Người bình dân đến với Phật
giáo chú trọng nhiều về hình thức nghi lễ. Qui y là để khi nào bệnh nhờ thầy cầu
an, khi chết nhờ thầy cầu siêu. Cho nên trong gia đình có đứa bé ấm đầu là chạy
thỉnh thầy trụ trì về nhà cầu an.
Nếu trong thân quyến có
tang, đến ngày tuần thất thì thỉnh thầy về nhà tụng kinh suốt đêm. Vào chùa, bất
cứ bàn thờ Phật hay bàn thờ vong đều hì hục lễ bái và lâm râm khấn nguyện. Cứ
tin rằng lạy càng nhiều thì phước càng lớn....
Đi chùa những ngày sóc,
ngày vọng để cúng kính lễ bái, ngoài ra không cần biết gì nữa. Họ quan niệm tu
hành rất giản dị, ai thường cúng kính là người đó tu nhiều. Ông thầy trụ trì
nào thường tổ chức cầu an, cầu siêu, cúng cô hồn, cúng sao... là ông thầy ấy tu
hành tinh tấn. Người phật tử nào bỏ tiền nhiều, xin lễ này, tổ chức lễ nọ cho
là người phật tử thuần thành chân chính. Xuất tiền in kinh ấn tống thì chọn
ròng rặt các nghi thức cầu an, cầu siêu, kinh Tam Bảo, Địa Tạng v.v... Nếu ai
giới thiệu ấn tống quyển “Lịch sử Phật giáo” cần thiết hoặc “Những bài giảng”
có giá trị thì họ lắc đầu từ chối, bảo rằng: “Ấn tống sách đó thì ít phước!” Bởi
nhận định này nên Phật giáo càng ngày càng đi sâu vào hình thức nghi lễ....
TIN PHẬT NHƯ VỊ THẦN LINH
Người bình dân đến với đức
Phật để cầu ban phước, che chở, ủng hộ hơn là tìm giác ngộ. Người ta nghĩ rằng:
có tai nạn cầu Phật, Phật sẽ cứu độ cho. Vì vậy ngày bình không cần đến chùa,
chờ khi cần cầu xin một việc gì mới mang hương đăng đến chùa cầu nguyện. Thật
là:
Hữu tật thì bái tứ phương,
Vô tật đồng hương chẳng mất.
hoặc:
Nghiêng vai ngửa vái Phật
trời,
Đương cơn hoạn nạn, độ người
trầm luân.
Quan niệm Phật như vị thần
linh chỉ coi việc ban phước, giáng họa. Vì vậy, người ta không ngại gặp Phật
thì cúng, gặp thần thì lạy, gặp ma quỉ thì cầu xin. Bởi trên cương vị ban phước
giáng họa, họ không phân biệt đâu trọng đâu khinh, miễn vị nào đem lại được những
điều cầu nguyện của họ là linh thiêng, bằng không thì hết linh ứng. Hết linh ứng
thì họ bỏ không theo nữa, dù Phật cũng thế. Do đó, trong dân gian những cốt Cô,
cốt Cậu đều được phật tử tín ngưỡng qui y. Vì những Cô, Cậu ấy đã báo cho họ biết
những tai nạn sắp đến và đã cho bùa chú để họ dán trong nhà khiến con cháu mạnh
giỏi, làm ăn phát đạt. Niềm tin Phật như vậy, họ rất dễ tin mà cũng rất dễ bỏ,
nếu một sở nguyện được thành, hoặc không toại nguyện....
Có những người đến với Phật,
không do hiểu Phật pháp mà nhờ ông Đồng, bà Cốt mách phải qui y Phật sẽ khỏi
tai nạn chẳng hạn, họ liền đến chùa xin qui y. Hoặc có người do xin xăm hay bói
quẻ, trong xăm quẻ dạy theo Phật hay thờ Phật thì mọi sự an lành..., họ liền
phát nguyện qui y Phật. Hoặc vị trụ trì có học bùa chú trừ ma ếm quỉ, người có
con bệnh đến nhờ thầy trị chữa, nếu con lành bệnh liền xin qui y Phật.....
Căn cứ lý nhân quả, mình
gây nhân thì mình chịu quả, dù cha con cũng không thay thế nhau được, huống là
kẻ khác. Nhân đã gây thì quả phải chịu; nguyện cầu, cúng tế, làm phước... của
người khác không liên hệ gì đến người này cả. Như A ăn thì A no, không thể A ăn
mà B no được. Vì thế, những người khuyên cầu nguyện, cúng dường, bố thí... chỉ
gây thêm sự mê tín dị đoan, trong Phật giáo không thừa nhận điều đó. Bởi nhận
xét trên, nên giới trí thức cực lực phản đối việc cúng dường, cầu nguyện...,
cho hành động như thế là sai Phật pháp, là bị nhóm người tu lợi dụng.....
Phật giáo nhằm vào tự lực,
mỗi người phải tự độ lấy, đừng ỷ lại vào ai cả. Dù đức Phật cũng không thể cứu
độ chúng ta được, nếu chúng ta không tu. Như vậy, làm gì có do tụng kinh mà độ
được các vong linh. Nếu người chủ trương tụng kinh cầu siêu, độ được các vong
linh, đó là tà đạo chớ không phải Phật giáo. Bởi y cứ những điểm giáo lý như
trên, giới trí thức nghiên cứu Phật giáo rất bất bình việc thực hành tu tập của
tín đồ và chư tăng hiện tại. Cho rằng tín đồ mù quáng đi sai lạc, chư tăng lợi
dụng để no cơm ấm áo.....
(Trích Phật giáo
trong mạch sống dân tộc - TS Thanh Từ)
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...