Thích Trí Siêu
(Pháp quốc, 1996)
Mở đầu
Năm 23 tuổi vào chùa đi tu, tôi tự nhủ thầm phải làm sao giác ngộ giải
thoát ngay trong đời này, cố gắng noi theo gương của chư Tổ thuở xưa. Ôi, sơ
tâm vào Ðạo bao giờ cũng ngây thơ và dễ thương. Nhờ đó nên tôi đã hăng say phục
vụ chúng sinh (vì phục vụ chúng sinh là cúng dường mười phương chư Phật), hăng
say học Ðạo, tranh đua cùng với huynh đệ. Sau một thời gian học những nghi thức
cúng kiến, ứng phú căn bản của một Thầy tu cùng những giáo lý phổ thông để có
thể hướng dẫn cho Phật tử hàng tuần, tôi vẫn cảm thấy mình còn thiếu nhiều hiểu
biết, nên tôi đã lên đảnh lễ Thầy Tổ xin phép rời chùa, rời đại chúng ra đi tầm
Sư học Ðạo thêm.
Trong thời gian lang
thang tầm Ðạo sống đời du Tăng nay đây mai đó, tôi đã gặp nhiều điều mâu thuẫn
và vô lý trong cộng đồng tôn giáo. Từ đó tôi phân vân giữa hai phản ứng: hoặc mặc
kệ làm ngơ, mạnh ai nấy sống, khéo tu thì nổi vụng tu thì chìm; hoặc nói lên cảm
nghĩ của mình. Năm 1987 trong quyển Thiền Tứ Niệm Xứ tôi đã phát biểu cái nhìn
của mình và đã bị một số quý Thầy không ưa. Thấy sự phản ứng đó nên những quyển
sách sau tôi viết trong phạm vi dịch thuật hoặc khuyên răn Phật tử cách thức tu
hành.
Ở đời có hai hạng người:
hạng thứ nhất luôn luôn tìm hiểu và đặt câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời; hạng
thứ hai không muốn suy nghĩ gì cả, chỉ muốn sống như những đàn cừu, đi làm, ăn
no ngủ kỹ, vui chơi theo dòng đời. Người đời làm sao ta làm vậy.
Hạng thứ nhất rất ít,
đó là những nhà cách mạng, tiên tri, giáo chủ, bác học... Hạng thứ hai là đa số
quần chúng, từ giàu sang tỷ phú cho đến nghèo hèn ăn xin, từ chủ hãng giám đốc
cho tới nhân viên, cu li. Tất cả những người chạy theo tiền bạc, sắc đẹp, danh
vọng, tham lam ích kỷ. Không bao giờ tự hỏi tại sao ta sinh ra ở đời, để làm
gì, v.v...
Ðức Phật là một nhà
cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên
đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới. Ngài cũng cách mạng chống lại sự phân chia
giai cấp của xã hội Ấn thời bấy giờ.
Trong quá trình lịch
sử, nếu ta để ý, bao giờ cũng có những cuộc cách mạng sau một thời gian chìm đắm
của nhân loại trong cơn mê ngủ. Nhưng rồi những cuộc cách mạng kia cũng không
thoát khỏi luật vô thường, nó chỉ làm cho con người bừng tỉnh một thời gian,
thay đổi tư tưởng và lối sống, rồi từ từ chính nó cũng bị đưa vào một lề lối nề
nếp khiến cho các thế hệ sau lại tiếp tục chìm đắm trong những truyền thống cổ
hủ và bảo thủ.
Trở về cá nhân tôi,
từ lúc đến với Ðạo Phật, tôi đã nuôi một lý tưởng giải thoát như bao nhiêu người
khác. Ðịnh sau khi tu học một thời gian, sẽ xin phép Bổn Sư đi tìm một nơi
thanh vắng nhập thất tịnh tu. Ngày ngày hai thời công phu, trì tụng thêm các
kinh khác như Kim Cang, Pháp Hoa, Niết Bàn, v.v... Quyết xa lánh thế tục, tham
thiền nhập định để mau giác ngộ. Nhưng trời xui đất khiến làm sao, càng tu lại
thấy mình càng dốt, cần phải tham cầu học hỏi thêm, vì có nhiều điều khúc mắc
chưa thông làm sao an nhiên tham thiền nhập định hoặc tụng kinh trì chú suốt
ngày suốt đêm được. Do đó thay vì ở yên nơi am vắng tịnh tu, tôi lại xách gói
đi tầm Sư học Ðạo, khiến cho huynh đệ rủa thầm là tu hành gì mà cứ xách gói đi
ta bà, không chịu ở một chỗ tụng niệm như mọi người, không chịu hoằng pháp lợi
sinh, xây chùa lập hội, v.v...
Trong lúc làm du Tăng
tầm Sư học Ðạo, tôi đã viết vài ba quyển sách chia xẻ kiến thức với bạn đạo.
Riêng lần này, tôi không viết theo thứ lớp mạch lạc như những lần trước mà tôi
để mặc tư tưởng mình, nhớ điều gì viết điều đó, lẫn lộn hồi ký và giáo lý.
Cũng cần nhắc bạn một
điều, xin đừng cho những gì trong đây là chân lý. Vì đến bây giờ, chính tôi
cũng không chắc là mình có tu đúng với Ðạo Phật hay không, hay là tu theo Ðạo
gì mà tôi chưa biết tên. Xin để bạn đọc đặt tên cho Ðạo này sau khi đọc hết tập
sách.
Paris, tháng 6 năm
1996
Thích Trí Siêu
===<><>===
Phần 1
Giác ngộ giải thoát
Ðạo Phật là một Ðạo giác ngộ, giải thoát.
Nhưng giác ngộ là giác ngộ cái gì? Giải thoát ai? Giác là biết nhưng biết cái
gì? Ngộ là nhận ra, nhưng nhận ra cái gì chứ? Giải là mở là gỡ ra, nhưng gỡ cái
gì? Thoát là vượt khỏi sự trói buộc, nhưng cái gì trói buộc và trói buộc ai? Bốn
chữ giác ngộ giải thoát chúng ta vẫn thường dùng nhưng bạn đọc có bao giờ tự hỏi
mình chưa?
Bạn muốn giác ngộ cái gì? Chắc bạn muốn
giác ngộ như Ðức Phật Thích Ca khi xưa phải không? Nhưng Ðức Phật khi xưa đã
giác ngộ cái gì?
Ðức Phật biết và nhận ra đời là bể khổ. Ðiều
này chắc bạn đã biết và nhận ra rồi. Vậy bạn muốn giác ngộ cái gì hơn?
Ðức Phật biết và nhận ra nguyên nhân đưa đến
khổ đau mà danh từ Phật Giáo gọi là Tập Ðế. Ðiều này chắc bạn cũng đã biết rồi,
không nhiều thì ít. Nguyên nhân của đau khổ là tam độc tham sân si, hoặc thập
triền thập sử... Vậy bạn muốn giác ngộ cái gì hơn nữa?
Ðức Phật biết và nhận ra Niết Bàn là trạng
thái an vui tịch tĩnh không còn bóng dáng của khổ đau. Ðiều này chắc bạn cũng
biết rồi, nhưng chắc bạn chưa chứng được Niết Bàn phải không? Vậy bạn phải làm
gì để chứng Niết Bàn?
Ðức Phật biết và nhận ra con đường dẫn đến
Niết Bàn (Ðạo Ðế). Ðiều này chắc bạn cũng biết rồi, Ðạo Ðế gồm 37 phẩm trợ đạo:
Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Ðề Phần, Bát
Chánh Ðạo. Vậy bạn đang đi trên con đường nào dẫn đến Niết Bàn?
Tóm lại, bốn điều trên (Tứ Diệu Ðế) là điều
mà Phật đã giác ngộ, bạn cũng đã biết, vậy bạn muốn giác ngộ cái gì hơn nữa?
Tứ Diệu Ðế là giáo lý căn bản của Ðạo Phật
hầu như ai cũng biết. Vậy chúng ta giác ngộ rồi phải không? Chắc bạn sẽ trả lời
là không. Vậy bạn còn thiếu cái gì nữa mà chưa giác ngộ?
Tất cả những gì Phật biết, ngài đã dạy lại
cho chúng ta trong kinh điển rồi, ngài đâu có dấu diếm điều gì. Vậy chúng ta chỉ
việc y theo kinh điển mà tu hành thì chắc sẽ thành Phật. Nhưng khổ nỗi, tham cứu
kinh điển đâu phải chuyện dễ. Nào kinh Tiểu Thừa, kinh Ðại Thừa, Hiển Giáo, Mật
Giáo, Tiệm Giáo, Ðốn Giáo, v.v...
Trong các kinh Ðại Thừa lại có các kinh
được xem là vua trong các kinh. Nếu chỉ có một vua thôi thì còn đỡ, đàng này có
đến mấy ông vua, làm sao biết vua nào là vua lớn nhất?
Thói thường ai mà chả thích làm quen với
vua, vì quen vua thì được hưởng nhiều đặc ân. Bởi vậy đa số đi tìm những kinh lớn,
vua trong các kinh như Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Kim Cang, v.v... để trì để tụng.
Nhưng tụng nhiều để được phước hay để giác ngộ? Mà giác ngộ cái gì? Ðược phước
cho ai chứ? Cho cái Ta điên đảo, ích kỷ chăng? Hay cho chúng sinh? Mà ta có biết
chúng sinh là ai không, hay là chỉ biết đến cái Ta, cái của Ta, con Ta, vợ Ta,
nhà Ta, chùa Ta, Phật tử của Ta?
Tuy vậy chưa đến nỗi tệ lắm vì còn có một
số khác trí huệ thông minh hơn, biết đi nghe giảng kinh, sưu tầm băng kinh của
Hoà Thượng này, Thượng Tọa nọ, cho là mình hiểu kinh lớn rồi nhìn người khác bằng
nửa con mắt. Kinh Phật chỉ là phương tiện, không phải là chân lý, chỉ là ngón
tay chỉ mặt trăng chứ không phải mặt trăng. Vậy mà đa số đều cho là mình hiểu
kinh Phật hơn kẻ khác rồi sinh ra ngã mạn khinh người. Học Kinh, tụng Kinh như
vậy có đưa đến giác ngộ giải thoát không hay chỉ tạo thêm vô minh phiền não?
Giác ngộ cái gì? Ðối tượng của giác ngộ
hoàn toàn tùy thuộc trình độ, căn cơ và sở thích của bạn.
Thanh Văn giác ngộ Tứ Ðế, Duyên Giác ngộ
lý Nhân Duyên, Bồ Tát giác ngộ lý như huyễn ra vào sinh tử tự tại.
Còn bạn muốn giác ngộ cái
gì? Giác ngộ bổn lai diện mục của mình chăng? Giác ngộ ông chủ hay Phật tánh?
Vì bạn tu thiền!
Hay bạn muốn giác ngộ tự tánh Di Ðà, duy
tâm Tịnh Ðộ vì bạn tu theo Tịnh Ðộ? Hay giác ngộ tức thân thành Phật theo Mật
Tông?
Nhưng nếu bạn không tu Thiền, Mật hay Tịnh
Ðộ thì bạn muốn giác ngộ cái gì? Giáo lý của Phật bao la đâu phải chỉ hạn hẹp
chung quanh mấy danh từ Phật tánh, bổn lai diện mục, Thiền, Tịnh hay Mật. Giác
ngộ cũng vậy hay nói đúng hơn là đối tượng của giác ngộ cũng bao la, đâu cứ phải
vào chùa hoặc đi tu mới có giác ngộ! Giác ngộ có thể tìm được trong kinh này
kinh nọ không? Hay cần được tìm thấy ngay trong đời sống hàng ngày?
Bạn có thấy nhiều người đi chùa hằng bao
nhiêu năm, trì kinh không biết bao nhiêu bộ mà cách đối xử còn tệ bạc hơn những
người không biết Ðạo Phật không?
Nếu đi tìm giác ngộ thì hãy xác định lại đối
tượng giác ngộ của mình. Giác ngộ cái gì? Cái đó có giúp ta sống an vui hạnh
phúc với người xung quanh không?
Bây giờ nói đến giải thoát. Ví dụ ta bị ai
bắt, trói chân trói tay, nhốt vào một căn nhà. Sau đó ta tìm cách cởi được giây
trói chạy thoát khỏi căn nhà. Khi chạy ra khỏi thì gọi là giải thoát.
Trong Kinh nói ba cõi không an, ví như nhà
lửa (tam giới vô an, du như hỏa trạch), do đó cần phải tu để cầu giải thoát.
Nhưng ai bắt ta? Ai trói ta? Trói ta bằng gì? Nhốt ta ở đâu?
Trong quyển "Vô Ngã" tôi đã nói
rõ về vấn đề này. Ở đây chỉ nói sơ lược là không ai có thể làm khổ ta ngoài
chính ta. Xưa kia Ðức Phật cũng bị ngoại đạo tìm đủ mọi cách hãm hại, mắng chửi
nhưng ngài đâu có khổ mà ngược lại vẫn an nhiên tự tại. Trời mưa, trời nắng,
người khen, kẻ chê, tất cả những cái đó chỉ là ngoại cảnh. Nếu không làm chủ được
tâm, để vọng niệm khởi lên dính mắc làm ta đau khổ, đó là lỗi tại ta, đâu phải
tại người.
Ðến chùa nghe người ta dèm pha nói xấu
mình, tại sao mình lại khóc? Bài học giải thoát ở đâu? Người kia thiếu hiểu biết
đã tự đầu độc tâm mình bằng tư tưởng xấu, tự làm nhơ miệng với lời nói xấu. Ðâu
có ăn nhằm gì đến mình, tại sao mình khóc? Phải chăng cái Ta (ngã) của mình bị
chạm tự ái? Bạn hãy đi tìm cái Ta (égo) của mình đi.
Giáo
lý, Giáo điều, Giới luật
Bất cứ tôn giáo nào trên thế giới cũng đều
bắt nguồn từ một cá nhân xuất chúng, một bậc siêu nhân phát minh ra được một
chân lý hay nguyên lý nào đó. Rồi vị siêu nhân này đi rao giảng truyền bá lại
cho quần chúng, trở thành giáo chủ và những lời dạy của giáo chủ trở thành giáo
lý (doctrine).
Ðức Phật Thích Ca tương đối có đông đệ tử
nhất, 1250 vị. Chúa Giê-Su có 12 tông đồ. Mahomet giáo chủ Ðạo Hồi chỉ có 5 đệ
tử lúc đầu. Lão Tử thì chỉ một mình một trâu, còn Khổng Tử thì chỉ vài chục môn
đệ bôn ba theo Thầy.
Theo tôi nghĩ, những vị giáo chủ này, đương thời họ đâu có muốn trở thành giáo chủ hay vị thống lãnh nào mà họ chỉ muốn chia xẻ với quần chúng tư tưởng của họ hoặc truyền bá một thông điệp nào đó mà thôi. Và như thế giáo lý cốt chỉ để chuyên chở thông điệp (message). Nếu không nhận được thông điệp thì giáo lý trở thành triết lý tràng giang đại hải. Rồi hàng môn đệ về sau mỗi người hiểu một ý, sinh ra chống báng lẫn nhau. Ðể tránh tình trạng này, họ mới cùng nhau đúc kết lại những điều căn bản của giáo lý, lấy đó làm nền tảng bất di bất dịch, bất khả xâm phạm, không ai được quyền sửa đổi nữa. Ðây gọi là giáo điều (dogme).
Theo tôi nghĩ, những vị giáo chủ này, đương thời họ đâu có muốn trở thành giáo chủ hay vị thống lãnh nào mà họ chỉ muốn chia xẻ với quần chúng tư tưởng của họ hoặc truyền bá một thông điệp nào đó mà thôi. Và như thế giáo lý cốt chỉ để chuyên chở thông điệp (message). Nếu không nhận được thông điệp thì giáo lý trở thành triết lý tràng giang đại hải. Rồi hàng môn đệ về sau mỗi người hiểu một ý, sinh ra chống báng lẫn nhau. Ðể tránh tình trạng này, họ mới cùng nhau đúc kết lại những điều căn bản của giáo lý, lấy đó làm nền tảng bất di bất dịch, bất khả xâm phạm, không ai được quyền sửa đổi nữa. Ðây gọi là giáo điều (dogme).
Giáo lý tuy nhiều nhưng không đáng ngại.
Giáo điều tuy ít nhưng lại nguy hiểm vì nó làm cho người ta mắc kẹt, dễ hiểu lầm
là chân lý. Giáo điều dạy chúng ta phải như thế này, phải như thế kia. Tu hành
phải ăn chay niệm Phật, phải đi chùa cúng kiến, làm công quả, nếu không thì sẽ
bị tội, v.v... Hoặc như bên Ðạo Chúa có
người cho rằng nếu không đi nhà thờ ngày chủ nhật thì chết sẽ xuống địa ngục.
Hoặc bên Hồi Giáo, ai mà phạm thượng đến Allah thì phải bị xử tử, v.v... Khi
giáo điều được mọi người tin là chân lý thì giáo điều trở thành tín điều. Tóm lại
giáo điều là một loại giáo lý đã bị đóng khung cứng ngắc.
Giới luật cũng là một loại giáo điều trên
phương diện cư xử trong đời sống hằng ngày. Trong luật Tứ Phần nói 12 năm đầu,
đức Phật chưa chế giới luật vì Tăng chúng thanh tịnh. Ðến năm thứ 13, có những
vị xuất gia sau, tu hành thiếu xót, gây ra nhiều phiền phức, lúc đó Phật mới
tùy phương tiện chế ra giới luật, tùy bệnh cho thuốc. Nhưng lại có những người
chấp thuốc thành bệnh. Thí dụ trong luật Tỳ Kheo cấm không được leo cây cao quá
đầu người, thế rồi ngày kia có vị Tỳ Kheo đi vào rừng gặp cọp dữ, hoảng sợ bỏ
chạy, bám vào cây nhưng không dám leo lên cao quá đầu vì sợ phạm giới, nên bị cọp
nhẩy lên vồ trúng ăn thịt. Các vị Tỳ Kheo khác biết chuyện về thưa lại, đức Phật
mới sửa thêm vào là trừ khi có nạn hay nhân duyên thì khai cho. Trong giới luật
có giới tánh, giới tướng, có sự khai, giá, trì, phạm. Giới luật được chế ra tùy
nhân duyên, căn cơ của đệ tử và bối cảnh xã hội đương thời. Từ lúc thành lập
Tăng đoàn cho đến khi nhập diệt, đức Phật đã chế ra 250 giới cho hàng Tỳ Kheo
trong 45 năm. Nếu đức Phật còn sống cho đến ngày nay thì chắc Tỳ Kheo phải có
ít nhất là 2500 giới.
Trong Kinh Mahaparinibbana (Ðại Bát Niết
Bàn) thuộc Trường Bộ Kinh, trước khi nhập diệt, đức Phật có nói với A-Nan, từ
nay trở đi cho phép các Tỳ Kheo tùy nghi bỏ các giới cấm nhỏ nhặt. Trong kỳ kết
tập Kinh điển lần thứ nhất, Ca Diếp đã trách A-Nan sao không hỏi lại Phật giới
nào là giới nhỏ nhặt. Và Tăng chúng lúc bấy giờ có lẽ vì kính nể Phật hoặc
không thấy giới nào là nhỏ nhặt cả nên đã giữ lại hết.
Tu hành cần phải có giới
luật vì giới luật là hàng rào giúp cho hành giả khỏi bị sa ngã. Nhưng giới luật
cũng cần được uyển chuyển, khi khai khi trì tùy theo căn cơ và bối cảnh xã hội.
Nếu bạn là một Phật tử chân chính chắc chắn
bạn cũng muốn giữ giới tinh nghiêm. Giữ giới là việc rất tốt, đáng khen nhưng
làm sao đừng rơi vào quá khích và ngã mạn.
Tôi có biết một Thầy, Thầy này chủ trương
giữ giới nghiêm khắc, khi nói chuyện với phụ nữ thì đứng xa ba thước. Lỡ khi có
cô nào đi ngang vô ý đụng vào Thầy thì liền sau đó Thầy đi thay và giặt ngay bộ
áo. Vả khi có Thầy nào vô ý nói chuyện hơi lâu với nữ Phật tử thì Thầy này cũng
tới cho hay là nói chuyện "quá giờ" rồi. Trong chùa ai nấy đều nể và
ngán Thầy vì Thầy giữ giới tinh nghiêm. Nhưng sau vài năm, không hiểu vì sao
chính Thầy lại bỏ ra đi cưới vợ.
Về phần tôi, khi mới thọ
giới Tỳ Kheo xong cũng muốn giữ giới kỹ lắm. Nếu giữ phần mình thì không nói
làm chi. Ðàng này lại đi dòm ngó người khác xem họ có giữ giới không? Nếu ai giữ giới thì mình nể, không thì mình
khinh. Nhiều lúc lại lên mách sư phụ nữa chứ. Có những lúc đi Phật sự, ngủ
chung phòng với quý Thầy khác, mặc dù mỏi lưng mỏi cổ muốn quay sang trái nhưng
vì lỡ làm "Ðại Ðức" nên cũng phải ráng nằm im bên phải giống như tượng
Phật lúc nhập Niết Bàn.
May cho tôi, từ lúc làm du Tăng có dịp tiếp
xúc với nhiều truyền thống khác, quan niệm về giới luật của tôi cũng thay đổi
và trưởng thành, không còn ngây thơ như trước nữa.
Vấn đề giới luật được nêu ra ở đây là vì
ai cũng muốn mình là đứa con ngoan nhất của Phật, ai cũng cho mình là biết giới
và giữ giới đúng hơn kẻ khác. Ngay cả khi đức Phật còn tại thế đã có một vụ
tranh chấp giữa hai nhóm Tỳ Kheo. Sự việc xảy ra tại Kosambi, lúc đó chư Tăng
đang nhập hạ. Có một Thầy phạm nhằm giới nhỏ liên quan đến cách thức xử dụng
phòng vệ sinh, bị nhóm Tỳ Kheo giỏi về giới luật bắt lỗi. Nhóm Tỳ Kheo giỏi về
Kinh thì không đồng ý vì cho rằng lỗi ấy không đáng. Nhóm nào cũng cho mình có
lý, không ai chịu thua ai, gây ra tranh chấp và bất hoà trong Tăng chúng. Ðức
Phật đích thân đứng ra hòa giải và dàn xếp nhưng không ai nghe cả. Do đó ngài bỏ
đi một mình, đến khu rừng Parileyyaka nhập hạ dưới một gốc cây sala. Theo tích
chuyện kể lại, trong thời gian này có một con voi và một con khỉ theo hầu cận
bên ngài.
Cuộc kết tập kinh điển lần thứ nhì tại
Vaisali cũng bắt nguồn từ một sự tranh chấp về giới luật giữa hai nhóm Tỳ Kheo
làm Tăng đoàn bị chia thành hai phái: Thượng Tọa Bộ (Théravada) và Ðại Chúng Bộ
(Mahasanghika). Là Phật tử đâu có ai muốn Tăng đoàn bị chia rẽ, nhưng khổ nỗi lại
cứ muốn cho mình hiểu kinh hiểu luật hơn kẻ khác. Muốn một đàng, làm một nẻo,
nhân quả làm sao tương ưng được?
Nếu bạn là một Tỳ Kheo thì bạn sẽ giữ bao
nhiêu giới? Nếu bảo là 250 giới thì chỉ đúng với người Việt và Trung Hoa thôi.
Vì Tỳ Kheo Nam Tông chỉ có 227 giới và Tỳ Kheo Tây Tạng 253 giới. Tất cả đều là
Tỳ Kheo, đều bắt nguồn từ đức Phật, tại sao lại có sự khác biệt như vậy? Ai đã
cắt bỏ, thêm bớt những giới luật trên? Không cần nói đến giới luật của Nam Tông
hay Tây Tạng, riêng 250 giới của Tỳ Kheo Ðại Thừa Việt Nam, Trung Hoa, ngày nay
có ai giữ đúng được con số ấy không? Tôi có nói chuyện về vấn đề này với một
số quý Thầy, hầu hết đều công nhận rằng có rất nhiều giới nhỏ không còn thích hợp
với thời đại xã hội ngày nay. Nhưng không ai dám sửa đổi vì cho rằng mình không
có thẩm quyền gì mà sửa đổi giới của Phật. Nếu làm vậy thì sợ mang tội đối với
Tam Bảo, hai là sẽ bị người khác chửi rủa. Thôi thì giới của Phật đặt ra bao
nhiêu thì cứ giữ bấy nhiêu, còn mình giữ được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Ngoài giới
Thanh Văn ra còn có giới Bồ Tát, Giới Thập Thiện. Thích thọ cho nhiều mà có giữ
được đâu?
Giới luật của Phật chế ra xưa kia tùy thuộc
vào bối cảnh phong tục tập quán của xã hội Ấn thời bấy giờ. Ngày nay muốn cai
dân trị nước một cách hữu hiệu, các chính phủ cũng phải sửa đổi luật pháp cho hợp
thời thế, không những hợp với tình thế quốc nội mà cũng phải hợp với sự biến
chuyển của quốc tế nữa. Ðương thời, sau khi chế giới, đức Phật đâu có độc tài,
lúc cần ngài cũng uyển chuyển khai thị sửa đổi kia mà (ở đây nói về những giới
Ba Dật Ðề, Pacittiya, trở đi).
Bàn về giới luật, tôi không có tham vọng
sửa đổi vì tôi dư biết là không ai dám cả gan sửa đổi giới luật của Phật, dù đó
là một Tăng Thống hay Ðại Lão Hòa Thượng. Mục đích của tôi muốn nhắc nhở bạn, nếu
thọ giới thì đừng thọ cho nhiều để khi dễ kẻ khác, khi giữ giới thì đừng cho
mình trong sạch hơn kẻ khác, khi học giới thì nên ý thức giới luật không phải
là giới điều bất di bất dịch mà chỉ là phương tiện.
Dù muốn dù không, giới luật của Phật đã có
hơn 2500 tuổi rồi, kính lão đắc thọ, điều mình có thể làm được là lập ra những
giới mới thích hợp với thời đại hơn. Ðây là trường hợp giới Tiếp Hiện của Thầy
Nhất Hạnh. Trong những giới mà tôi được biết, có thể nói giới Tiếp Hiện là giới
hợp lý và hợp thời nhất với xã hội ngày nay. Tiếp Hiện có 14 giới, nhưng tôi
thích nhất 2 giới đầu.
Giới thứ nhất: Không được thờ làm thần tượng
bất cứ một chủ nghĩa hay một lý thuyết nào, kể cả chủ nghĩa và lý thuyết Phật
Giáo. Những hệ thống giáo lý trong Ðạo Phật phải được nhận thức như những pháp
môn hướng dẫn tu tập mà không là những chân lý tuyệt đối để bảo vệ và thờ phụng.
Giới thứ hai: Không được yên trí rằng những
kiến thức mình hiện có là những chân lý bất di bất dịch, như thế để tránh sự trở
thành cố thủ và hẹp hòi. Phải học thái độ phá chấp và cởi mở để đón nhận quan
điểm của kẻ khác...
Ðến đây xin bạn đọc đừng hiểu lầm là tôi
quảng cáo cho Thầy Nhất Hạnh. Vì tôi chưa thọ giới Tiếp Hiện và có lẽ sẽ không
bao giờ thọ thêm giới nào nũa. Tôi đã thọ quá nhiều giới luật rồi, nào là giới
Tỳ Kheo, giới Bồ Tát, rồi thêm 24 giới của Kim Cang Thừa Tây Tạng. Giới luật đã
làm tôi ngộp thở vì tôi dại dột không nhận ra chúng chỉ là những giới điều.
Cho tới bây giờ, giới luật
của các tôn giáo thường có tính cách tiêu cực, cấm làm cái này cấm làm cái kia,
nếu lỡ làm thì phạm tội, gọi chung là giới cấm. Nếu cần thọ giới, tôi sẽ đi tìm
giới tích cực, đó là những giới khuyên ta nên làm điều lợi ích. Xin lấy thí dụ
để hiểu:
Giới tiêu cực
|
Giới tích cực
|
Không được trộm cắp
|
Nên bố thí, giúp đỡ kẻ
nghèo khó
|
Không được sát
sinh
|
Nên tìm cách cứu mạng
sinh vật
|
Không được tham sân
si
|
Nên học thương yêu, hiểu
biết
|
Mới nhìn qua, bạn có thể thấy hai cái
không khác nhau mấy, nhưng thật ra khác nhau nhiều lắm. Nếu học giới tích cực bạn
sẽ thấy cuộc đời mang một màu sắc mới, không còn màu sắc của ảm đạm, u buồn,
đáng ngán. Một người biết thương yêu giúp đỡ kẻ nghèo khó làm sao có thể ăn trộm
ăn cắp được? Giới tích cực bao trùm giới tiêu cực, nhưng giới tiêu cực không
bao trùm được giới tích cực.
Tôi không trộm cắp nhưng tôi cũng không bố
thí giúp đỡ ai cả.
Tôi không sát sinh nhưng ai chết thì mặc kệ,
đâu liên quan gì đến tôi.
Giới tiêu cực là những hàng rào ngăn cấm.
Giới tích cực là những chân trời mở rộng thênh thang, những cánh đồng bát ngát
đón mời ta vào thế giới tự tại và do đó không thể gọi là giới được vì giới tức
là hàng rào. Chỉ vì so sánh với giới tiêu cực nên tạm gọi là giới tích cực mà
thôi.
Trong một chuyến hành hương sang Ấn Ðộ,
trên máy bay vào giờ ăn có vài vị Sư Nam Tông ăn thịt do chiêu đãi viên đưa tới.
Thấy thế vài Phật tử Việt Nam xì xào với nhau: "Mấy ông Thầy này tu hành kiểu gì mà
ăn mặn, không biết từ bi chỗ nào!".
Một dịp khác, có một Thầy Việt Nam đi cùng
với Phật tử đến viếng thăm một trung tâm Phật Giáo Tây Tạng. Không biết Thầy
này thơ thẩn làm sao mà lại đi ngang nhà bếp thấy họ đang xào nấu thịt bò, trở
ra nói với Phật tử: "Trời ơi, ở đây họ ăn thịt!".
Quan niệm của đa số Phật tử Việt Nam là
người tu hành không được ăn thịt, nếu ăn thịt thì không phải kẻ tu hành. Trong
khi đó Phật tử các nước Nam Tông khi nhìn vào người tu hành Bắc Tông thì họ
nói: "Tu hành gì mà lại ăn chiều, không giữ đúng giới luật của Phật".
Khi thấy quý Thầy ăn chay, họ hỏi: "Bộ quý Thầy theo Ðề Bà Ðạt Ða hay
sao?". Nếu không may, Thầy nào thành thật trả lời: "Truyền thống
chúng tôi tu hành phải ăn chay" thì họ bẻ lại ngay: "Trâu ngựa kia ăn
chay ăn cỏ, vậy chúng cũng tu hành sao?".
Người ăn chay thì hãnh diện cho mình tu thật.
Còn người ăn mặn nhưng ngày ăn một bữa thì cho mình tu đúng lời Phật dạy.
Là du Tăng có dịp lang thang qua các Tu-Viện
không phải truyền thống Việt Nam nên tôi thông cảm, không bênh bên nào cả. Tôi
chỉ nói về kinh nghiệm cá nhân của mình để bạn đọc tùy ý lựa chọn.
Trước hết, trở về dòng lịch sử. Xưa kia đức
Phật và chư Tăng đi khất thực, ai cho gì thì các ngài ăn cái đó, không đòi hỏi
phân biệt chay mặn. Trong bộ Mahavagga có vài giới cấm Tỳ Kheo không được ăn thịt
của một số loài vật như: voi, ngựa, sư tử, rắn và chó. Như thế có nghĩa là được
quyền ăn những loại thịt khác. Khi đi khất thực, Tỳ Kheo được phép ăn năm thứ
thịt, gọi là ngũ tịnh nhục:
1. Thịt ăn mà không thấy người giết.
2. Thịt ăn mà mình không nghe tiếng của
con vật kêu la.
3. Thịt ăn mà mình không nghi người ta giết vì mình và cho mình ăn.
3. Thịt ăn mà mình không nghi người ta giết vì mình và cho mình ăn.
4. Thịt của con thú tự chết.
5. Thịt của con thú khác ăn còn dư.
Cũng cần thông cảm là khi đi xin ăn, một vị
khất sĩ không thể nào đòi hỏi thí chủ phải cúng cho mình thứ này thứ kia theo
khẩu vị và ý thích của mình được. Hơn nữa khi đi khất thực, nhiều khi phải đi đến
những làng mạc xa xôi hẻo lánh nơi mà thí chủ đa số không phải là Phật tử.
Khi đi khất thực, ai cho gì mình ăn cái nấy,
đây là một phương pháp tu hành rất hay, nó tập cho ta bỏ tánh ham ăn ngon, ăn
nhiều, bỏ tánh đòi hỏi cao lương mỹ vị, tăng trưởng hạnh tri túc và tánh bình đẳng.
Ðiển hình là Ðại Ðức Pindola Bharadvaja (Tân đầu Lô Phả La Ðọa) đã thản nhiên
ăn ngón tay của một người cùi rụng rơi vào bình bát của ngài, khi người này
cúng dường vật thực. Ở trường hợp này ta thấy việc ăn chay hay ăn mặn không còn
là một vấn đề nữa. Ngoài ra trong giới Pratimoksha của Tỳ kheo, dù là 227 giới
của Tiểu Thừa hay 250 giới của Ðại Thừa đều không có giới nào cấm ăn thịt cả.
Do đó một Tỳ Kheo ăn thịt lạt hay thịt mặn, không thể bị xem là phạm giới được.
"Ăn mặn nói ngay, hơn ăn chay nói dối".
Câu này không có nghĩa khuyên người nên ăn mặn mà cốt cảnh tỉnh người ăn chay.
Vì có nhiều người ăn chay dễ dàng nên sinh lòng kiêu mạn, tự cho mình hơn người
rồi khinh người ăn mặn. Hoặc có người mới bước vào Ðạo đã ăn chay trường ngay,
cốt để người khác khen ngợi. Ăn chay như vậy là do lòng háo danh mà ra.
Tại sao Phật tử Ðại Thừa lại có giới ăn
chay? Trong hai kinh Ðại Thừa: Lăng Già và Ðại Bát Niết Bàn, đức Phật dạy đệ tử
không được ăn thịt cá. Ðại ý trình độ chư Tỳ Kheo lúc ban đầu còn thấp kém,
chưa có thể lãnh thọ giáo pháp Ðại Thừa nên Phật nói pháp Tiểu Thừa, phương tiện
cho các Thầy dùng ngũ tịnh nhục. Sau này trình độ các Thầy khá hơn, lãnh thọ được
pháp Ðại Thừa nên Như Lai cấm tuyệt không cho ăn thịt cá nữa. Nếu còn ăn các thứ
ấy thì còn phạm giới sát sinh, không trực tiếp thì cũng gián tiếp sát sinh, làm
mất hạt giống từ bi. Sau nữa Ðại Thừa có kinh Phạm Võng nói về Bồ Tát giới: gồm
10 giới trọng và 48 giới khinh, trong đó giới khinh thứ 3 cấm ăn thịt. Bởi thế
người nào thọ giới Bồ Tát phải trường trai.
Gần
đây năm 1987, Thượng Tọa Ðức Niệm soạn dịch quyển Tại Gia Bồ Tát Giới, gồm 6 giới
trọng và 28 giới khinh, trong đó không bắt phải trường trai nữa mà phải giữ ít
nhất 6 ngày chay trong một tháng (giới khinh thứ 7).
Nếu ta thích ăn chay vì lòng từ bi hoặc giữ
giới Bồ Tát thì ta cứ việc ăn chay, nhưng đừng nên chỉ trích coi thường người
ăn mặn, vì họ cũng có lý của họ.
Ngoài ra vào thời đức Phật, Ðề Bà Ðạt Ða
đã yêu cầu Phật ban hành thêm năm điều sau đây trong giới luật của hàng xuất
gia:
1. Tỳ
Kheo phải sống trọn đời trong rừng.
2. Tỳ Kheo phải sống đời du phương hành khất.
3. Tỳ Kheo phải đắp y Pamsakula (y may bằng
những mảnh vải lượm ở đống rác hoặc nghĩa địa).
4. Tỳ Kheo phải sống dưới gốc cây.
5. Tỳ Kheo phải ăn chay suốt đời.
Với lòng từ bi và đức khoan dung, đức Phật
tuyên bố rằng các đệ tử của ngài được tự do hành động về năm điều này, muốn áp
dụng hay không cũng được. Ngài không bắt buộc phải theo chiều nào nhất định.
Vì lý do này nên khi thấy quý Thầy ăn
chay, các Sư Nam Tông mới nói: "Bộ quý Thầy theo Ðề Bà Ðạt Ða hay
sao?".
Nên biết ngày nay chỉ có chư Tăng Việt
Nam, Trung Hoa và Ðại Hàn là còn truyền thống ăn chay, các nước khác đều ăn mặn.
Nhất là Tây Tạng, không những ăn thịt mà lại ăn cả ba bữa nữa.
Trong giới Bồ Tát của Tây Tạng gồm 18 giới
trọng và 64 giới khinh, không có giới nào cấm ăn thịt cả. Tôi đã thọ giới này với
Ganden Tripa Rinpoché thứ 98 tại institut Vajrayogini trong dịp lễ Ðiểm Ðạo
Yamantaka Tantra năm 1987. Cùng lúc ấy tôi cũng thọ giới Kim Cang Thừa gồm 14
giới trọng và 10 giới khinh. Trong 24 giới này cũng không có giới cấm ăn thịt.
Bởi vậy chư Tăng và các Lạt Ma Tây Tạng ăn thịt như thường, nhất là thịt Yak (một
loại bò núi rất to).
Một lần trong buổi thuyết pháp của
Thrangou Rinpoché (một vị Lạt Ma cao cấp của phái Kagyupa), có người hỏi: "Tại sao các Sư Tây Tạng không ăn
chay?". Thrangou Rinpoché trả lời:"Dân Tây Tạng giết một con Yak nuôi
được 10 người trong một tháng, trong khi đó nếu rửa và nấu một bó cải làm chết
biết bao côn trùng sâu bọ mà chỉ nuôi được một người trong một bữa. Vậy thì cái
nào lợi và ai sát sinh nhiều hơn?".
Không biết bạn đọc có đồng ý không? Nhưng
theo tôi câu trả lời của Thrangou Rinpoché cũng chỉ là một lối biện hộ cho người
ăn thịt mà thôi. Ta có thể tranh luận mãi về vấn đề này, vì người ăn thịt sẽ có
lý lẽ của người ăn thịt và người ăn chay cũng có lý lẽ của người ăn chay. Không
ai chịu thua ai! Tu hành đâu phải để ăn thua đủ với nhau mà dành phần thắng về
mình.
Như vậy ăn chay hay ăn mặn cái đó tùy ý bạn.
Nhưng nếu là người muốn tu hành thì chắc bạn sẽ đồng ý với tôi rằng chúng ta ăn
để sống chứ không phải sống để mà ăn. Ăn để nuôi thân, cho thân có sức khỏe để
tu hành, hoặc nếu không tu thì cũng làm sao tránh khỏi bệnh tật, sống đời an
vui.
Có câu "bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng
khẩu xuất", có nghĩa là mọi căn bệnh đều vào từ miệng và mọi tai họa đều từ
miệng mà ra. Con người có hai phần: thể xác và tinh thần. Người đời thường chỉ lo cho thể xác, còn người
tu lo tinh thần. Có nhiều người tu ăn chay chỉ ăn rau luộc chấm nước tương vì
cho rằng việc ăn uống không quan trọng, việc tu niệm quan trọng hơn. Sau một thời
gian cơ thể thiếu sinh tố dinh dưỡng, bệnh hoạn đủ thứ, lúc đó liền đổ tại nghiệp.
Tôi thấy cái đó đúng là tại nghiệp, nghiệp vô minh không biết ăn uống đúng với
luật dưỡng sinh. Thân thể ví như chiếc bè để qua sông sinh tử đến bờ Niết Bàn.
Muốn qua sông mà không săn sóc chiếc bè, để bè mục nát, chưa đến giữa dòng bè
đã tan rã, như vậy có đến được bờ bên kia không?
Ăn chay là điều rất tốt nhưng nên ăn chay
một cách thông minh. Những hành giả Yogi Ấn Ðộ ăn uống rất kỹ lưỡng. Họ chia thức
ăn theo ba loại: tamasique, rajasique và sattvique.
Thức ăn tamasique là những
loại có tính chất làm hại cơ thể tiêu hao nguyên lực và làm tâm trí hôn ám đần
độn. Ðó là thức ăn thiu chua hoặc quá chín, thịt cá, hành tỏi, rượu, thuốc lá,
thuốc phiện, đồ hộp, đồ đông lạnh, v.v... Ăn quá no cũng được xem là tamasique.
Hành giả Yogi tuyệt đối tránh ăn những loại thức ăn này.
Rajasique
là những loại kích thích cơ thể, tâm trí và cảm xúc. Nó kích thích luôn cả đam
mê và làm mất tự chủ. Hành giả Yogi cố tránh những thứ này càng nhiều càng tốt.
Ðó là trứng, cà phê, trà, đồ gia vị mạnh, quá chua, quá đắng, đường trắng, bột
trắng, đồ hóa học, v.v... Ăn quá nhanh hoặc ăn nhiều thứ trộn lẫn cũng được xem
là rajasique. Người tu thiền ăn những thứ này dễ bị loạn tưởng chi phối.
Sattvique là loại thức ăn bổ dưỡng cho cơ
thể, đầy đủ sinh tố, dễ tiêu, giúp cho tâm trí bén nhạy, sáng suốt và vắng lặng.
Ðây là thức ăn chính của hành giả Yogi, gồm ngũ cốc, hoa quả, rau cải tươi, bơ,
sữa, fromage, đậu hạt, mật ong, nước trái cây, nước suối, v.v...
Người ăn chay nên ăn những thức ăn
sattvique, nhưng cũng phải biết ăn theo thời tiết bốn mùa, tùy theo phong thổ
và tạng âm dương.
Thầy tu có vợ
Ðúng theo Ðạo Phật thì người xuất gia (mà
chúng ta quen gọi là Sư Tăng) không được lập gia đình. Chữ Sư có nghĩa là Thầy,
chỉ có Thầy Tăng mới không được quyền có vợ, còn những ông thầy khác như giáo
sư (thầy dạy học), Kỹ sư (thầy kỹ thuật), Kiến trúc sư (thầy vẽ kiểu nhà), võ
sư (thầy dạy võ) v.v... những ông thầy này được quyền có vợ chứ! Ngay cả Ðạo sư
(thầy dạy Ðạo) cũng có vợ được nếu đạo sư đó không phải là Tăng.
Gần đây có một số Phật tử Việt Nam theo học
Ðạo với các Thầy Lạt Ma Tây Tạng. Những Phật tử này thường vẫn còn khái niệm Thầy
tu không được có vợ. Vì thế nên có một cô Phật tử ở Canada đến nói với tôi rằng:
"Con theo học với vị Lạt Ma này được hai tháng nhưng sau khi biết ông ta
có vợ thì thôi, không theo học nữa".
Giá trị đạo đức của một ông Thầy không nên
được đánh giá trên việc ông ta có vợ hay không có vợ. Ở Nhật Bản các vị Tăng đa
số đều có vợ. Có nhiều chùa, sau khi vị trụ trì mất thì con của họ lên thay thế
làm trụ trì. Có hai vị thiền sư Nhật nổi tiếng là Shunryu Suzuki (1905-1971)
tác giả quyển "Thiền tâm, Sơ tâm" (Zen mind, Beginner"s mind) và
Daisetz Teitaro Suzuki (1870-1966) tác giả bộ "Thiền Luận". Khi nói về hai vị này, nhiều người gọi họ là Ðại
Sư. Tôi tự hỏi không biết những người này có biết là hai Ðại Sư của họ có vợ
chăng? Nếu biết thì có còn gọi là Ðại Sư nữa không?
Riêng theo truyền thống
Tây Tạng thì có hai loại Lạt Ma. Lạt Ma Tăng không có vợ và Lạt Ma cư sĩ có vợ
con. Chữ Lạt Ma (Lama) là dịch từ chữ Phạn Guru có nghĩa là Ðạo Sư, vị Thầy chỉ
đạo. Phật Giáo được truyền vào Tây Tạng khoảng thế kỷ thứ 8 do Padma-sambhava
(Liên Hoa Sanh), vị này là một Ðạo Sư nổi tiếng về Mật Giáo, xuất thân từ tu-viện
Vikramasila, một tu-viện lớn ngang hàng với Nalanda. Padmasambhava có hai người
vợ và cũng là hai đệ tử lớn. Chính ông đã sáng lập ra phái Nyingmapa (Cổ Mật),
trong phái này đa số các Lạt Ma đều là cư sĩ nên chuyện có hay không có vợ
không phải là một vấn đề. Sau đó vào thế kỷ thứ 11, có thêm hai phái nữa ra đời
là Kagyupa và Sakyapa. Sơ Tổ Tây Tạng phái Kagyupa là Marpa qua Ấn Ðộ học Ðạo với
Naropa rồi trở về xứ dịch kinh truyền Ðạo. Ðạo Sư Marpa có vợ và đệ tử xuất sắc
nhất của ông là Milarépa, vị này không phải là Tăng mà là một đạo sĩ Du Già
(Yogi, naldjorpa). Ðệ tử kế nghiệp Milarépa là Gampopa, một vị Tăng nên bắt đầu
từ Gampopa trở đi đa số đều là Tăng, nhưng vẫn còn một phần ba là cư sĩ. Kế
nghiệp Gampopa là Karmapa, bắt đầu từ vị này thì có sự tái sinh trở lại ngôi vị
mình cho tới Karmapa thứ 16, vị này mới mất năm 1982. Karmapa là vị lãnh đạo tối cao của phái
Kagyupa, tương đương với đức Ðạt Lai Lạt Ma. Vị Karmapa thứ 15 cũng có vợ. Sơ Tổ
của phái Sakyapa là Sachen Kunga Nyingpo cũng có vợ và hai vị Tổ kế tiếp chính
là hai con trai của ông. Ða số Lạt Ma của phái này là cư sĩ, vị lãnh đạo tối
cao hiện nay là Sakya Trizin. Vào thế kỷ 14 có phái Guélugpa ra đời, Sáng Tổ là
Tsongkhapa, một vị Tăng. Kế thừa sau này là Gendun Drub, Ðạt Lai Lạt Ma thứ nhất.
Sau khi chết, vị này tái sinh trở lại mỗi đời, cho tới nay là Ðạt Lai Lạt Ma thứ
14 (Tenzin Gyatso).
Trong bốn phái lớn vừa kể, ba phái đầu được
gọi là Hồng Mạo phái (phái mũ đỏ), phái chót là Hoàng Mạo phái (phái mũ vàng).
Phái này rất tôn trọng giới luật nên đa số Lạt Ma đều là Tăng.
Kể sơ các dòng phái của Tây Tạng để bạn đọc
và người nào muốn theo học với Phật Giáo Tây Tạng khỏi bị bỡ ngỡ trước vấn đề
"Lạt Ma có vợ". Với dân Tây Tạng, một vị Lạt Ma có vợ hay không, việc
đó không thành vấn đề. Hơn thế nữa, trong giáo lý Mật Tông Tây Tạng (Tantrayana)
có những pháp môn mà trong đó hành giả cần phải có vợ hay một người nữ cùng tu
để tập chuyển hóa những năng lực tính dục (énergie sexuelle) hầu sớm mau đắc đạo.
Ðây là một điều mà Phật tử Việt Nam không thể nào hiểu nổi, nhiều khi còn cho
đó là bàng môn tả đạo. Và đây cũng là một lý do mà tôi không muốn truyền bá Phật
Giáo Tây Tạng sau sáu năm học Ðạo với các Lạt Ma.
Tạm bỏ qua chuyện Sư Nhật hay Lạt Ma Tây Tạng
có vợ, bây giờ nói đến chuyện Sư thật hoàn tục để cưới vợ. Theo truyền thống Phật
Giáo ở các nước Nam Tông như Thái Lan, Miến Ðiện, Tích Lan, Lào, Cam Bốt, các vị
Sư tu hành lâu năm hoàn tục vẫn được Phật tử kính nể vì họ quan niệm rằng vị Sư
đó dù đã hoàn tục nhưng kiến thức và phẩm chất đạo đức của ông vẫn không mất.
Ngược lại trong giới Phật tử Việt Nam thì lại quan niệm việc hoàn tục là một sự
thất bại, có nghĩa là vị Sư đó tu hành không đến nơi đến chốn, không có nghị lực
để bị sa ngã, v.v... Vì đa số Phật tử quan niệm như thế nên các vị Sư hoàn tục
thường có mặc cảm tội lỗi, hoặc xấu hổ rồi đoạn tuyệt hẳn với Ðạo Phật, không
dám bén mảng tới chùa nữa. Như vậy không những chùa mất đi một vị Tăng mà còn mất
luôn một người Phật tử nữa. Ðây là một điều đáng tiếc và quan niệm này hãy còn
thiếu nhiều thương yêu hiểu biết.
"Chiếc áo không làm nên Thầy tu"
kia mà! Sao chúng ta cứ mải vô minh cố chấp vào hình thức? Tu là phải như thế
này, phải như thế kia!
Từ lúc vào chùa đi tu đến nay, tôi đã chứng
kiến nhiều huynh đệ hoàn tục. Ban đầu tôi cũng bất mãn, thầm trách Thầy tôi sao
không khuyên răn ngăn cản họ. Nhưng rồi với thời gian, tôi hiểu và thông cảm,
thấy rằng họ còn những bài học cần phải học, cần phải hiểu để tiến hóa. Ðạo
không nhất thiết phải học ở trong chùa hay trong kinh sách mà Ðạo ở khắp mọi
nơi.
Có nhiều Phật tử phê phán: "Tội nghiệp
Thầy đó nghiệp nặng, hoặc Sư Cô đó còn nặng nợ trần gian". Họ làm như mình
không còn nặng nợ nữa vậy. Có biết đâu mình cũng nặng nợ như ai nhưng trốn nợ
hoặc chưa tới lúc phải trả đó thôi.
Ði tìm Ðạo tức là đi tìm Thầy. Do đó có
câu: "Tầm Sư học Ðạo". Vì thế chữ Ðạo không thể rời chữ Sư. Ðức Phật
là một Ðạo Sư, người chỉ đường đến Niết Bàn và con đường này được gọi là Ðạo Phật.
Chúa Giê-Su cũng là một Ðạo Sư, người chỉ đường về nước trời (Thiên Ðàng) và con
đường này được gọi là Ðạo Chúa. Ngày nay hai vị Ðạo Sư này không còn nhưng có
các đệ tử đại diện cho hai ngài, đó là quý Thầy Hòa Thượng, Thượng Tọa, Ðại Ðức,
hoặc các cha Linh Mục, Giám Mục, Hồng Y, v.v...
* Tìm Thầy hay tìm một người mẫu lý tưởng?
Trong quyển Vô Ngã, viết năm 1990, chương
"Liên hệ Thầy trò", tôi có nói là người tu hành ban đầu rất cần sự hướng
dẫn của một vị Thầy. Nếu theo một Thầy lành, ta sẽ trở nên lành; nếu theo một
Thầy ác, ta sẽ trở nên ác. Do đó người tu hành phải sáng suốt lựa chọn cho mình
một vị Thầy xứng đáng tin tưởng. Nếu lựa chọn đúng thì sự tu hành gặp nhiều thiện
duyên tiến triển. Nếu lựa chọn sai thì có thể thối thất đạo tâm, không muốn tu
hành, nhiều khi đâm ra hận và chán ghét luôn tất cả Thầy khác.
Ở đây tôi sẽ không giới thiệu bạn một Thầy
mẫu lý tưởng mà chỉ nói lên sự nhận xét của tôi về chuyện tìm Thầy.
Tìm Thầy cũng giống như tìm bác sĩ vậy.
Khi bị bệnh muốn khỏi thì phải đi tìm bác sĩ. Thí dụ trong tỉnh bạn ở có 10 ông
bác sĩ. Sự đi tìm bác sĩ có thể được chia ra làm ba giai đoạn:
1. Tìm bác sĩ gần nhà nhất.
2. Tìm bác sĩ nổi tiếng hoặc do người quen
giới thiệu.
3. Chính mình đi hết 10 ông bác sĩ.
Khi mới bị bệnh, bạn sẽ tìm đến một ông
bác sĩ gần nhà nhất. Nếu bệnh của bạn không nặng lắm và ông ta cho thuốc chữa
khỏi thì bạn không cần tìm một ông bác sĩ khác nữa.
Nhưng nếu bệnh của bạn thuộc loại nan y và
ông ta không chữa khỏi, hoặc bạn đi chữa nhiều lần mà không thấy khá thì lúc đó
bạn sẽ cảm thấy cần phải tìm một ông bác sĩ khác khá hơn. Bạn có thể tìm đến một
ông bác sĩ nổi tiếng trong vùng hoặc nhờ người quen giới thiệu. Nếu ông bác sĩ
này chữa bạn hết bệnh hoặc bạn cảm thấy bệnh tình thuyên giảm thì bạn sẽ tiếp tục
đến với ông ta và không cần đi tìm một bác sĩ khác nữa. Nhưng nếu ngay cả ông
bác sĩ nổi tiếng này cũng không chữa bạn hết bệnh được thì giải pháp thứ ba là
bạn phải tự mình chịu khó đi khám hết 10 ông bác sĩ trong vùng, may ra sẽ tìm
được một ông chữa cho bạn khỏi bệnh.
Trong trường hợp cả 10 ông bác sĩ trong tỉnh
cũng không chữa hết bệnh thì có lẽ bạn phải chịu khó lặn lội sang tỉnh lân cận
để tìm bác sĩ khác. Và đây là một giải pháp thứ tư. Ta có thể tiếp tục đưa ra
nhiều giả thuyết và sẽ có nhiều giải pháp khác nhau. Nhưng tôi tạm ngưng ở ba
giai đoạn đầu.
Ði tìm Thầy học Ðạo cũng tương tự như vậy.
Bình thường chúng ta không bao giờ nghĩ chuyện tới chùa. Ðến khi trong nhà có
ai bệnh, ai chết cần phải cầu an, cầu siêu thì lúc đó ta đến đại một chùa nào gần
nhà có Thầy cầu an, cầu siêu. Nếu bệnh của ta chỉ là bệnh cần tín ngưỡng, cần cầu
xin ơn trên gia hộ thì tất cả chùa nào có đầy đủ tượng Phật trang nghiêm, có
quý Thầy tụng niệm nhịp nhàng hợp nhĩ là có thể cứu khổ cho ta được rồi.
Nhưng có những người sau thời gian cầu an,
cầu siêu bỗng nhiên nghe lòng chán ngán cuộc đời vô thường, muốn tìm hiểu nhiều
hơn và bắt đầu thỉnh kinh sách về đọc. Càng đọc càng thấm thía, muốn tìm hiểu
hơn, muốn đi nghe thuyết pháp, muốn tu thiệt, muốn ngồi thiền, trì chú, v.v...
Nếu vị Thầy trụ trì ở đó ngoài việc ứng
phú, tụng kinh làm đám, còn biết giảng Ðạo thuyết pháp thì quá tốt, ta sẽ không
cần phải đi tìm Thầy khác học Ðạo. Nhưng nếu sau một thời gian học Ðạo với Thầy,
ta cảm thấy mình thông minh quá, học đâu hiểu đó và hình như Thầy cứ giảng đi
giảng lại hoài những đề tài cũ rích. Ðến đây ta sẽ nảy lên ý niệm muốn đi tìm
Thầy khác giỏi hơn. Ðây chính là giai đoạn hai: đi tìm Thầy nổi tiếng hoặc nghe
đồn về Thầy nào giỏi. Nhiều người ở Pháp, Mỹ mua vé về Việt Nam xin làm đệ tử
Thầy Thanh Từ, hoặc ở Việt Nam thì muốn sang Pháp tu học với Thầy Nhất Hạnh, hoặc
gần đây có một số người muốn sang Ấn Ðộ, Dharamsala, làm đệ tử của đức Dalai
Lama, hoặc các Lạt Ma Tây Tạng vì cho rằng các Lạt Ma tu cao hơn, nhiều thần
thông. Họ đâu biết rằng Phật Giáo Tây Tạng cũng có những lủng củng nội bộ, chia
rẽ tông phái, thù hiềm lẫn nhau.
Anh A thích tu theo Thầy Thanh Từ thì cứ để
anh theo. Cô B thích theo Thầy Nhất Hạnh thì cứ để cô theo. Chị C thích theo Thầy
Tây Tạng thì cứ để chị theo. Chúng ta là những người đang đi trong sa mạc nắng
chói, cần tìm bóng mát. Các vị Thầy là những bóng cây che mát. Sao ta lại dại dột
chia rẽ, níu kéo nhau, muốn mọi người phải theo về ông Thầy của mình, Thầy mình
là giỏi nhất, là bậc chân tu đắc đạo.
Song le, có những người theo học với Thầy
nổi tiếng trong một thời gian mà vẫn không thỏa mãn, còn nhiều nội kết đau khổ
trong lòng chưa giải tỏa được. Ðến đây ta bước sang giai đoạn ba là lên đường
tham vấn tất cả Thầy khác. Ðiều này xưa kia các thiền sư Trung Hoa đã có làm, gọi
là hành cước.
Thông thường giai đoạn ba ít có người đến
vì đa số dừng lại ở giai đoạn hai. Khi được làm đệ tử của một Thầy nổi tiếng,
có ai dại gì mà lại bỏ đi. Nếu có bỏ đi thì chắc phải tìm Thầy nổi tiếng hơn nữa,
hơi đâu mà đi tìm một Thầy vô danh tiểu tốt. Ðược làm đệ tử của một Thầy nổi tiếng,
dù không đắc đạo đi nữa, cái Ta (ngã) của mình không nhiều thì ít cũng được hưởng
lây danh của Thầy.
Sau giai đoạn ba còn nhiều giai đoạn tìm
Thầy nữa, nhưng theo tôi, có một giai đoạn sau cùng mà rất ít ai nghĩ tới, đó
là giai đoạn mà ta không còn là đệ tử của một cá nhân ông Thầy nào nữa, mà là đệ
tử của một bóng cây, một dòng sông, một đám mây, một cơn mưa, một ông già, một
em bé, v.v...
Trong quyển "Câu chuyện dòng
sông" của Hermann Hesse, Siddharta đã gặp và biết đức Phật là một Ðạo Sư đắc
đạo nhưng anh ta vẫn không theo, trở về ngồi bên dòng sông, lắng nghe dòng sông.
Không phải vì Phật là một Ðạo Sư nổi tiếng mà ta phải cố bám chạy theo. Không
phải vì tôi là một tu sĩ Phật Giáo mà tôi phải luôn luôn ca tụng Ðạo Phật. Vì Ðạo
Phật không phải là chân lý mà chỉ là con đường dẫn đến chân lý. Các Ðạo khác
cũng vậy, không phải là chân lý mà chỉ là con đường dẫn đến chân lý. Tôi đến với
Ðạo Phật vì tôi có nhân duyên và hoàn cảnh nhiều hơn đối với Ðạo khác.
Trên đây là ba giai đoạn
thông thường của sự tìm Thầy. Trong mỗi giai đoạn chúng ta đều mang theo một
cái khung về ông Thầy. Ðó là những khái niệm cứng ngắc sẵn có của ta về một ông
Thầy lý tưởng. Thí dụ theo tôi thì một ông Thầy lý tưởng phải như sau:
- Hiền như Bụt.
- Khờ khạo không biết gì về chuyện đời.
- Sống kham khổ, ăn mặc thô sơ.
- Suốt ngày chỉ biết gõ mõ, tụng kinh, niệm
Phật.
Nếu tôi thích ứng phú thì tôi sẽ thêm vào:
- Thầy phải biết tán tụng đúng điệu miền
Trung, tán rơi, tán xắp, tán trạo, v.v...
- Thầy phải biết làm sớ làm điệp ...
Hoặc nếu tôi biết đôi chút về giáo lý thì
thêm:
- Thầy phải biết tất cả giáo lý căn bản.
- Thầy phải biết giảng kinh Pháp Hoa, Niết
Bàn, Kim Cang, v.v...
Nếu tôi thích tu Thiền thì sẽ thêm:
- Thầy phải có định lực này nọ...
- Thầy phải ngồi thiền suốt ngày hay ít nhất
là bốn tiếng một ngày...
Hoặc nếu thích Mật Tông thì:
- Thầy phải biết làm bùa vẽ chú, trừ ma yếm
quỷ, v.v...
Cứ thế, cái danh sách tiêu chuẩn về Thầy
lý tưởng của tôi dài hay ngắn tùy theo sự hiểu biết nhiều hay ít về Ðạo. Sau đó
tôi đóng khung cái danh sách này rồi mang nó đi tìm Thầy. Nếu thấy Thầy nào hợp
với những tiêu chuẩn ấn định trong khung thì tôi cho Thầy đó xứng đáng làm Thầy
của tôi, là một Thầy tu chân chính.
Chúng ta thường khao khát đi tìm một Thầy
chân tu đạo đức. Nhưng chân tu đạo đức của ai? Của ta hay của ông Thầy đó? Chân
tu của ta có nghĩa là gì? Ðạo đức theo ta là sao? Phải chăng là những tiêu chuẩn
đóng khung của ta? Ta đi tìm ông Thầy tự thân hay đi tìm ông Thầy trong khung của
mình?
Thầy tôi phải như thế này, phải như thế nọ!
Thầy tu không được như thế này, không được như thế kia!
Trước khi đi tu, tôi đã học đến cử nhân vật
lý (licence de physique) ở Ðại Học Orsay. Khi đi tu, tôi nghĩ rằng bằng cấp thế
gian không có ích lợi gì và cũng không có gì đáng để phô trương, vì Ðạo Phật há
chẳng dạy buông xả hết sao! Thế nhưng sau khi vào chùa tôi thấy quý Thầy hay
trưng bằng tiến sĩ (Ph.D) ra, và nhiều Thầy khuyên tôi nên trở lại Ðại Học để lấy
bằng tiến sĩ, vì thời nay nếu có bằng cấp cao thì dễ làm Ðạo, nói người ta mới
nghe, mới nể. Nghe nói hợp lý nên tôi cũng tính đi học lại để lấy bằng Ph.D,
nhưng một hôm ngồi nói chuyện với chú Minh Lâm, chú nói một câu làm tôi tỉnh ngộ:
"Sao quý Thầy cứ tốn thì giờ theo đuổi bằng cấp ngoài đời làm chi! Xá lợi
Phất, Mục kiền Liên đâu có bằng Ph.D mà vẫn đắc đạo". Cuối cùng tôi đã
nghe lời chú nên tới nay tôi vẫn không có bằng Ph.D. Nói vậy bạn đừng hiểu lầm
cho tôi chống báng bằng cấp. Bằng cấp chỉ là bằng cấp, tự nó vô hại, chỉ có những
khái niệm về bằng cấp mới là nguy hiểm mà thôi. Bằng cấp dùng để chứng minh
trình độ kiến thức. Ngày nay với sự tiến bộ của khoa học, bạn có thể tham khảo
tất cả Tam Tạng Kinh Ðiển anh ngữ trên hệ thống Internet ngay nơi phòng ngủ của
mình nếu bạn có máy vi tính. Với Internet bạn có thể mở mang kiến thức của mình
24 tiếng trong ngày nếu bạn muốn mà không cần phải vào Ðại Học hay Thư Viện.
Theo tôi nghĩ, không phải ai cũng muốn tìm
Thầy đắc đạo, vì đa số chỉ cần một Thầy hướng dẫn tinh thần là đủ. Tuy nhiên ước
muốn tìm Thầy đắc đạo không phải là không có, nhất là đối với người muốn tu
hành thực sự, muốn giải thoát luân hồi càng sớm càng tốt. Là Phật tử, chắc bạn
cũng biết thời nay là thời mạt pháp, cách Phật xa hơn 2500 năm, tìm đâu ra Thầy
đắc đạo? Mà đắc đạo theo bạn là thế nào? Có phải khi nhìn vào bạn, ông Thầy đó
liền biết quá khứ, vị lai của bạn không? Nếu vậy thì Thầy đó có khác gì thầy
bói tướng? Có phải Thầy đó biết trừ ma yếm quỷ, làm cho gia đạo của bạn được
bình an không? Nếu thế thì đó là thầy bùa, thầy pháp rồi.
Ðắc đạo có phải ngồi thiền nhập định suốt
ngày suốt đêm không? Ở Ấn Ðộ có nhiều đạo sĩ Fakir có thể ngồi hoặc nằm suốt
ngày trên những bàn chông hoặc đứng một chân, giơ một tay suốt cả tuần cả
tháng. Theo bạn nghĩ, mấy ông này có đắc đạo không?
Ðắc đạo có phải là giảng được những bộ
kinh lớn Ðại Thừa như Kim Cang, Niết Nàn, Hoa Nghiêm không? Mấy giáo sư Ðại Học
Triết ở Pháp, Bỉ, Mỹ cũng giảng được các kinh này và nhiều khi còn dẫn chứng đầy
đủ hơn quý Thầy nữa.
Biết trước giờ chết của mình hoặc muốn chết
thì chết như chuyện gia đình Bàng Long Uẩn của Thiền Tông, có phải là đắc đạo
không? Ở Ấn Ðộ các đạo sĩ Du Già (Yogi) luyện tập pháp môn làm chủ hơi thở
Pranayama có thể tùy ý làm đứng nhịp tim hoặc ngưng hơi thở để chôn sống hai ba
ngày, sau đó sống trở lại như thường. Không biết mấy ông này đã đắc đạo chưa?
Mà cho dù đắc đạo đi nữa cũng phải chờ đến khi ông ta chết tự tại rồi mới biết
là đắc đạo, và như vậy đâu còn ích lợi gì cho tôi, nếu có thì chỉ xin hình ông
ta đem về để lên bàn thờ tôn sùng khấn vái.
Bạn cho rằng tôi không thích mấy ông Thầy
đắc đạo sao? Chính vì thích mấy Thầy đắc đạo nên tôi đã rời chùa, khăn gói lên
đường tìm các bậc chân sư đắc đạo. Chữ đắc đạo đã làm tôi say mê đắm đuối trong
suốt bảy năm (từ 87 đến 93). Ngoài chuyện tìm Thầy đắc đạo, tôi còn muốn đắc
đạo ngay trong đời này nữa, muốn bắt chước Milarépa. Vì thế tôi đã đi tìm học với
các Thầy Tây Tạng và nhập thất ba năm. Nhưng bây giờ tôi không còn muốn tìm Thầy
đắc đạo nữa, chỉ muốn tìm Thầy chỉ "Ðạo Sống" khác với Ðạo Chết. Ðạo
chết là Ðạo dạy tu hành để sau khi chết được lên thiên đàng hay vào Niết Bàn,
v.v...và nhiều lúc chỉ vì muốn nhập Niết Bàn hay lên thiên đàng sớm mà người ta
bỏ quên sự sống hiện tại, đánh mất bao nhiêu sinh lực và tiền của.
Ðạo
Sống là sống cho ra sống, hiểu được ý nghĩa của sự sống, thực hiện an vui hạnh
phúc ngay trong hiện tại, sống hoà hợp thương yêu với chính mình và mọi người,
biết chấp nhận cả thiện lẫn ác.
Lúc trước mỗi khi nghe nói ở đâu có Thầy
tu cao, đắc đạo là tôi liền tìm đến cầu học. Nhưng tôi chỉ ở được vài tuần hoặc
vài tháng rồi lại bỏ đi. Bởi vì tôi không bắt được sự thông cảm hai chiều, có
nghĩa là trò phải hiểu Thầy chứ Thầy không cần hiểu trò. Thầy dạy sao thì nghe
vậy, hiểu hay không cũng phải làm theo. Có nhiều Thầy còn muốn tôi trở thành y
hệt như ông ta, trở thành hình bóng của ông ta. Nhưng làm sao tôi trở thành hình bóng của một
người khác được! Do đó cứ thế mà tiếp tục tầm Sư học Ðạo. Thế rồi có một lần
tôi đừng lại, tự hỏi làm sao biết được Thầy kia là người đắc đạo? Mà đắc đạo là
đắc đạo gì? Ở đây nếu bạn giỏi kinh thì có thể trả lời: người đắc đạo là đắc
cái vô sở đắc, chứng cái vô sở chứng, dĩ vô sở đắc cố, cố danh chân đắc. Trả lời
như vậy thì đúng là tinh thần bát nhã rồi, nhưng thú thật với bạn, tôi thấy nó
không ăn nhập gì với tôi cả.
Bạn tu theo Ðạo Phật, tôi cũng tu theo Ðạo
Phật, nhưng Ðạo Phật của bạn có chắc là Ðạo Phật của tôi không? Chắc chắn là
không rồi. Cũng cùng là Phật Thích Ca nhưng Phật Thích Ca trong đầu bạn đâu có giống
Phật Thích Ca trong đầu tôi. Không tin bạn cứ nhìn các tượng Phật thì biết. Tượng
Phật của Trung Hoa, Nhật Bản thì mập mạp, đẫy đà; tượng Phật của Thái Lan, Miến
Ðiện thì gầy gò, bụng thắt lưng eo.
Ở gần một Thầy đắc đạo mà không cảm thấy
an vui hạnh phúc, ngược lại chỉ thấy buồn bực, khó chịu thì sự đắc đạo của ông
ta có giúp ích gì cho mình? Hơn nữa làm sao biết được ông ta đắc đạo? Mình chỉ
biết người khác đắc đạo khi chính mình đã đắc đạo. Nếu chưa được như vậy mà dám
cho kẻ khác đắc đạo thì đó chỉ là một khái niệm đắc đạo chủ quan. Thêm vào đó,
đắc đạo nào? Ðạo Phật chăng? Như đã nói hồi nãy, Ðạo Phật có nhiều truyền thống,
mỗi truyền thống lại có nhiều tông phái, mỗi tông phái lại có nhiều khái niệm đắc
đạo khác nhau. Bởi vậy khi đi tìm Thầy đắc đạo, ta cần phải xác định lại cái Ðạo
mà mình cần đắc, sau đó quan sát xem ông Thầy "đắc đạo" mà mình theo
học có thể hiện cái Ðạo mà mình muốn đắc hay không?
Giờ đây, bất cứ ai cũng có thể làm Thầy
tôi được, từ một em bé đến một bà lão. Ngay cả bạn nữa, nếu bạn biết sống cho
ra sống, tự thân bạn tỏa ra niềm vui, tỏa ra tình thương và sự chân thật thì thế
nào tôi cũng có dịp đến học Ðạo với bạn.
Phần 2
Có nhiều người đi chùa nhưng họ đến để tìm
một cái gì đó không liên quan đến việc tỉnh thức tâm linh.
Người Tàu đến chùa cúng Phật rất nhiều, để
cầu buôn may bán đắt, làm ăn phát đạt hoặc xin xâm xin quẻ, nếu được quẻ tốt
thì mừng cúng Phật nhiều, nếu gặp quẻ xấu thì buồn bã bỏ về. Ðến chùa khấn vái
xin xỏ như thế thì chùa có khác gì đình miếu. Nhưng khổ nỗi chính những hạng
"Phật tử" như thế mới giúp cho chùa khá giả. Người Việt Nam hiểu Ðạo
hơn nên "Tu" cũng khá hơn, đến chùa tụng kinh lễ Phật, học Ðạo nghe
pháp, làm công quả.
Tụng kinh nhiều thì cho là mình tu nhiều,
tu khá, hết tụng kinh bổn đến tụng kinh bộ, hết bộ này đến bộ khác. Lạy Phật
thì lạy xong ngũ bách danh, đến tam thiên rồi vạn Phật, cho rằng lạy nhiều chừng
nào thì tiêu tội chừng nấy.
Học Ðạo nghe pháp cốt để áp dụng tu tâm sửa
tánh, nhưng không như thế mà lại dùng kiến thức để phân biệt Thầy này hay Thầy
kia dở.
Thay vì làm công quả để học hạnh xả thí, lại
làm công quả để kiếm điểm với Thầy trụ trì.
Khá hơn là những bậc xuất gia, từ bỏ nhà cửa
vợ con đi tu. Nhưng một thời gian sau lại bám víu vào ngôi vị đạo đức của mình.
Nói đến đây tôi nhớ lại chuyện của Tổ Huệ Khả. Trong 33 vị Tổ Thiền Tông, tôi
thán phục nhất vị Tổ này, dám xả thí thân mạng, chặt tay cầu Ðạo. Là người kế
thừa Tổ Ðạt Ma, sau cùng dám xả luôn ngôi chùa, bỏ luôn chức Tổ, chức Hoà Thượng,
lăn xả vào chợ, đi vào cuộc đời để tự thử thách mình, tự chứng nghiệm và độ một
tầng lớp khác.
Người tu không khéo thường hay mắc phải bệnh
"ngã tâm linh" (égo spirituel). Mới biết tu một chút cho là mình đạo
đức. Tu hành chăm chỉ, được bao nhiêu công đức đều bị cái ngã hốt hết.
Tuy là một tu sĩ nhưng tôi không ưa chữ tu
chút nào. Tôi đã một lần bày tỏ trong quyển Bố thí ba la mật. Tu đâu phải là
làm những điều hình thức bên ngoài, đâu phải tính năm cộng tháng vào chùa.
Khoác áo cà sa mà không hiểu bài học thương yêu, giảng nói từ bi mà chỉ biết
ích kỷ củng cố địa vị đạo đức của mình. Ngạn ngữ có câu: "Chiếc áo không
làm nên Thầy tu" kia mà! Ðối với tôi, tu là tập sống với tâm linh. Chữ tâm
linh (spirituel) khác với vật chất (matériel). Tâm linh là tánh linh thiêng của
con người, có thể gọi đó là Thượng Ðế, Phật tánh hay Chân ngã... điều đó không
quan trọng. Ðiều quan trọng đầu tiên là ta có biết đến tâm linh của mình hay
không? Biết sống thật với tình cảm, nội kết của mình hay không? Hay là chỉ
thích đóng kịch, mượn danh nghĩa chữ tu để khoe khoang mình là người đạo đức.
Tôi tu vì tôi không phải là người đạo đức.
Tôi tu vì tôi còn nhiều nội kết chưa được giải tỏa, còn nhiều bài học ở đời mà
tôi chưa hiểu. Tôi tu vì tôi hãy còn phân biệt tốt xấu, ưa ghét. Hơn nữa bây giờ
tôi không chắc là tôi còn tu theo ý nghĩa phổ thông nữa không, nhưng tôi biết
là tôi muốn sống thật. Sống thật với chính mình, với cả tâm hồn và thể xác của
mình. Tôi không muốn làm Thầy ai cả, nếu muốn thì chỉ làm Thầy chính mình mà
thôi.
Có nhiều người chỉ thích đóng vai Thầy và
muốn học trò hay đệ tử đóng mãi vai học trò đệ tử. Nhưng Thầy nào trò nấy, cũng
có người thích đi tìm một vị Thầy, một đấng tôn sư bên ngoài để thờ phụng tôn
kính.
Theo tôi, một vị Thầy thật (chân Sư) là
người dạy cho đệ tử nhận ra ông Thầy của chính mình bên trong (le maître
intérieur). Ðức Phật là một chân Sư, ngài thành Phật và dạy cho chúng ta khai
triển Phật tánh của mình để thành Phật như ngài. Ðức Phật đâu có muốn bị đúc tượng
ngồi yên trên bàn thờ cho chúng ta hì hụp lạy ở dưới.
Luật nhân quả là một thuyết khá quen thuộc
đối với người Việt, nhưng ở đây tôi muốn đề cập đến một cái nhìn khác.
Tới bây giờ, nhân quả thường
được hiểu như một luật thưởng phạt công bình: "Ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ"
hoặc "gieo gió gặt bão" v.v... Bởi thế nhiều người đâm ra sợ luật
nhân quả và nhờ đó mà họ không dám làm ác, vì làm ác sẽ bị quả báo xấu mai sau.
Hoặc ngược lại, có người cúng dường bố thí thật nhiều để mai sau thọ hưởng phước
báo.
Luật nhân quả đúng là gieo nhân nào sẽ gặt
quả nấy, nhưng theo tôi nó không phải chỉ là luật thưởng phạt mà là một luật cần
thiết cho sự tiến hoá của con người.
Ðức Phật có nói: Ta là Phật đã thành,
chúng sinh là Phật sẽ thành. Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật thọ ký cho các đệ tử
sau này ai sẽ thành Phật hiệu là gì, ở cõi nào v.v... Như vậy ta thấy không những
đệ tử của Phật sẽ thành Phật mà tất cả chúng sinh đều sẽ thành Phật, dù phải trải
qua vô lượng số kiếp.
Cuộc đời là một trường học lớn (Ðại học đường),
gồm đủ mọi lớp từ thấp lên lao, từ mẫu giáo, tiểu học, trung học lên đến đại học.
Con người cũng đủ mọi tầng lớp: giàu có, nghèo khổ, hiền lành, hung ác, thông
minh, đần độn, v.v... Sinh ra ở đời tức là đã ghi tên và được nhận vào Trường Ðời
rồi. Bổn phận của học sinh là phải học giỏi, hiểu nhanh để lên lớp. Nếu lười học,
trốn học rong chơi, tâm trí u độn thì sẽ bị ở lại lớp, học đi học lại bài cũ
nhiều lần đến khi nào hiểu thì mới được lên lớp.
Khi đã học hết tất cả lớp của Trường Ðời rồi
thì không cần phải ghi tên học lại làm gì nữa. Ðó là trường hợp của bậc thánh
nhân như Phật, Chúa và các vị Ðạo Sư.
Mục đích chân chính của người đời là phải
học hỏi để hiểu và tiến hoá đến mức toàn thiện. Bài học cao quý nhất cần phải
hiểu là bài học "thương yêu". Thương yêu chính mình và kẻ khác. Danh
từ trong Ðạo gọi là từ bi. Nhưng thương yêu cũng phải biết cách, không nên
thương yêu theo kiểu ái luyến ích kỷ thường tình. Vì vậy cần phải học thêm bài
học "hiểu biết" mà danh từ Ðạo Phật gọi là trí huệ.
Hiểu biết để thương yêu, thương yêu để có
hạnh phúc. Hiểu biết ở đây không phải là loại trí khôn biết về chính trị, kinh
tế, thương mại, kỹ thuật, v.v... Có nhiều người học giỏi, đậu bằng cấp cao về
những bộ môn trên, nhưng để làm gì chứ? Ðể đi làm kiếm ăn, nuôi gia đình hay
dùng nó vào việc ích kỷ hại nhân.
Ở đời, dù giàu hay nghèo, khôn hay dại,
ai ai cũng muốn sung sướng hạnh phúc. Quả thì muốn mà nhân thì không biết gieo.
Hoặc gieo nhân ác mà cứ muốn quả lành. Tìm hạnh phúc mãi không thấy, chỉ thấy
khổ đau. Khổ quá bèn tìm đến Ðạo. Ðạo dạy gì? Dạy luật nhân quả: gieo nhân nào
thì gặt quả nấy.
Ta đau khổ thất tình vì bị người yêu ruồng
bỏ, ta đâu có ngờ trong nhiều kiếp trước vì không biết thương yêu ta đã ruồng bỏ
người. Là nạn nhân của chiến tranh, nhà tan cửa nát, vợ con thất lạc, ta hận đối
phương tàn ác dã man. Ta đâu có nhớ trong nhiều kiếp trước vì không biết thương
yêu ta đã tàn sát kẻ địch không gớm tay.
Trong kinh Pháp Cú, phẩm Song Yếu, bài kệ
thứ nhất nói:
Tâm dẫn đầu các pháp
Tâm làm chủ, tác tạo
Nếu với tâm ô nhiễm
Nói lên hay hành động
Khổ não bước theo
sau
Như xe, chân vật
kéo.
Nguyên nhân đưa đến khổ đau, không phải
hoàn cảnh, không phải người khác, mà chính tự nơi mình. Vì mải chạy theo vật chất,
bỏ quên tâm linh, không biết luật nhân quả, không học sống thương yêu. Do đó phải
chìm nổi lênh đênh trong biển khổ luân hồi, trở đi trở lại Trường Ðời để học đi
học lại bài học nhân quả, bài học thương yêu.
Có nhiều bậc cha mẹ thương con nhưng không
biết dạy con, nuông chiều thả lỏng con cái. Ðưa con đến trường phó mặc cho giáo
sư dạy dỗ. Nhưng ở trường học thời nay, người ta chỉ dạy cho có bằng cấp, có
nghề trong tay để ra đi làm kiếm ăn. Chỉ trong Trường Ðời với những bài học sống,
bài học cay đắng, bệnh hoạn, tai nạn, khổ đau mới có thể làm con người thức tỉnh
về luật nhân quả.
Ngày nay trong giới trí thức khoa học Âu Mỹ
có nhiều người để tâm nghiên cứu về hiện tượng luân hồi tái sinh. Nổi tiếng là
bác sĩ Ian Stevenson ở Ðại Học Charlottesville, tiểu bang Virginia. Qua nhiều
năm khảo cứu, điều tra nhiều nước trên thế giới, ông ta đặc biệt để ý đến những
dấu vết bẩm sinh trên thân thể con người. Thí dụ trường hợp của cậu bé
Witjeratna Hami ở Tích Lan, khi mới sinh ra đã có một bàn tay tàn tật. Vào tuổi
biết nói, cậu tiết lộ: "Tôi đã giết vợ tôi với bàn tay này trước khi tái
sinh ở đây".
Người Âu Mỹ không tin hoặc khó tin chuyện
luân hồi nên những sách như của Stevenson thích hợp với họ vì nó có tính cách
khoa học khảo cứu chứng minh luân hồi có thật. Nhưng đối với người Á Ðông thì
thuyết luân hồi không cần phải được chứng minh nữa, vấn đề cần được nói tới là
luân hồi hay tái sinh giúp ta hiểu được cái gì? Rút tỉa được bài học gì?
Bài học nhân quả dạy ta phải
có trách nhiệm trong sự sống của mình qua hành động, lời nói và suy nghĩ. Nếu
ta sống vô ý thức, vô trách nhiệm, chỉ biết ích kỷ hại nhân thì phải trở lại
Trường Ðời học bài học luân hồi.
Nếu nói về luân hồi với sự ích lợi của nó
thì ta phải kể đến Edgar Cayce (1877-1956), sinh trưởng ở tiểu bang Kentucky.
Ông ta có tài soi kiếp cho bệnh nhân. Sau khi đi vào giấc ngủ thôi miên, ông đến
cõi Trung giới (monde astral) nơi đó có một chỗ ghi chép tất cả số kiếp của
loài người trên trái đất (annales akashiques). Chỉ cần đọc trong đó, Cayce biết
được và nói cho bệnh nhân hiểu lý do nào trong quá khứ đã đưa đến căn bệnh hiện
nay. Ðây cũng tương tựa như túc mạng thông trong Ðạo Phật. Không những nói rõ
nguyên nhân căn bệnh, Cayce còn chỉ cho bệnh nhân cách chữa trị và phần lớn các
bệnh nhân đều lành bệnh. Những hồ sơ bệnh
án của Cayce, trên 14.000 trường hợp, được tồn trữ tại ARE (Association for
Research and Enlightenment) ở Virginia Beach. Thí dụ trường hợp của một phụ nữ
bị điếc. Cayce cho hay trong kiếp quá khứ, cô ta đã bịt tai làm ngơ trước lời cầu
cứu của kẻ khác. Do vậy trong kiếp này, với bệnh điếc, cô phải tập hiểu nỗi khổ
của kẻ khác, không còn bịt tai đóng cửa lòng với những ai đau khổ cầu cứu. Bạn
có thể tìm đọc quyển "Những bí ẩn của cuộc đời" do Nguyễn Hữu Kiệt dịch,
nói rõ về những loại nghiệp báo.
Có đau răng, ta mới hiểu nỗi khổ của kẻ
đau răng. Có những người mạnh khỏe, chưa bao giờ bị bệnh nên thấy người khác bệnh
thì làm ngơ xem thường. Những người này trong tương lai sẽ bị bệnh tật để cảm
nghiệm nỗi khổ của người bệnh. Hiểu được vậy để thương mình và kẻ khác, nhờ đó
nghiệp khổ được tiêu trừ. Nhưng nếu không hiểu như thế mà cứ đi chùa cầu an cho
hết bệnh thì bài học về bệnh khổ vẫn chưa hiểu và đương nhiên sẽ phải học lại.
Bệnh
khổ là một bài học cần phải hiểu. Không phải chỉ hiểu trên phương diện nghiệp
báo thôi mà phải học nghe nữa. Con người có hai phần: thể xác và tâm hồn. Do đó
phải học nghe tiếng nói của thể xác và của tâm hồn. Phật tử thường chúc quý Thầy
pháp thể khinh an, hoặc tứ đại thường hòa. Thân tứ đại (đất, nước, gió, lửa)
đâu phải tự nhiên mà hòa thuận, phần nào ít quá hoặc nhiều quá thì sẽ sinh bệnh.Tu
là tập làm chủ thân tâm. Nếu không biết nghe tiếng nói của thân làm sao điều
hòa tứ đại? Nếu không biết nghe tiếng nói của tim (tâm) thì làm sao hóa giải nội
kết? Tứ đại bất hòa, nội kết không giải thì làm sao pháp thể khinh an, thân tâm
an lạc được?
Ðồng ý bệnh khổ là một nghiệp báo, nhưng
ai đã tạo ra nghiệp đó, nếu không phải là chính ta?
Như đã nói ở vài trang trước, sau một thời
gian đi tu, tim tôi hình như khô cằn lại. Dù hai chữ từ bi tôi vẫn thường đọc,
thường nhớ nhưng nó chỉ là khái niệm tri thức. Tôi đã quán chiếu nhiều về tình
thương ngay từ lúc còn ở Trung học. Tôi thấy những đôi nam nữ yêu nhau đắm đuối
nhưng không lâu bền. Do đó mặc dù tôi cũng có bạn gái hồi còn học lớp 10 (đệ
tam) nhưng không dám yêu hết mình vì nếu yêu thật nhiều mà lỡ người kia bỏ mình
thì sao? Chắc chắn sẽ khổ nhiều. Thôi thì đành yêu nửa chừng, lỡ người kia có bỏ
thì mình cũng chỉ khổ phân nửa thôi.
Lên Ðại Học, tôi thấy các cô gái Việt Nam
con nhà nho giáo, thấm nhuần quan niệm môn đăng hộ đối, đi chơi với bạn trai chỉ
tìm những người có bằng cấp bác sĩ, kỹ sư... Như thế đâu còn tình nghĩa gì nữa!
Nếu cố gượng yêu nhau thì đó là một thứ tình yêu điều kiện, tiếng Pháp gọi là
amour conditionnel. Tôi yêu anh vì anh có bằng bác sĩ, kỹ sư, vì anh sẽ thỏa
mãn những ước muốn của tôi. Thêm quan niệm cổ hủ của nho giáo, cha mẹ đặt đâu
con ngồi đó, trai gái cưới nhau vì tiền, vì danh, vì lợi, đâu phải vì tình. Những
cuộc hôn nhân như vậy, dùng lý trí tính toán hơn thiệt, bóp chết con tim đâu
còn cơ hội cho tình thương hồn nhiên phát triển.
Ngẫm thấy tình thương không có thật, con
người sống với nhau chỉ vì ích kỷ lợi mình, nên tôi không thương nữa, nếu có
thì chỉ còn thương hại mà thôi.
Ðến khi vào Ðạo tôi được học hai chữ từ
bi. Từ là ban vui, bi là cứu khổ. Có nhiều Thầy muốn đề cao Ðạo Phật, dạy rằng
từ bi bao la rộng lớn hơn chữ bác ái của Ðạo Chúa, vì bác ái chỉ là lòng thương
người thôi, không cứu khổ rốt ráo như Ðạo Phật.
Nhưng phải có thương thì mới ban vui cứu
khổ được chứ! Cha mẹ có thương con thì mới mua đồ chơi cho con vui, thấy con buồn
khóc thì âu yếm dỗ dành.
Nếu tôi không thương bạn mà bị bắt phải
ban vui cho bạn thì hơi khó làm. Nếu có làm chăng nữa thì đó là sự ban vui cưỡng
ép, đâu phải phát xuất từ tấm lòng (quả tim). Nhiều lúc tôi rất ghét bạn nhưng
cũng phải đối xử từ bi, vì nếu không người ta sẽ bảo rằng tôi không phải là người
tu hành. Như thế là từ bi bất đắc dĩ.
Dịch từ bi là ban vui cứu khổ nghe xuôi
tai và đơn giản nhưng làm mất ý nghĩa của tình thương .
Từ bi thường đi cùng với hỷ xả. Từ bi hỷ xả
là bốn đức tính cao đẹp mà danh từ Ðạo Phật gọi là Tứ Vô Lượng Tâm. Tiếng
sanskrit là Brahma-Vihara, có nghĩa là nơi ở của Phạm thiên, hoặc Apramana là
vô lượng.
Từ (maitri): tình thương yêu.
Bi (karuna): lòng thương xót.
Hỷ (mudita): mừng lây với cái vui của kẻ
khác.
Xả (upeksha): bình đẳng đối với mọi người
dù thân hay thù.
Tại sao gọi là vô lượng? Bởi vì chúng sinh
vô lượng nên bốn đức tính này cần phải tỏa đến khắp chúng sinh. Không phải chỉ
thương yêu vài người thân trong gia đình bạn bè quyến thuộc mà phải thương yêu
tất cả chúng sinh. Không phải chỉ thương xót một nhóm người hay một quốc gia mà
phải thương xót tất cả mọi loài trên trái đất.
Trên lý thuyết thì bao la như thế, nhưng
thực tế nhiều khi một người tôi còn không thương nổi làm sao thương hết chúng
sinh. Người đầu tiên mà tôi cần thương yêu đó chính là bản thân tôi. Nếu tôi
không biết thương yêu tôi thì làm sao tôi có thể thương yêu kẻ khác được?
Thương tôi ở đây không phải là thương cái ngã (égo) của tôi, mà là thương hết
toàn thân tâm tôi (tout mon être). Không nên lầm lẫn giữa cái ngã (égo) và con
người (être). Thí dụ tôi chỉ cao 1m50, so với người khác thì hơi lùn thấp nên
tôi phải đi giầy cao gót để người ta khỏi thấy tôi lùn. Cái ngã của tôi muốn thấy
tôi cao 1m60, nhưng con người thật của tôi chỉ cao 1m50. Khi mang gót cao soi
gương, tôi thấy tôi đẹp hơn và tôi yêu tôi hơn, đó là tôi đang yêu cái ngã của
tôi. Khi bỏ giầy gót ra, nhìn gương thấy mình lùn nên tôi không yêu con người của
tôi nữa. Nếu tôi biết thương tôi thì tôi đón nhận tất cả cao thấp, đẹp xấu, đó
gọi là bình đẳng. Có nhiều người chỉ thích người khác khen mình đẹp tốt, đạo đức,
không thích nghe nói đến tính hư tật xấu của mình. Ðó là ái ngã, yêu cái ngã của
mình. Ngã là một khái niệm, ý niệm về cái ta không đúng với sự thật.
Tôi là một Thầy tu, tôi cho rằng tôi đạo đức,
thông hiểu kinh điển, tu hành thanh tịnh, v.v... Ðó là tôi đang đúc kết một cái
Ta (ngã) về tôi, cái Ta này tôi chỉ muốn thấy nó đẹp tốt và tôi từ chối ngoảnh
mặt làm ngơ với những phần xấu dở trong tôi. Như vậy tôi đâu có biết thương
toàn thể con người của tôi. Nếu tôi chỉ thấy mình là người đạo đức thông kinh
điển thì tôi đâu cần tu hành làm gì nữa và cái ngã của tôi sẽ thấy tôi xứng
đáng làm Thầy thiên hạ. Nếu tôi không thấy không thương những phần xấu dở trong
tôi thì tôi cần gì phải tu nữa vì tu là sửa tánh hư tật xấu. Chính những phần xấu
dở trong tôi, niềm đau nỗi khổ của tôi mới cần tình thương, cần được chuyển hóa
và cứu độ. Nếu tôi không biết thương yêu những phần này mà chỉ thích ngắm nghía
yêu mến cái ngã tốt đẹp của tôi thì còn gì là từ bi nữa?
Trước khi nói đến từ bi cứu độ chúng sinh,
ta cần phải xét lại xem ta đã biết thương chính con người của ta chưa? Hay là
ta chỉ biết thương cái ngã, thương những khái niệm về ngã. Cái ngã của tôi muốn
tôi có một ngôi chùa to nhất nên tôi phải hăng say vận động, tích cực gom góp
tài chánh, quên ăn bỏ ngủ đến khi nào xong ngôi chùa mới hài lòng. Như thế tôi
đâu có biết thương thân tâm của tôi cần ăn ngủ điều độ, tôi chỉ lo phục vụ cho
cái ngã của tôi thôi.
Trở về Tứ Vô Lượng Tâm, tuy có bốn nhưng
chỉ cần một là đủ, đó là tình thương (maitri). Có thương thì đương nhiên sẽ có
xót. Bạn thương con bạn thì khi nó khổ chắc chắn bạn sẽ xót xa tìm cách cứu
giúp nó. Có thương thì mới có sự thông cảm, có thông cảm thì mới có thể chia mừng
được với người khác. Bạn thương con bạn, khi thấy nó thi đậu bạn cũng mừng lây.
Có thương thì mới có thể đối xử bình đẳng được. Bởi vậy chỉ cần làm sao khơi dậy
và làm tăng trưởng tình thương thì ba đức tính kia sẽ đầy đủ.
Nhưng làm sao khơi dậy tình thương? Tôn
giáo nào cũng rao giảng tình thương, nhưng sao con người vẫn chưa biết thương
yêu nhau? Không những thế mà lại còn nhân danh tôn giáo để chém giết nhau.
Tôn giáo dạy người ta tình thương để phục
vụ tôn giáo, dạy tình thương với những giáo điều. Những vị giáo chủ ra đời để
phục vụ chúng sinh, lấy tình thương cảm hóa con người, nhưng đệ tử nối tiếp đời
sau không có khả năng thương yêu rộng lớn như các ngài nên bắt buộc phải hệ thống
hóa giáo lý và vô tình dần dần đóng khung tình thương. Nếu thương Phật thương
Chúa thì phải làm thế này thế nọ, phải hy sinh tánh mạng bảo vệ tôn giáo, nhiều
khi sùng tín quá khích sẵn sàng chém giết vì tôn giáo.
Tôn giáo ra đời để phục vụ tình thương chứ
không phải lấy tình thương để phục vụ tôn giáo.
Tình thương không thể tìm thấy trong những
buổi lễ cầu kinh, trong sự nghiên cứu kinh điển hay nghe giảng giáo lý mà tìm
thấy ngay trong sự sống, trong sự tiếp xúc hằng ngày. Tình thương cần được biểu
lộ và thể nghiệm qua ba cửa: thân, khẩu, ý và phát xuất từ tấm lòng (quả tim)
chứ không phải từ trí óc.
Tình thương mà tôi muốn nói ở đây không phải
là thứ tình yêu nam nữ, tình bạn hoặc tình thương cha mẹ con cái. Ðương nhiên
những thứ tình kia cũng là một thứ tình khá đẹp, một phần nhỏ của tình thương
và là một đề tài bất tận cho những thi sĩ, văn sĩ và nhạc sĩ.
Tôi có thể nói quanh nói quẩn về tình
thương nhưng tốt hơn hết bạn hãy theo tôi vào một công viên hoặc một khu rừng,
một cánh đồng rồi bạn hãy nằm úp mặt xuống đất, dang hai tay ra như đang ôm quả
đất và nói thầm với quả đất rằng bạn thương quả đất, biết ơn và cảm ơn quả đất.
Sau đó bạn đứng dậy đi tìm một cây nào khá to lớn, cành lá sum sê, và bạn hãy
dang hai tay ôm thân cây vào lòng, hít thở nhẹ nhàng lắng nghe tiếng nói của
cây. Nếu tâm bạn lắng và cây kia cảm nhận được tình thương của bạn nó sẽ trả lời.
Nếu tim bạn đang khô héo vì bị loài người
vô tình hất hủi từ khước, bạn hãy hướng tình thương của bạn đến thiên nhiên đi.
Thiên nhiên và vũ trụ rất cần tình thương của bạn. Tình thương vô điều kiện
(amour inconditionnel). Bạn hãy thương cỏ, thương cây, thương mây, thương gió
đi. Tình thương là một năng lượng cần được lưu chuyển và trao đổi. Xin nhớ tình
thương không phải là một khái niệm mà là một kinh nghiệm.
Ðọc đến đây bạn có thấy tôi còn là một Thầy
tu Phật Giáo chánh tông nữa không hay là đã bị nhiễm nhiều thứ "ngoại đạo"?
Nhiễm như vậy là tốt hay xấu?
Tôi xuất thân từ Ðại Thừa, tu tập thiền Tiểu
Thừa, sau theo Kim cang thừa và bây giờ tôi đang theo "Ðạo gì"? Ðạo
gì vì cho nó tên gì cũng được, cái đó không quan trọng. Quan trọng ở chỗ tôi có
sống thực được với chính mình hay không, có vượt qua được những khái niệm chấp
trước nhị biên của tôn giáo hay không?
Theo "Ðạo gì" thì không có gì tốt
hay xấu, chỉ có những kinh nghiệm khổ đau hay sung sướng để tiến hóa. Có người
cần kinh nghiệm khổ đau để trưởng thành, có người cần kinh nghiệm sung sướng để
nghỉ xả hơi trên quãng đường luân hồi bất tận.
Ðạo Chúa phát xuất từ nước Do Thái, nhưng
ngày nay dân Do Thái đâu có theo Ðạo Chúa mà theo Ðạo Do Thái (Judaisme). Ðạo
Phật bắt nguồn từ Ấn Ðộ nhưng hiện nay đa số dân Ấn theo Ấn Ðộ Giáo
(Hindouisme) chỉ có khoảng ba phần trăm theo Phật Giáo. Như vậy Ðạo nào hay nhất?
Nhiều năm về trước, khi mới ra làm giảng
sư tôi hăng say biện luận cho Ðạo Phật là Ðạo hay nhất. Ðó chỉ vì tôi chưa được
học về những Ðạo khác. Gần đây, sau khi ra thất được đọc quyển "Hành trình
về phương Ðông" do Nguyên Phong dịch, tôi như bừng tỉnh sung sướng thấy được
những chân trời mới. Thấy chân lý không phải là sở hữu của riêng một tôn giáo
nào. Chẳng cần tham vọng nói đến chân lý, tôi chỉ muốn tập sống với thương yêu,
hiểu biết, thông cảm và tha thứ.
Sau đây tôi xin trích dịch một bài trong
báo Prema số 28 nói về "Ðạo hay nhất" của Sathya Sai Baba, một đạo sư
Ấn Ðộ hiện đại.
Thuở xưa có một ông vua hiền đức, cai trị
công bằng, dân chúng trong nước sống thanh bình. Một hôm, dưới sự đề nghị của cận
thần tả hữu, vua triệu tập tất cả trưởng lão tôn túc của các tôn giáo trong nước.
Khi tất cả có mặt đầy đủ, vua nói:
- Thưa các vị giáo chủ, hôm nay ta mời các
vị tới đây bàn luận vì ta muốn chọn một Ðạo trong các Ðạo để tôn lên làm quốc
giáo. Ta đặt niềm tin nơi các vị, với sự minh triết xin các vị hội thảo bàn luận
với nhau để tìm cho ta một Ðạo nào hay nhất, đáng được hưởng ân phúc của hoàng
gia. Ðạo nào cũng được miễn sao mọi người đều đồng ý kính phục, không ai có thể
bắt bẻ hay chối cãi.
Trải qua nhiều năm mà vua vẫn chưa được trả
lời, bởi vì ai cũng cho Ðạo của mình là hay nhất, nhưng người khác lại không chịu.
Cứ thế mà tranh luận giằng co từ năm này sang năm khác. Rồi một hôm, có một hiền
giả du phương ghé qua nước của nhà vua nọ. Sau khi nghe chuyện nhà vua tìm một
Ðạo hay nhất mà chưa ra, bèn đến xin yết kiến nhà vua:
- Tâu bệ hạ, tôi có thể chỉ cho bệ hạ một
Ðạo hay nhất mà không ai có thể bắt bẻ hay chối cãi được.
Vua nghe qua rất đỗi vui mừng vì hy vọng của
mình sắp được toại nguyện sau bao năm dài trông đợi.
- Thật vậy sao! Xin hiền giả hãy nói cho
ta nghe ngay lập tức. Ta đã chờ giờ phút này quá lâu rồi!
- Xin bệ hạ kiên nhẫn một chút. Tôi sẽ tiết
lộ cho bệ hạ tên của Ðạo này ở một nơi thật yên tĩnh vắng vẻ. Ðúng trưa mai xin
hẹn bệ hạ ở bờ sông Hằng, chúng ta sẽ vượt sông qua bờ bên kia và ở đó tôi sẽ
nói cho bệ hạ biết tên của Ðạo này.
Sang ngày mai, đúng hẹn,
vua và vị hiền giả gặp nhau tại bờ sông Hằng. Vua ra lệnh cho một chiếc thuyền
đến gần để chở hai người sang bờ bên kia. Khi chiếc thuyền đến gần, vua sửa soạn
bước lên thì hiền giả chặn lại, nói rằng ông ta muốn khám xét lại chiếc thuyền
coi có tốt và bảo đảm không.
- Chiếc thuyền này không được vì có một miếng
ván bị nứt ở dưới đáy, nước có thể tràn vào. Hiền giả thưa.
Vua lại gọi chiếc thuyền khác đến. Sau khi
khám xét, vị hiền giả tìm thấy vài miếng ván bên hông thuyền hơi lỏng vì thiếu
đinh. Nhà vua lại gọi một chiếc khác đến. Sau khi khám xét kỹ càng, hiền giả lại
từ chối vì lý do nước sơn của thuyền đã bị tróc.
Cứ như thế, vua gọi hết chiếc thuyền này
đến chiếc thuyền khác, chiếc nào hiền giả cũng moi ra được khuyết điểm. Dần dần
nhà vua mất kiên nhẫn, chiều đã qua, hoàng hôn sắp đến. Sau cùng vua không nhịn
được nữa:
- Thưa hiền giả! Từ trưa tới bây giờ, ta
đã gọi biết bao nhiêu chiếc thuyền, chiếc nào ngài cũng từ chối hết. Xin hỏi
ngài, thuyền tróc sơn một chút hoặc thiếu vài ba cái đinh thì đã có sao? Nó vẫn
có thể đưa mình qua sông được kia mà! Sao
ngài lại để ý đến những khuyết điểm nhỏ nhặt như vậy.
Lúc bấy giờ vị hiền giả nhìn vua mỉm cười
nói:
- Bệ hạ đã tự mình nhận thấy rằng dù có vài
ba khuyết điểm nhưng tất cả những chiếc thuyền kia đều có thể đưa mình qua sông
được. Cũng thế, tất cả Ðạo trong nước của bệ hạ đều giống như những chiếc thuyền
kia. Ðạo nào cũng có thể đưa bệ hạ đến sự thể nhập với Thượng đế. Ði tìm khuyết
điểm của nhiều Ðạo khác nhau là một điều vô ích, thiếu sáng suốt. Bệ hạ hãy trở
về lo việc triều đình, tiếp tục lấy đức trị dân và hãy bình đẳng kính trọng các
Ðạo giáo xem Ðạo nào cũng như Ðạo của chính mình vậy.
Nghe xong, vua liền phục xuống chân vị hiền
giả đảnh lễ. Và khi ngẩng lên, vua sung sướng cảm thấy mình thực sự thấm nhuần
sự minh triết.
Hết
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...