đình có công với cách mạng.
Từ sau ngày giải phóng đến nay, bà con
tín đồ luôn chấp hành tốt chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước,
tích cực tham gia các phong trào do chính quyền địa phương tổ chức.
Đời sống kinh tế: đồng bào đạo
Tứ Ân Hiếu Nghĩa có mức sống đạt trung bình so với mặt bằng chung của xã hội.
So với các khu vực khác thì đời sống kinh tế của tín đồ còn thấp. Nguyên nhân của
thực trạng này là do địa bàn cư trú của tín đồ thuộc những vùng sâu, vùng xa.
Về văn hoá-xã hội: bà con tín đồ
tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội như làm từ thiện, chữa bệnh miễn phí
cho người nghèo... Qua kết quả khảo sát năm 2004, tại các tỉnh có đông tín đồ đạo
Tứ Ân Hiếu Nghĩa đã công nhận 85% gia đình tín đồ đạt chuẩn gia đình văn hoá,
nhiều gương người tốt, việc tốt, gia đình hiếu học... hàng năm được Nhà nước
khen thưởng.
Đời sống văn hoá ngày càng phát triển với
việc thành lập đội nhạc lễ, đàn ca tài tử, đội bóng đá, bóng chuyền phục vụ
sinh hoạt của tín đồ. Bên cạnh đó, các Trưởng Gánh còn hướng dẫn giảng dạy chữ
Nôm cho các Thông tín, Cư sĩ, Thủ lễ, tín đồ. Hàng năm việc tổ chức các ngày lễ
cúng, lễ hội từng bước được nâng cấp, thu hút hàng chục ngàn khách thập phương
về dự, góp phần làm phong phú thêm đời sống sinh hoạt tôn giáo. Bà con tín đồ
tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội như: làm từ thiện, chữa bệnh miễn
phí cho người nghèo…
Về giáo dục: Do đặc điểm
phân bố về địa lý từ khi Đức Bổn sư sáng lập đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, những vùng
có tín đồ đều là vùng sâu, vùng xa, rừng núi hiểm trở, tín đồ đều xuất phát là
những người nông dân, điều kiện học hành của bà con không được thuận tiện nên
trình độ dân trí của tín đồ còn thấp.
Về cơ cấu tổ chức: Tháng
8/2006, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang chấp thuận cho thành lập Ban vận
động đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa (Quyết định số 1480/QĐ-UBND, ngày 03/8/2006) để chuẩn
bị các thủ tục đề nghị công nhận tổ chức tôn giáo theo quy định của Pháp lệnh
tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định 22/2005/NĐ-CP. Tháng 5/2010, Ban vận động đạo
Tứ Ân Hiếu Nghĩa đã tổ chức thành công đại hội đại biểu cấp toàn đạo. Sau đó,
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang đã có Quyết định số 1114/QĐ-UBND, ngày
16/6/2010 về việc công nhận tổ chức tôn giáo đối với đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang cũng đã có quyết định chấp thuận Hiến chương
và nhân sự Đạo hội đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Theo đó, cơ cấu tổ chức của đạo Tứ Ân
Hiếu Nghĩa có hai cấp là Đạo hội (cấp toàn đạo) và Gánh (cấp cơ sở).
Có thể nói, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là một
đặc trưng văn hoá Nam bộ. Quá trình phát triển đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa gắn liền với
quá trình di dân, khai hoang lập làng ở vùng đồng bằng Nam bộ. Với đường hướng
hành đạo là tu nhân học Phật, lấy đạo hiếu làm đầu, không đặt ra giới luật khắt
khe và không có sự phân biệt, kiêng kị khác nhau giữa chức sắc và tín đồ cùng với
khả năng tổng hợp, hoà đồng các quan niệm cũng như các đối tượng thờ cúng của
3 tôn giáo: Phật, Lão, Nho và tín ngưỡng dân gian, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đã tạo
nên sự phong phú, thăng bằng trong đời sống tâm linh và là tôn giáo đặc trưng của
nông dân Nam bộ.
Trải qua 143 năm hình thành và phát triển,
đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đã có thời kỳ phát triển mạnh mẽ, đóng vai trò quan trọng
trong việc thoả mãn nhu cầu đời sống tinh thần và tâm linh cũng như trong đời sống
văn hoá-xã hội của một bộ phận nông dân Nam bộ./.
Trần Minh Thu