Những Bằng Chứng Về Tái
Sinh Qua Những Trường Hợp Có Thật Đã Xảy Ra Khắp Nơi Trên Thế Giới:
Lịch sử về nguồn gốc của
thuyết tái sanh thật quá lâu đời, có thể nói thuyết này xuất hiện từ khởi thủy
của nền văn minh nhân loại, như Đại Đức Dhammananda đã phát biểu, tuy nhiên trước
đây thuyết này vẫn bị nhiều người cho rằng đó chỉ là một thuyết hoàn toàn có
tính cách tôn giáo mà thôi.
Mãi đến sau này, các nhà nghiên cứu, nhất là các nhà khoa học đã bắt đầu đi sâu vào lãnh vực tìm hiểu vấn đề tái sanh. Không ai tưởng tượng được một vấn đề lúc đầu được xem là có tính cách tôn giáo, phiêu linh và có khi còn gọi là mơ hồ nữa lại đã và đang được vô số các nhà khoa học ở thế kỷ thứ 20 đổ xô vào nghiên cứu, phần lớn họ là những nhà vật lý, những giáo sư, những bác sĩ, những nhà báo... Họ làm việc hết sức vô tư mà chủ đích là mong tìm được lời giải đáp cho vấn đề, vì khắp nơi trên thế giới (chớ không riêng gì một nơi nào) hiện tượng luân hồi tái sanh mãi mãi diễn ra như luôn luôn thách thức và khêu gợi trí tò mò của họ.
Mãi đến sau này, các nhà nghiên cứu, nhất là các nhà khoa học đã bắt đầu đi sâu vào lãnh vực tìm hiểu vấn đề tái sanh. Không ai tưởng tượng được một vấn đề lúc đầu được xem là có tính cách tôn giáo, phiêu linh và có khi còn gọi là mơ hồ nữa lại đã và đang được vô số các nhà khoa học ở thế kỷ thứ 20 đổ xô vào nghiên cứu, phần lớn họ là những nhà vật lý, những giáo sư, những bác sĩ, những nhà báo... Họ làm việc hết sức vô tư mà chủ đích là mong tìm được lời giải đáp cho vấn đề, vì khắp nơi trên thế giới (chớ không riêng gì một nơi nào) hiện tượng luân hồi tái sanh mãi mãi diễn ra như luôn luôn thách thức và khêu gợi trí tò mò của họ.
Trường Hợp Của Chính Nhà
Nghiên Cứu Hiện Tượng Tái Sinh Ruth Simmons.
Paris Match là tạp chí có
tiếng không những ở nước Pháp mà còn khắp thế giới đã đăng tải câu chuyện lạ kỳ
có thật của cô Ruth Simmons là nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi tái sanh.
Cô đã nhờ nhà thôi miên lỗi lạc là Morey Bernstein giúp lại tiền kiếp của mình.
Sau những lần được đưa vào giấc ngủ thôi miên cô Ruth Simmons đã thấy rõ từng
giai đoạn thời gian mà cô đã trải qua nhất là từ năm 1 tuổi đến năm 10 tuổi. Cô
mô tả tiền kiếp của mình một cách chi tiết. Cô cho biết, kiếp trước mình là một
cô gái trẻ bình thường thuộc dòng họ Murphy người Ái Nhĩ Lan. Năm 1898 cô lấy
chồng. Người chồng tên là Brian Mac Carthy một giáo sư Luật. Nguyên quán của cô
là Cork. Năm 1921 cô qua đời nhưng năm 1923 cô mới lại tái sanh vào làm người
con gái thuộc dòng họ Simmons với tên là Ruth tại Hoa Kỳ. Khi được hỏi tại sao
cô qua đời năm 1921 nhưng tái sinh vào năm 1923 thì cô Ruth cho biết như sau:
"Một người chết đi không chắc là được tái sinh liền mà đôi khi còn trải
qua nhiều năm chờ đợi, điều kiện thuận hợp cho sự đầu thai của mỗi linh hồn, vì
thế mà đôi khi có sự mất liên tục. Cô còn cho biết: Sau khi đã được an táng,
tôi chưa thể đầu thai trở lại nên phải ở tình trạng dật dờ vô định, trạng thái
mà con người thường gọi là ma".
Ruth Simmons về sau nổi tiếng,
các nước Âu Châu, Mỹ Châu rất thích đọc sách của người đàn bà này vì chính cô
là người vừa nghiên cứu hiện tượng tâm linh siêu hình, vừa là người có kinh
nghiệm về những gì liên quan với lãnh vực ấy.
Trường Hợp Người Con Gái
Con Ông Cả Hiêu Ở Cà Mâu (Việt Nam).
Thượng Tọa Thích Thiện Hoa
đã nêu lên một số bằng chứng về hiện tượng luân hồi, những bằng chứng này được
ghi lại trong cuốn Phật học Phổ Thông, xuất bản tại Việt Nam vào cuối năm 1990.
Sau đây là một trong những bằng chứng ấy:
Câu chuyện có thật này xảy
ra tại làng Tân Việt ở Cà Mâu (vùng Đầm Dơi). Ở đây có một gia đình gồm hai vợ
chồng và 3 người con. Người cha trong gia đình này là ông Cả Hiêu. Cô con gái
trong gia đình được ông Hiêu cưng chìu nhưng trứng mỏng, nhưng không may, cô bị
bệnh và qua đời lúc 19 tuổi. Cả nhà ai cũng đau buồn, thương xót, ông Cả Hiêu
thì như điên như dại.
Câu chuyện không chấm dứt ở
sự qua đời của cô gái mà lại là chuyện bắt đầu vì do sự trùng hợp nào đó, (mà
sau này người trong hai vùng này mới tìm thấy thêm chi tiết), ở làn Tân Việt
khoảng 100 cây số là làng Vĩnh Mỹ Bạc Liêu cũng có một cô gái bị bệnh (cùng thời
gian với cô con gái ông Cả Hiêu) và qua đời. Người nhà khóc lóc lo việc tẩm liệm
thì bất ngờ ngày hôm sau cô gái sống lại, làm mọi người vừa mừng vừa sợ, cô gái
tự nhiên mạnh khỏe, như không có gì gọi là đau ốm bệnh hoạn cả. Điều lạ lùng là
từ khi sống lại, cô gái này cứ một mực đòi người trong gia đình đưa cô đến nhà
ông Cả Hiêu. Mọi người trong nhà đều hết sức ngạc nhiên vì không biết ông Cả
Hiêu là ai. Khi hỏi cô gái thì cô cho biết cha của cô chính là ông Cả Hiêu, người
làng Tân Việt. Người nhà nghĩ rằng cô gái có lẽ bị ma nhập, quỉ ám, nên lo sợ,
đi tìm thầy về cúng và trừ tà. Nhưng cô gái vẫn khăng khăng đòi đi gặp cha mình
và bảo rằng cô biết đường đến nhà ông Cả Hiêu. Cô mô tả đường đi, tả ngôi làng,
tả cái nhà, số nhà từng chi tiết và kể về những người nhà ông Cả Hiêu nữa. Cô
gái bảo ông bà Cả Hiêu là cha mẹ ruột của mình, cuối cùng cha mẹ cô gái buộc
lòng phải cùng đi theo chuyến xe đò đến làng Tân Việt để tìm hiểu thực hư. Khi
đến bến xe, mọi người xuống xe còn đang bở ngỡ không biết đi theo hướng nào để
về nhà ông Cả Hiêu thì cô gái nói: "Đừng có ngại, để con dẫn đường
cho". Thế rồi khi đến cổng nhà ông Cả Hiêu, cô gái tỏ vẻ mừng rỡ vô cùng
và chạy nhanh vào nhà. Cô gái chạy lại ôm chầm lấy ông Cả Hiêu vừa khóc vừa
nói: "Ba ơi, con đây ba ơi!". Hai vợ chồng ông Cả Hiêu còn đang ngơ
ngác không hiểu chuyện gì xảy ra thì vừa lúc cha mẹ cô gái bước vào nhà kể lại
chi tiết câu chuyện cho vợ chồng ông Cả Hiêu nghe. Ông Cả Hiêu lấy làm lạ, cũng
kể lại chuyện con gái mình bị bệnh qua đời cho cha mẹ cô gái nghe. Ông còn chỉ
tay lên bàn thờ có đặt tấm ảnh của cô gái con ông. Trong khi đó cô gái mới đến
cứ đi lại trong nhà tự nhiên như là người đã ở đó lâu lắm rồi. Câu chuyện đã đến
hồi kết thúc khi sự kiện đã rõ ràng; cô gái nhất quyết ông bà Cả Hiêu là cha mẹ
mình và ông bà Cả Hiêu cũng chấp nhận điều đó vì cô gái nói rõ những chi tiết
mà ngoài con gái ông Cả Hiêu ra khó ai có thể biết rõ chuyện gia đình ông bà.
Thế là hai gia đình kết thân với nhau. Dân chúng hai vùng Cà Mâu, Bạc Liêu biết
được một chuyện lạ lùng hãn hữu trên thế gian, họ bảo cô gái ấy có hồn là con
gái của ông bà người làng Tân Việt nhưng thân xác lại là con của ông bà người
làng Vĩnh Mỹ.
Trường Hợp Của Nhà Báo Ray
Bryant (Anh Quốc).
Trong tạp chí Yêu (phát
hành vào hạ tuần tháng 8 năm 1992 tại Hoa Kỳ) có đăng tải một câu chuyện có thật
về những bằng chứng của tiền kiếp. Theo đó thì Ray Bryant là nhà báo người Anh,
44 tuổi tự nhiên nhớ lại tiền kiếp của mình rất rõ. Theo Ray Bryant thì khoảng
năm 1855, anh ta là một trung sĩ tên là Reuben Stafford và đã tham dự nhiều trận
đánh kinh hồn trong đó có trận Crimée vô cùng khủng khiếp. Đó là trận chiến dữ
dội nhất giữa quân Nga và quân Anh, Pháp, Thổ. Trong trận này quân Anh bị quân
Nga tiêu diệt 700 người. Trường hợp nhà báo Anh Ray Bryant nhớ lại tiền kiếp đã
là một thời làm xôn xao nước Anh.
Lúc bấy giờ chính bộ quốc
phòng Anh phải nhờ đến đại tá John Bird đích thân tìm hiểu sự thật. Đại tá này
đã cùng với một số sử gia lục lọi các tư liệu trong nha văn khố, quốc phòng bảo
tàng viện chiến tranh, các thư viện quốc gia, các tài liệu xưa và đã đi đến kết
luận là câu chuyện không phải bịa đặt vì họ đã tìm thấy tên của một trung sĩ
tên là Reuben Stafford. Điều chính xác là qua giấc ngủ thôi miên, nhà báo Anh
này còn cho biết tiền kiếp của mình là trung sĩ Stafford, đã chết ở Sebastopol
thì trong tài liệu tìm được tại bảo tàng viện chiến tranh Anh quốc cũng có sự
kiện này. Đó là chưa kể những trường hợp lạ lùng ăn khớp với nhau về những gì
mà nhà báo Anh này đã mô tả vào thời đó: nào là chuyện gia đình, đời sống trong
quân đội, tên người chỉ huy, các loại súng, lương tiền và cả huy chương nữa.
Trường Hợp Của Bé Gái
Jimmy Ở Canada.
Jimmy là cháu của bà Emma
Michell 82 tuổi sống ở British Columbia. Bà này đã kể lại cho nhà nghiên cứu về
sự chết là Jeffrey Iverson câu chuyện dị kỳ có thật sau đây:
Một hôm, Jimmy đang ngồi
chơi trong nhà thì bỗng nhiên nghe tiếng chuông nhà thờ rung. Bé hỏi rằng: tại
sao không có gì mà chuông nhà thờ đổ, thì bà cho biết: Hôm nay có đám ma của một
người địa phương đã qua đời. Bé Jimmy bỗng đứng dậy nhìn qua cửa sổ và nói:
Bà biết không? Chính người
chết ấy đã thuê người đánh đập con và liệng xác con xuống sông đó! Bà Emma ngạc
nhiên về câu nói của đứa cháu gái, nên hỏi:
Tại sao con lại thốt lên
những lời kỳ dị ấy? Bé Jimmy ngồi lên ghế rồi nói như phân trần:
Để con kể cho bà nghe về
chuyện một người cậu, ông cậu này là người đã bị người ta đánh đập dữ dội đến
chết và thân xác ông đã được tìm thấy ở sông Bulkeley. Khi người này bị đánh chết
và bị liệng xuống sông thì lúc đó con chưa ra đời. Nhưng giờ đây con biết được
mọi chuyện là do bởi con chính là người cậu ấy!
Bà Emma nghe Jimmy nói thì
vô cùng kinh ngạc và run sợ vì bà nghĩ là cháu bà bị ma nhập. Hơn nữa, quả thật
trong gia đình bà có người đã bị kẻ lạ mặt nào đó đánh chết liệng xuống sông và
lúc đó, đúng như lời cháu bà nói thì Jimmy chưa chào đời.
Điều cần lưu ý là gia đình
dòng dõi của bà Emma Michell là một gia đình kiểu mẫu, nghiêm túc ở vùng Bắc Mỹ
Châu, họ tin tưởng rằng con người khi chết vẫn có thể lại tái sinh và sự tái
sinh ấy thường quay lại trong gia đình dòng họ.
Trường Hợp Thai Nhi Có Dấu
Tích Luân Hồi.
Câu chuyện có thật này xảy
ra trong gia đình Traveed ở nước Pháp. gia đình bà Traveed rất đau buồn vì sinh
con hai lần nhưng lần nào đứa con mới ra đời được vài giờ cũng đều chết cả. Hai
vợ chồng rất buồn. Họ ngày đêm cầu nguyện Chúa. May mắn là chưa đầy một năm sau
khi đứa con thứ hai qua đời, bà Traveed lại chuyển bụng.Đây là đứa con thứ ba. Cả
hai vợ chồng đều hồi hộp. Họ chẳng mong chi con trai hay con gái, con nào cũng
được, miễn rằng đứa bé ra đời mạnh khoẻ sống lâu là hai vợ chồng vui sướng rồi.Quả
thật trời không phụ lòng họ, đứa con sinh ra lần này trông vui vẻ, khoẻ mạnh.Hai
vợ chồng đặt tên cho con là Paul Traveed. Điều kỳ lạ chỉ có bà Traveed để ý theo
dõi là trên ngực Paulcó cái vết giống cái vết mà đứa cun thứ hai của bà lúc
chào đời cũng có. Thật ra lúc đó bà có làm một dấu chấm màu xanh như vết chàm
lên ngực đứa con đã chết này vì trong thâm tâm bà bà nghĩ rằng đứa con thứ hai
này chết đi thì đứa con kế tiếp cũng có thể là nó sẽ lại ra đời. Bà Travee làm dấu
ấn như vậy để xem thử lần sinh thứ ba hài nhi ra đời có còn mang dấu vết ấy
không, nếu không thì điều bà nghĩ không đúng. Giờ đây khi thấy dấu chấm màu
xanh hiện rõ trên ngực đứa con thứ ba thì bà Travee vô cùng lo lắng vội vã gọi
chồng và nói:
- Anh ơi, xem này, thằng
bé cũng có dấu chấm xanh ở ngực giống cái dấu mà em đã làm lên ngực đứa con bất
hạnh thứ hai của mình. Vậy cái dấu chấm này là gì? Có phải là dấu trước đây
không? Hay là... Paull chính là đứa con thứ hai của mình? Ngoài ra thằng Paull
lại còn có thêm một vết thẹo dài ở bắp đùi mà lúc sinh ra mình đã thấy đó. Người
chồng nghe vợ nói thì chạy lại nhìn chăm chăm vào ngực đứa bé. Trên bộ ngực trắng
hồng mơn mởn của Paull rõ ràng có một dấu chấm màu xanh.
Hai vợ chồng bà Traveed từ
đó sống trong lo âu hồi hộp, họ chờ đợi từng giờ từng phút sự ra đi của đứa
con. Nhưng thế rồi suốt trong 12 năm dài đăng đẳng, Paull vẫn khỏe mạnh, ăn ngủ,
học hành đi chơi bình thường như bao đứa trẻ khác. Điều kỳ lạ là mặc dầu còn trẻ
con nhưng dáng dấp, cử chỉ lời nói của Paull lại giống như người lớn. Thỉnh thoảng
ngồi trước mặt mọi người trong gia đình, Paull thường phát biểu những câu mà
không ai có thể ngờ được rằng ở tuổi nó lại có những câu nói như thế.
Một hôm bé Paul hỏi mẹ:
- Mẹ à! Bên cạnh cửa ngõ
vườn nhà mình trước đây có một cây lớn tốt tươi nhưng nay lại không còn. Vậy ai
đã chặt nó vậy?
Bà Traveed vô cùng kinh ngạc
khi nghe con nói câu đó vì thật sự cái cây con bà nhắc đến đã bị chồng bà đốn
ngã trước khi Paull ra đời. Tuy vậy bà Traveed cũng lấy làm tò mò, bà hỏi
Paull:
- Tại sao con lại biết cây
này vì lúc ba con đốn ngả nó thì con chưa ra đời mà?
Paull nhăn mặt tỏ vẻ bực tức
và nói:
- Tại sao ba lại đốn cây ấy
đi?
Bà Traveed giải thích:
- À! Là tại vì cây này dễ
trở thành chỗ thuận tiện cho kẻ trộm leo vô nhà.
Paull dằn từng tiếng rõ
ràng:
- Trong số những đứa trộm ấy
có đứa bị ba đâm chết mẹ có nhớ vụ đó không? Đứa bị đâm chết ấy tên là
Jainqeville.
Bà Traveed vừa kinh ngạc vừa
lo sợ. Hai tay bà ôm lấy ngực mồm há hốc, bà hỏi Paull dồn dập.
- Này con! Ai đã chỉ vẽ lời
nói bậy bạ ấy cho con! Ai? nói cho mẹ biết đi...
Paull nói như phân bua:
- Việc này đã xảy ra lâu rồi
má à! Con biết rõ điều này. Không ai kể cho con nghe hết. Con đã biết rõ sự việc
là ba dùng dao đâm Jainquevill chết gục nơi gốc cây ấy. Jainquevill có một vết
sẹo ở bắp đùi.
Bà Traveed quá sợ hãi nên
dùng tay che miệng con lại và nói:
- Thôi đi! Con nói nghe
ghê quá! Ai dạy con nói thế? Từ nay con đừng nói bậy nữa nhé!
Paull vẫn tiếp tục nói có
vẻ hằn học:
- Con phải nói: vì đó là sự
thật. Con cũng có vết sẹo ở bắp đùi mà ba má thường thấy đó.
Sau đó, Paull đợi người
cha đi làm về và cũng nói tất cả những lời mà nó đã nói với mẹ mình. Tự nhiên
ông Traveed lo sợ thấy rõ. Ông có cảm tưởng như tên cướp Jainquville đã nhập
vào thân xác Paull để nói chuyện với ông. Từ đó ông ít khi tiếp xúc với đứa
con. Trong khi đó Paull thường tỏ ra lầm lì. Thường ngày nó chỉ loay hoay chơi
với một con dao nó mua ở đâu đó. Hết mài lại ngắm nghía. Ông bà Traceed thấy
con như vậy càng thêm lo sợ.
Thế rồi một hôm, Paull từ
đâu không biết chạy bay về nhà. Bà Traveed kinh ngạc kêu lên: Paull gì thế con,
có việc gì xảy ra thế? Paull vừa khóc vừa đưa cho mẹ xem tờ giấy nhỏ có chữ viết.
Trong thư lời lẽ của ông Traveed thuê người đầu bếp nơi trường học tìm cách giết
Paull để phi tang mọi chuyện.
Bà Traveed thấy rõ ràng chữ
của chồng mình viết chớ không ai xa lạ. Bà lo sợ quá nói với Paull: Trời ơi! có
chuyện gì xảy ra quá ghê gớm lạ lùng như vậy? Vậy con cứ ở đây với mẹ, đừng đi
đâu cả. Paull vừa khóc vừa nằm xuống chiếc ghế trường kỷ cạnh giường mẹ, Sáng
hôm sau, trời còn tinh mơ, bà Traveed tự nhiên choàng tỉnh dậy, bà không thấy
Paull đâu. Hoảng hốt, bà xô cửa đi tìm, căn nhà vắng lặng, bà cất tiếng gọi, chỉ
có người giúp việc chạy lên. Không nghe tiếng Paull cũng không như ông Traveed
lên tiếng trả lời. Bà Traveed và người giúp việc liền phá cửa buồng của Paull.
Cánh cửa mở toang, một cảnh tượng rùng rợn hiện ra: Ông Traveed và thằng Paull
đều nằm chết dưới sàn nhà, máu lênh láng. Nơi ngược ông Traveed, con dao mà thằng
Paull thường mân mê hàng ngày cắm sâu đến tận cán.
Câu chuyện có thật trên đã
được tờ báo của Pháp tên là Revue des Deux Mondes đăng tải vào năm 1989 và mới
đây được tác giả Thiện Nhựt lược thuật lại trong một đặc san Phật Đản xuất bản
tại Hoa Kỳ.
Trường Hợp Cậu Bé George
Fild.
George Fild là một cậu bé
Hoa Kỳ. Năm 15 tuổi, Fild bắt đầu có những cảm giác và hình ảnh lạ lùng chợt ẩn
chợt hiện trong trí và luôn luôn cậu tỏ ra áy náy, thắc mắc, băn khoăn về những
gì giống như mình đang rơi vào mộng ảo. Lúc bấy giờ có nhà thôi miên nổi danh
tên là Williams. Ông này yêu cầu được giúp George Gild khơi dậy các hình ảnh từ
tiền kiếp. Qua giấc ngủ thôi miên, George Fild đã kể lại rất rành rọt những gì
của tiền kiếp mình như sau:
- Lúc bấy giờ tôi là người
dân vùng Bắc Carolina tôi là một nhà nông bận rộn đủ mọi thứ việc đồng áng.
Trên tôi lúc đó là Jonathan Powell, cuộc sống thật buồn bã vô vị. Tôi sống lẻ
loi cô độc như kẻ lạc vào chốn hoang vu. Tôi nhớ rõ mình sinh vào năm 1832 tại
thị trấn Jefferson và 31 năm sau tức là vào 1863 trong cuộc nội chiến, tôi vào
quân ngũ và bị giết chết khi một đám lính nổi loạn tôi nhớ mãi những nơi tôi đã
đi qua và nhất là vùng đồng cỏ Bắc Carolina hiu quạnh.
Nhà thôi miên Williams đã kiểm
soát lại các tài liệu, hồ sơ, giấy tờ ở các thư viện, các văn khố, các vùng
liên quan đến Jonathan Powell và biết được rằng những gì cậu bé mô tả đều đúng
cả. Điều kiểm chứng lại rõ ràng hơn, nhà thôi minh đã cùng George Fild đến ngay
thị trấn Jefferson tại đây, trước sự hiện diện của nhà Địa phương chí trong thị
trấn, cậu bé George Fild lại được nhà thôi miên đưa vào giấc ngủ thôi miên lần
nữa và lần này cậu bé còn nêu tên cả những địa danh trong thị trấn cùng những
người có tiếng ở đó, đặc biệt, cậu bé còn mô tả quang cảnh và nhà cửa đường sá
của thị trấn rõ ràng. Tất cả những gì George đã kể đều đã được nhà Địa phương
chí hiện diện xác nhận là đúng. Ngoài ra cậu bé còn cho biết danh tánh của bà nội
Jonathan là Mary Powell. Trong tài liệu còn lưu trữ tại nhà văn khố thì Mary
Powell là một người đàn bà đã đứng tên mua một khu đất ở vùng Jefferson. Hồ sơ
ghi năm 1803. Điểm đáng quan tâm là về sau, cậu bé George Fild có nhận được một
lá thư của người trong dòng họ Jonathan Powell gởi đến kể lại rất chi tiết về
cuộc đời sự nghiệp của Jonathan Powell. Trong thư có đoạn viết như sau:
"Các tư liệu này được lưu giữ cẩn thận trong gia phả dòng họ tôi. Theo
những gì ghi trong gia phả thì ông Jonathan chính là ông của tôi và ông bị những
người lính Mỹ giết năm 1963."
Trường Hợp Cậu Bé Nicola
Khoảng năm 1800 tại thành
phố Haworth Anh Quốc, có một gia đình mà người chồng tên là Benson. Hai vợ chồng
Benson có hai người con gái và một người con trai. Người con trai tên là John
Henry. Một hôm John Henry chạy băng qua đường rầy xe lửa thì bị xe lửa cán chết
thê thảm. Sự kiện đáng thương tâm này rồi cũng theo thời gian mà xóa mờ dần.
Nhưng không lâu sau đó, một gia đình ở vùng kế cận HaWorth có người đàn bà tên
là Kathleen Wheaters, bà bày sinh hạ được một bé gái đặt tên là Nicola. Bé
Nicola sống bình thường như bao nhiêu bé khác nhưng điều lạ lùng là lúc lên 5
tuổi. Nicola có cử chỉ và lời nói chững chạc giống như người lớn. Vào một buổi
trưa, bé Nicola đang ngồi chơi với mẹ bỗng nhiên bé hỏi một câu:
- Mẹ ơi! Con đâu phải là
con gái? Con là con trai mà? Trước đây con là John Henry, mẹ con là bà Benson rất
mộ đạo và hay đi nhà thờ. Ba con là thợ đường rầy xe lửa. Con bị xe lưu cán chết
và bây giờ con trở thành bé Nicola của mẹ. Tại sao mẹ không dẫn con đến nơi mà
trước đây con đã ở. Con biết ngôi nhà đó mà.
Bà Kathleen nghe con nói rất
kinh ngạc cứ tưởng Nicola nói mê sảng nên sợ lắm. Nhưng Nicola cứ thỉnh thoảng
lại nêu lên câu hỏi tương tự khiến bà Kathleen quyết định tìm thử thật hư. Hai
tháng sau, bà cùng Nicola đến Haworth để dò la tin tức về gia đình nhà Benson.
May mắn là bà Kathleen có quen biết với một vị chức sắc trong Đạo Cơ Đốc nên nhờ
nhà thờ chính cổ xưa ở Harworth lục lại hồ sơ và biết được gia đình Benson có
ba người con nhưng có một người con bị tai nạn xe lửa mà qua đời. Người con ấy
là John Henry.
Trường Hợp Của Bé Gái
Manju Sharma
Đây là một trường hợp tái
sinh khá lạ lùng. Câu chuyện có thật này do bác sĩ Pasricha thuật lại như sau:
Manju Sharma là một cô gái
Ấn Độ, sinh ra và lớn lên ở tại thành phố Brindevan (phía Bắc Ấn Độ). Manju
Sharma thường nhớ lại quá khứ. Nhưng ở đây, Manju không phải nhớ lại quá khứ đời
mình mà là những gì đã xảy ra ở kiếp trước. Manju kể như sau:
"Tôi cứ nhớ hoài hình
ảnh mình bị rơi xuống giếng nước tại làng Chaumula. Lúc tôi vừa đúng 10 tuổi hồi
đó tôi tên là Krishna chớ không phải là Manju Sharma như bây giờ. Tôi đã tái
sinh trở lại.
Tôi đã gặp chú tôi, người
chú tiền kiếp tên là Tanji. Tôi nhận ra người chú ấy ngay và đã nói chuyện rất
lâu với chú ấy mặc dầu chú Tanji không nhận ra tôi là cháu của chú trước đây.
Khi tôi nhắc đến Krishna thì chú nhớ và tỏ dấu tiếng thương vô cùng. Tuy không
tin chuyện tôi là Krishna tái sinh nhưng chú tôi đã đồng ý để người mẹ tiền kiếp
của tôi gặp tôi. Bà ta đến, tôi ngồi bên bà và kể lại những nỗi bất hạnh đã đến
trong đời tôi cho bà nghe. Bà xoa đầu tôi và tỏ vẻ thương yêu tôi nhiều khi
nghe tôi nhắc đến Kishna. Tôi ngỏ ý muốn theo bà, người mà tôi khẳng định là mẹ
tiền kiếp của tôi. Ý muốn của tôi được thỏa mãn và tôi đã trải qua mười năm sống
với ba má tiền kiếp tôi. Về phần ông bà thì sẵn lòng đón tôi về sống chung vì
hai người luôn luôn nhìn tôi qua hình ảnh của đứa con thân yêu bị chết sớm.
Bác sĩ Pasricha và một số
nhà khoa học Ấn Độ đã đến gặp Manju lúc đó Manju đã là một người đàn bà có chồng
và đã có 2 con. Khi hỏi người cha tiền kiếp về cảm tưởng của ông đối với Manju
ra sao thì ông này cho biết như sau:
- Chúng tôi gọi Manju là
Kishna Devi. Chúng tôi tin tưởng rằng đó là con gái của chúng tôi. Các con của
Manju gọi tôi là ông ngoại và vợ tôi là bà ngoại. Chúng tôi sống với nhau rất
thuận hòa.
Theo bác sĩ Pasricha thì
Manju là con gái trong một gia đình người Bà La Môn (Brahmin) là một người đẳng
cấp rất cao đối với người Hindu. Đây là một tập cấp ở Ấn Độ và một thời vượt
lên trên các tập cấp khác (theo Will Durang) trong xã hội Ấn. Nhưng Manju lại
chịu đến sống với gia đình thuộc đẳng cấp thấp hơn rất nhiều. Như vậy không thể
nào nghĩ rằng trường hợp Mánju là trường hợp tạo dựng ra sự kiện luân hồi tái
sinh để mưu cầu lợi nhuận hay sung sướng cho đời mình được vì thông thường
nghèo thường muốn tìm đến nơi người giàu. Ở đây, trường hợp của Manju thì ngược
lại.
Trường Hợp Tái Sinh Của
Sudeih Babu
Tại thành phố Baranes
(Balanại) thuộc xứ Ấn Độ (lúc bấy giờ Ấn Độ là thuộc địa của người Anh) có nhiều
nhà chiêm tinh, nhiều Đạo sĩ nhiều vị chân tu nhưng nổi tiếng nhất về lãnh vực
chiêm tinh, ngoài Bhrigu ra, kế đến phải kể Sudeih Babu. Sudeih Babu là một nhà
hiền triết cũng là một nhà chiêm tinh lừng danh của Ấn Độ. Dân chúng Ấn, nhất
là người Ấn Độ giáo đã xem Sudeih Babu như một vị Thánh Sống. Ông thường ngày
xem sách cổ và tĩnh tọa trong một ngôi nhà nhiều phòng với hàng vạn cuốn sách cổ
bí truyền. Chính vào thời đó một phái đoàn khoa học gia người Anh Gồm các giáo
sư tiến sĩ đến xin gặp ông và đã nghe ông thuyết giảng về mọi vấn đề thuộc lãnh
vực khoa học, kỹ thuật, sinh vật tự nhiên và các hiện tượng siêu nhiên, chính
Sudeih Babu đã tiên đoán rằng từ năm 1957 trở đi thế giới vẫn tưởng rằng chủ
nghĩa duy vật sẽ phát triển bành trướng khắp nơi. Nhưng sự thật, thuyết duy vật
chỉ cực thịnh vào thời kỳ đầu và giữa của thế kỷ 20 mà thôi. Dần dần phong Duy
tâm lại bắt đầu nở rộ hơn và đến cuối thế kỷ 20, chủ nghĩa Duy vật sẽ hoàn toàn
sụp đổ khi đó những gì thuộc về Tâm linh sẽ nẩy nở và phát triển nhanh. Nhiều
nhà khoa học đã quay về nghiên cứu các hiện tượng siêu hình với tinh thần hăng
say thẳng thắn vì theo Sudeih Babu thì những nhà khoa học này chính là những hạt
giống đang được gieo để sau nảy mầm đơm hoa kết quả phát tán khắp thế giới.
Cũng theo nhà chiêm tinh này thì trong vòng 25 năm cuối thế kỷ 20 (kể từ năm
1975) thế giới sẽ có nhiều thay đổi lớn.
Sudeih Babu ngoài tài tiên
tri ông còn là người cứu giúp vô số những người cùng khổ ở Ấn Độ bằng nhiều
phương các khác nhau theo những tài liệu và những lời truyền khẩu thì Sudeih
Babu đã từng làm nhiều phép lạ. Ông còn biết trước ngày qua đời và ghi rõ từng
ngày giờ tháng năm và những gì ông căn dặn mọi người sau khi ông mất. Vị Thánh
Sống Sudeih Babu đã viên tịch đúng vào năm ông loan báo truớc, đó là năm 1918.
Lời di chúc của ông là Dân tộc Ấn nên đoàn kết và nếu cần, nên hợp nhất tôn
giáo. Ông cho hay: đất nước Ấn Độ sẽ còn nhiều xáo trộn và đau khổ, nạn đó và sự
phân chia giai cấp, kỳ thị tôn giáo còn nhiều và sẽ có nhiều xô xát đẫm máu xảy
ra. Ông khẳng định với các tín đồ Ấn Độ giáo rằng sẽ tái sinh vào năm 1926.
Thời gian trôi qua, lời di
chúc như chìm dần vào quên lãng. Nhưng thời gian vẫn tiến và năm 1926 nhằm ngày
23 tháng 11, có một cháu bé chào đời tại một ngôi làng nhỏ ở Ấn Độ, cháu được đặt
tên là Satyanarayana Raju cháu bé mạnh khỏe không đau ốm gì. Sau khi bỏ bú sữa
cháu lớn nhanh nhưng tuyệt nhiên không bao giờ chịu ăn thịt. Tuy còn nhỏ nhưng
dáng dấp của chỉ của Raju giống người lớn, thường có vẻ đăm chiêu, tư lự và
thích chơi một mình. Mỗi lần trông thấy người ăn xin qua đường là Raju vội vã
chạy ra dẫn vào nhà lấy cơm cho ăn. Càng lớn Raju càng thích đến lễ bái ở các đền
thờ và cung cách hành lễ rất rành rẽ mặc dù chưa học qua lần nào, điều này đã
khiến cha mẹ Raju và ngáy các bà con bạn bè cũng lấy làm kinh ngạc. Dân chúng
quanh vùng đều bắt đầu bàn tán về chú bé lạ lùng Raju. Thế rồi việc gì đến sẽ đến...
năm Satyanarayana Raju đúng 13 tuổi bỗng có một sự kiện lạ lùng xảy ra. Cậu bé
đang ngồi suy tư thì bỗng nhiên vụt kêu thét lên một tiếng lớn rồi lại đi đứng
tự nhiên như không có gì xảy ra. Người nhà lo sợ hỏi nguyên do thì chú bé chỉ lắc
đầu im lặng. Qua đến chiều hôm sau, bỗng nhiên chú bé té xuống đất bất tỉnh
nhân sự. Gia đình lo việc chạy chữa đến gần khuya chú bé Raju mới tỉnh lại. Lần
này Raju có vẻ ngỡ ngàng xa lạ. Mọi việc quá khứ Raju đều không nhớ. Ngay cả đồ
vật dùng hàng ngày cũng không biết để đâu. Rõ ràng lần này Raju đã là con người
khác, chỉ có thể xác hình hài là của Raju mà thôi. Từ ngày đó trở đi, người nhà
chứng kiến chuyện lạ này đến chuyện lạ khác nào Raju hát những bài hát xa xưa lạ
lùng hay đọc những câu kinh dài và khó đọc. Đặc biệt nhiều khi Raju yêu cầu cả
nhà ngồi quanh mình để nghe thuyết giảng những bài kinh bằng tiếng Phạn, thứ tiếng
mà ngay cả cha mẹ Raju cũng công nhận là rất khó thì làm sao Raju đọc được? Cha
mẹ sợ cậu bé bị ma nhập nên tìm thầy hóa giải nhưng mọi cố gắng đều vô hiệu.
Trong khi đó, càng ngày cậu bé Raju vàng có nhiều hành động lạ lùng hơn nữa. Rồi
vào một buổi trưa đứng bóng, cậu bé Raju bước ra sân, dang 2 tay rộng ra như
hít thở dưỡng khí và chậm rãi tuyên bố:
- Tôi không phải là
Satyanarayana Raju, tôi chính là Sudeih Babu.
Sau đó, để mọi người tin
chắc mình là hóa thân của Sudeih Babu, Raju đã mô tả những gì mà trước kia mình
đã sống như cảnh tượng thành phố Ben nares, ngôi nhà nhiều phòng của vị thánh sống,
các tủ gỗ đầy ắp sách cổ, tên tuổi những người nổi tiếng vào lúc đó nhất là đọc
lại lời di chúng mà Sudeih Babu đã viết trước khi qua đời vào năm 1918... Và
hình như để tăng cường cho niềm tin của mọi người, vị thánh sống này đã dùng
tay không lấy từ không khí ra nhiều đồ vật và yêu cầu mọi người lần lượt nêu
tên những thứ mình ưa thích để ông biếu tặng cũng bằng cách lấy từ không khí
ra. Chính các ảo thuật gia nổi danh thế giới khi nghe tiếng của Babu đã không
ngại xa xôi tốn kém tìm đến để quan sát và tìm hiểu vì họ nghĩ rằng Babu cũng
chỉ là một ảo thuật gia và đã áp dụng một phương cách biểu diễn khác lạ nào đó
mà họ cần phải đến quan sát tận mắt để phê phán hay học hỏi. Tuy nhiên, khi đối
diện trước con người kỳ lạ đó, những nhà ảo thuật đã phải lắc đầu thán phục vì
dù họ có tài ba điệu nghệ trong màn trình diễn lấy đồ vật từ không khí thì họ
cũng chỉ giới hạn trong vài thứ mà họ đã định sẵn. Còn riêng Sudeih Babu (tức
là Raju hóa thân) thì có thể lấy bất cứ thứ gì mà người khác yêu cầu. Có lần giữa
đám đông người có một Fakir tỏ ý thách thức nên yêu cầu Babu hãy lấy từ không
khí ra cho mình một thứ đồ vật trong vòng 5 phút. Babu đưa tay ra lấy từ không
khí ra một nắm đinh sắt và vui vẻ nói:
"Đây là vật ông bị
thiếu chứ không phải bị mất, tất cả 5 cái đinh và ở bàn chông của ông".
Vị Fakir giật mình khiếp sợ
vì quả thật ông đang kiếm vật đó. Hiện nay qua thân xác Satyanarayana Raju,
Sudeih Babu đã có hàng triệu tín đồ theo ông. Ông có tài tiên tri và thường nhắc
nhở các tín đồ làm việc thiện cứu giúp người cùng khổ. Ông thường dùng đôi tay
chữa bệnh nan y cho nhiều bệnh nhân và nhiều tín đồ còn cho biết có lần một người
chết đuối quá lâu, bác sĩ vô phương cứu chữa, ông nghe tin vội vã đến bên giường
xoa nắn lưng ngực và mũi người chết, chỉ trong 15 phút người ấy cựa quậy thở ra
hơi và sống lại. Những sự kiện về Raju đã làm sôi nổi dư luận Ấn và cả thế giới.
Nhiều khoa học gia đã tìm đến quan sát, nghiên cứu và hầu hết đều cho rằng:
"Đây là vấn đề vượt khỏi lằn ranh của khoa học thực nghiệm" Chính
Colin wilson, một người luôn tìm tòi nghiên cứu những vấn đề khúc mắc cũng đã
viết như sau:
"Raju là hiện thân của
vị Thánh Sống Ấn Độ"
Trường Hợp Của Michael
Wright
Walter Miller là một thanh
niên bảnh trai có nhiều nhân tình. Tuy nhiên trong số các người tình, anh ta
yêu nhất là cô gái bạn học cũ. Hai người yêu thương nhau rất mực. Không may,
vào năm 1967, Walter Miller bị tai nạn xe hơi và qua đời. Cô gái nghe tin bất tỉnh
mấy lần. Cô quên ăn bỏ ngủ, khóc lóc suốt ngày suốt đêm. Thế rồi liên tiếp mấy
đêm liền cô ta nằm mơ thấy Walter Miller trở về đức trước mặt cô nét mặt hớn hở
và nói: "Em à! anh sẽ trở lại với em!". Cô gái mỗi lần tỉnh giấc đều
buồn chán vì nghĩ rằng đó chỉ là giấc mơ vì không bao giờ người yêu của cô lại
có thể trở về với cô lần nữa. Walter Miller đã chết và nấm mồ anh đã bị phủ biết
bao lá rụng mùa thu rồi.
Bốn năm sau cô gái lấy chồng
và sinh hạ một bé trai kháu khỉnh đặt tên là Michael Wright. Khi đứa bé đúng 3
tuổi nó trở nên khôn ngoan lạ lùng và nói chuyện như người lớn. Một hôm Michael
nói: "Con chính là Walter Miller. Cách đây khoảng ba bốn năm đã bị tai nạn
xe hơi, chiếc xe lăn xuống dốc, cửa kính vỡ tan..." Sau đó, Michael kể hết
tất cả những gì về mình, về cô nhân tình (giờ đây chính là mẹ của Michael) và
còn nói rõ ràng tên người em gái của Walter Miller nữa, đã mô tả rõ ràng thành
phố mà Walter Miller đã cùng bạn người bạn dừng lại nghỉ ngơi trước khi tiếp tục
lại xe lên đường rồi tai nạn chết người xảy ra... Câu chuyện này đã được tác giả
Quỳnh Châu lược thuật trong Tiền Phong (1991 Hoa Kỳ).
Trong cuốn Have We lived
beford của Linda Atkinson, vị nữ giáo sư triết học này đã nêu lên một số bằng
chứng về sự kiện luân hồi tái sinh (tác giả Nguyên Minh đã dịch lại năm 1995 do
hội Phật học Quan Âm ở Canada ấn hành). Chúng tôi xin tóm lược 5 trường hợp tái
sinh có thật như sau:
Trường Hợp Bà Bridey
Murphy
Nhà thôi miên nổi tiếng
Monrey Bernstein đã dùng phương pháp thôi miên để dẫn dụ bà Virgina Tighe đi
vào giấc ngủ và tìm về quá khứ xa xăm của mình. Bà Virgina Tighe là một người
đàn bà trẻ đẹp thông minh, sáng trí. Qua giấc ngủ thôi miên bà đã nhớ lại một
tiền kiếp của mình lúc đó bà là một cô gái trẻ tên là Bridey Murphy. Cô là người
Ái Nhĩ Lan, sinh năm 1798 tại Cork. cha cô tên là Duncan Murphy và mẹ tên là
Kathleen. Cô có một người anh cũng có tên là Duncan. Vào thời đó gia đình
Bridey sống hạnh phúc trong một căn nhà gỗ xinh xắn. Về sau Bridey lấy chồng.
Người chồng là một luận sư tên là Brian Mc Carthy. Cả hai đến Belfast sinh sống.
Số phận không may, Bridey qua đời khiến người chồng đau khổ không nguôi. Qua giấc
ngủ thôi miên, bà Virginia Tighe cho biết rằng: "Lúc bấy giờ tôi (Bridey
Murphy) tuy đã chết nhưng linh hồn tôi vẫn lẫn quất trong nhà, ở ngay đấy với
Brian một thời gian nên biết Brian đau khổ vì nhớ thương tôi nhưng anh ta lại
chẳng bao giờ thấy được tôi. Tôi cũng trở về Cork thăm anh tôi, tôi ở ngay bên
cạnh anh ấy, nói chuyện với anh ấy nhưng anh ta chẳng thấy tôi và chẳng nghe được
tôi nói.
Nhà thôi miên Morey
Bernstein đã đưa bà Virginia Tighe vào giấc ngủ thôi miên nhiều lần nữa. Ông đã
ghi âm lại tất cả những lời kể của bà. Và hỏi ý kiến những nhà luật sư, bác sĩ,
giáo sư, ký giả về trường hợp lạ lùng này bằng cách để những người này nghe những
lời kể của bà Virginia Tighe về tiền kiếp của mình qua các cuộn băng ghi âm lại.
Sau đó, nhà thôi miên Morey quyết định viết một cuốn sách về trường hợp
Virginia và Bridey Murphy. Để cuốn sách có giá trị trung thực chớ không phải là
viết chuyện bịa đặt, một nhà xuất bản đã đứng ra lãnh nhiệm vụ kiểm chứng sự việc.
Nhà xuất bản này đã liên lạc với các cơ sở có liên hệ trong việc kiểm chứng sự
kiện và hợp tác với một số nhân vật đáng tin cậy khác ở Ái Nhĩ Lan, như thư viện
để kiểm tra về nhân vật Bridey Murphy cùng những sự kiện cùng liên quan mà qua
giấc ngủ thôi miên, bà Virginia Tighe kể lại rõ ràng.
Kết quả cho biết rằng các
tài liệu sổ bộ ở Cork ghi rõ năm 1800 có luật sư tên John Mc Carthy làm việc ở
đó. Ngoài ra trong cuốn niên giám có ghi tên 2 tiệm tạp hóa mà qua giấc ngủ
thôi miên bà Virginia có nhắc đến. Đó là tiệm tạp hóa ở Belfast tên là Fari's
và một tiệm tên là John Carrigan's. Về những địa danh khác mà bà Virginia nhắc
đến qua giấc ngủ thôi miên thì phần lớn đều được xác nhận là đúng.
Cuốn sách do nhà thôi miên
Morey viết nhan đề là The Search for Bridey Murphy lúc bấy giờ (khoảng thập
niên 1950) được coi là sách bán chạy nhất. Các báo chí đua nhau đăng tải và
bình luận về chuyện lạ của Virginia Tighe, người đã nhớ lại tiền kiếp mình. Hồi
đó tại Hoa Kỳ, phát sinh hai phe, một phe chống đối, bài bác, một phe bênh vực,
ủng hộ mạnh mẽ về chuyện bà Virginia Tighe và cho hiện tượng tái sinh là có thật.
Chuyện tái sinh của bà Virginia mới đây còn được đăng tải lại trong cuốn The
People's Almanac của David Wallechinsky và Irving Wallace Battaw Books xuất bản.
Trường Hợp Của Hai Người Không
Quen Biết Nhau: Phil và Ann
Đây là một trường hợp ngẫu
nhiên, lạ lùng đã xảy ra bắt đầu từ cuộc gặp gỡ của hai người chưa từng quen biết
nhau bao giờ, một người tên là Phil một người kia tiên là Ann.
Một hôm Phil lái xe hơi đến
Maliba thì bị lạc đường. Phil còn đang ngơ ngác thì thấy một người đang đứng
bên lề phố nên dừng xe hỏi thăm. Mặc dầu người này không biết rõ đường để chỉ
vì thật ra cô ta không phải là dân ở đây nhưng vào lúc này tự nhiên Phil không
quan tâm nhiều vào chuyện lạc đường nữa vì hai người tự nhiên cảm thấy cảm tình
với nhau ngay mặc dầu mới gặp nhau lần đầu. Cô gái tự giới thiệu tên là Ann. Họ
rủ nhau đi chơi đến chiều thì chia tay Phil về Los Angeles còn Ann thì về
Monterey. Hai người lại gặp nhau và tuần kế tiếp, lần này, trước khi chia tay
Ann buồn rầu bảo rằng nàng sẽ về trường học tại tiểu bang Arizona. Hai người đều
buồn bả và họ thấy thật sự đã thương yêu nhau rất nhiều, một thứ tình cảm lạ
lùng đồng điệu giữa hai người thật hiếm thấy trên đời, đặc biệt họ có cảm tưởng
lạ lùng như đã quen biết nhau từ thuở nào rồi và họ cảm thấy bằng mọi cách phải
sống bên nhau...
Thế rồi trong giấc mơ tự
nhiên Phil thấy Ann xuất hiện. Trong mơ rõ ràng Phil và Ann sống vui vẻ bên
nhau. Phil lúc ấy có tên là Walter Morris và Ann là Martha Williams. Walter
Morris là một mục sư thường đi diễn thuyết ở nhiều nơi và được nhiều người kính
nể. Walter Morris có vợ nhưng ông ta ly dị vợ để theo sống với Martha Williams
và Walter đã cùng Martha qua Trung Hoa làm việc chung với nhau trong Giáo Hội cứu
giúp những người đau khổ bệnh tật. Thế rồi quân Nhật tiến chiếm Trung Hoa.
chúng bắt bớ và sát hại vô số người. Mục sư Walter và Martha đã tính đến chuyện
đưa một số trẻ em mồ côi xuống tàu để đến Hoa Kỳ nhưng tàu vừa rời bến đã bị
chiến hạm Nhật chận bắt và giết hại trong số đó có cả Martha. Mục sư vô cùng
đau xót và uất hận nên đã liên kết với những người bị Nhật bắt trói trên tàu nửa
đêm thình lình tấn công các thủy thủ Nhật. Cuộc tàn sát diễn ra, nhưng sau một
chiếc tàu khác của Nhật đã đến tiếp ứng nên toàn thể người nổi loạn đều bị chết.
Mục sư bị rơi xuống biển và cố bơi thật xa trong đêm. Sáng hôm sau được một chiếc
tàu bi qua vớt lên và qua bao gian khổ, mục sư đến được Hoa Kỳ và chết ở đó sáu
tháng sau. Cái chết của mục sư Walter, tự nhiên làm Phil tỉnh giấc và từ đó giấc
mơ cứ ám ảnh Phil hoài. Phil tự hỏi đó có phải chính là cuộc đời của mình
không? Đó có phải là tiền kiếp của mình không? Nhưng đó chỉ là giấc mơ. Tuy
nhiên tại sao giấc mơ lại đủ chi tiết như thế? Cái tên Walter Morris hiện ra rõ
ràng trong trí Phil, các hình ảnh sự việc, địa danh, năm tháng đều đầy đủ. Chỉ
có cách kiểm chứng lại qua các sổ bộ thành phố tỉnh hạt liên quan, thế rồi Phil
viết thư hỏi phòng sổ bộ thành phố này và được trả lời rằng Walter Morris là một
mục sư sống ở đây khoảng thập niên 1930. Phil còn được cho biết tại thành phố
này vẫn còn cháu chắt họ hàng liên quan đến mục sư Walter Morris. Phil liền
nghĩ việc gửi thư liên lạc với những người này theo những địa chỉ đã được các
viên chức trả lời thư của Phil trước đây cho biết.
Một thời gian sau, Phil nhận
được một số thư trả lời trong đó có thư của một người đàn bà cho biết trong khoảng
thập niên 1930 bà ở gần Walter Morris từ lúc mục sư đi qua Trung Hoa cứu giúp
những người nghèo và trẻ mồ côi cho đến khi người Nhật xâm lăng Trung Hoa. Một
người đàn bà khác tên là Crawley ở South Carolina thì cho biết bà ta là con gái
của Mục sư Walter Morris. Khi đọc thư của người đàn bà tên Crawley này, Phil vừa
kinh ngạc vừa hồi hộp vừa lạ lùng vì bà cho biết: "cha tôi đã bỏ mẹ tôi
khi bà còn đang mang thai để theo một người đàn bà khác, mặc dầu vậy, ba tôi lại
thường gởi thư về cho má tôi. Ông tả rất chi tiết những gì ông đã trải qua...
Thế rồi, Phil yêu cầu được
đến South Carolina để gặp mặt Crawley. Phil được bà này trao cho một xấp thư
dày của mục sư Walter Morris gởi cho mẹ bà lúc đó. Đọc cẩn thận cả tập thư Phil
vô cùng kinh ngạc vì tất cả những gì mục sư viết trong thư đều giống hệt các sự
việc mà Phil đã thấy rõ từng chi tiết trong giấc mơ. Tự nhiên Phil linh cảm được
rằng mình chính là mục sư Walter Morris chính nhờ sự gặp Ann mà châu chuyện hiện
ra rõ ràng từ đầu tới cuối trong ký ức của Phil. Như thế Ann và Phil đã có một
thời sống bên nhau ở kiếp trước... và bà Crawley phải chăng là con của Phil ở
kiếp trước?
Trường Hợp Người Đàn Bà
Diane Strom.
Bà Diane Strom có chồng,
gia đình sung túc nhưng luôn luôn bà bị một nỗi lo âu dằn vặt trong lòng về vấn
đề tiền bạc. Mỗi khi có điều gì liên quan đến tiền là bà sợ sệt lo lắng mất ăn
mất ngủ nhất là phải nợ ai dù số tiền nhỏ mọn bà cũng vẫn canh cánh bên lòng vì
bà linh cảm như mắc nợ ai thì rồi sẽ có một sự khủng khiếp ghê rợn xảy đến với
bà. Nổi lo lắng lạ lùng ấy cứ xảy ra mãi làm bà Diane Strom trở lên một con người
luôn luôn suy nghĩ, sợ hãi, hồi hộp như bà bị bệnh về giáp trạng tuyến bị tổn
thương. Nhưng khi đến bác sĩ khám nghiệm thì kết quả bà chẳng có bệnh gì cả. Cuối
cùng người bạn mách cho bà đến bác sĩ Morris Netherton người đã từng áp dụng
phương pháp khơi dậy ký ức xa xăm hay nói khác đi là tiền kiếp của những người
bị khủng hoảng tinh thần vô căn cứ. Khi truy nguyên được nguyên nhân thì sự khủng
hoảng ấy sẽ mất dần đi.
Nghe lời bạn, bà Diane đến
gặp bác sĩ ẩn khuất trong lòng cho bác sĩ nghe. Bác sĩ Morris thuyết phục và
khuyên dụ bà Diane xem thử nghĩ sâu xa về cuộc đời mình ngược về quá khứ để xem
thử nguyên nhân nào đã gây nên sự lo sợ lạ lùng trong cuộc sống hiện nay của
bà. Nhiều tuần lễ trôi qua. Nhờ phương pháp dẫn dụ ấy của bác sĩ Morris mà bà
Diane có thể tập trung được tư tưởng mình và phát hiện được những cảm giác và
hình ảnh lạ mà từ lâu bà chưa từng biết tới. Bà thấy mình là một bé gái ngây
thơ tên là Rita. Rita là một đứa con rơi vì bị mẹ là một nữ kịch sĩ ở NewYork bỏ
rơi khi vừa hai tuổi. Lúc ấy Rita được một cặp vợ chồng ở Pensylvania nhận về
nuôi. Năm lên 13 tuổi, Rita lại bơ vơ lần nữa vì cha mẹ nuôi bị tai nạn xe hơi
qua đời. Bé Rita sống lạc loài không nơi nương tựa đến 6 năm trời và đến năm 20
tuổi Rita gặp một người đàn ông tên là Keith Mc Culluw, họ yêu nhau và cưới
nhau. Rita sinh hạ một trai, nàng cảm thấy hạnh phúc về mọi mặt vào lúc này,
nàng lại có một công ăn việc làm đàng hoàng. Rita chuyên vẽ kiểu thời trang và
tự cắt may lấy một tiệm may mặc tại đại lộ thức bảy ở New York. Nhưng cuộc sống
sung sướng hạnh phúc không kéo dài được bao lâu. Mùa đông năm 1928 chồng Rita
qua đời rồi năm sau đứa con nàng cũng bị bệnh rồi mất. Trong khi đó, khắp Hoa Kỳ,
tình trạng khủng hoảng kinh tế gia tăng trầm trọng. Rita bị vỡ nợ, số nợ quá lớn
khiến phải phá sản và Rita tuyệt vọng đến độ phải tìm cái chết để giải quyết vấn
đề. Nàng thắt cổ tự vẫn ngay trong phòng làm việc hôm đó là ngày 11 tháng 6 năm
1933, lúc ấy Rita vừa đúng 30 tuổi...
Sau khi biết rõ chi tiết về
cuộc đời mình, tự nhiên bà Diane Strom cảm thấy thoải mái trong lòng, giống như
một người đang đau khổ uất ức được òa lên rồi sau cơn nức nở ấy bỗng cảm thấy
được vơi đi phần nào đau khổ.
Nhờ các sự kiện xảy ra rất
gần và các chi tiết rất rõ ràng nên bác sĩ Morris đã nhờ các nhân viên ở văn phòng
lưu trữ hồ sơ, các sổ bộ ở New York kiểm chứng lại xem về những gì mà bà Diane
đã cho biết như cửa tiệm may mặc ở đường số 7 tại New York, tên của người đàn
ông Keith Mc Culluw, cái chết của nữ chủ tiệm may mặc tên là Rita.v.v... Tất cả
những gì đã được trả lời đều phù hợp với những điều mà bác sĩ Morris đã ghi nhận
được từ bà Diane sau mỗi lần dùng phép dẫn dụ để ký ức bà trở về đời sống quá
khứ hay nói khác đi là quay về những sự kiện xảy ra từ kiếp trước. Theo bác sĩ
Morris Netherton thì tái sinh là câu giải đáp của vấn đề và Rita là tiền thân của
bà Diane Strom.
Trường Hợp Của Dolores Jay
Hai vợ chồng Carroll và
Dolores Jay sống yên vui hạnh phúc trong một căn nhà lớn ở Hoa Kỳ. Ông Carroll
là một mục sư có khả năng thôi miên và thường giúp nhiều người bị bệnh nhức đầu
nhờ phương pháp thôi miên này. Riêng bà Dolores Jay, vợ ông thì có nhiều lần nằm
ngủ và mơ thấy nhiều chuyện lạ lùng và bà thường la, hét, rên rỉ và nói năng
qua giấc mơ.
Ông Carroll quyết định áp
dụng phương pháp thôi miên để tìm nguyên nhân sự việc đã khiến vợ ông nói mê sảng
trong giấc ngủ. Qua nhiều lần thực hiện phương pháp thôi miên, bà Dolores Jay
đã được đưa vào giấc ngủ và trả lời bằng những câu hỏi của chồng rất có mạch lạc.
Bà Dolores cho biết rằng trước đây bà là cô gái Đức tên là Gretchen Gottlieb.
Lúc 16 tuổi Gretchen cùng người cậu ruột cởi ngựa đi dạo thì bất thần bị một bọn
cướp giết chết. Giờ đây, bà là Dolores những hình ảnh về cuộc giết chóc khủng
khiếp ấy cứ xuất hiện ngày càng rõ nét trong mộng dữ. Điều kỳ lạ là phần lớn
khi hỏi về hoàn cảnh, thời gian, địa điểm xảy ra sự kiện thì bà Dolores đều trả
lời qua giấc ngủ thôi miên bằng tiếng Đức mà thôi. Ông Carroll đã mời một số
chuyên viên biết tiếng Đức tới dự những buổi thôi miên của mình cho vợ là
Dolores. Chính những người này đã nêu những câu hỏi mà họ tin chắc là bình thường
bà Dolores không biết, không thấy, không nghe được vì nó thuộc về lịch sử, về
những gì liên quan đến nước Đức cũng như sinh hoạt, phong tục, tập quán, nghĩa
là đời sống hàng ngày tại Đức khoảng thời gian mà bà bảo mình là cô gái
Gretchen. Tuy nhiên những câu hỏi trả lời của bà Dolores qua giấc ngủ thôi miên
đều rất phù hợp với những sự thật vào hoàn cảnh đó ở Đức, mặc dầu bà Dolores sống
ở Mỹ và chưa bao giờ học tiếng Đức hay đặt chân tới nước Đức.
Để được chắc chắn hơn, hai
vợ chồng Carroll và Dolores đến gặp chủ tịch Hội Kiểm Nghiệm, dò xét người nói
dối (Scientific Life Detection Inc ở New York vào năm 1974). Sau những câu hỏi
hóc búa và đầy tính cách kiểm chứng của những nhân viên trong hội tập chú vào
bà Dolores, với sự hỗ trợ của máy dò thì kết luận được đưa ra là bà Dolores
hoàn toàn trung thực, tự nhiên và quả quyết trong các câu trả lời và đó là sự
thật. Sự thật rõ ràng nhất cho thấy là chưa bao giờ bà Dolores nói tiếng Đức vì
bà đã chưa bao giờ học tiếng Đức cả, bà cũng chưa bao giờ sống ở Đức. Vậy mà
trong giấc ngủ thôi miên bà lại nói tiếng Đức và nói đúng giọng (các cuộn băng
ghi âm được thu trực tiếp). Vậy phải chăng bà Dolores Jay là hậu kiếp của cô
gái Đức này?
Mặc dù ông Carroll là một
mục sư chuyên phục vụ ở nhà thờ Methodist và cũng là nhà giáo nhưng ông tin rằng:
Sở dĩ vợ ông là bà Dolores nói tiếng Đức một cách kỳ diệu như thế là do bà đã từng
là một cô gái Đức ở tiền kiếp.
Trường Hợp Bé Imad Elawar
Đây là trường hợp mà nhà
nghiên cứu về hiện tượng luân hồi Ian Stevenson xem như bằng chứng rõ rệt nhất
chứng minh sự tái sinh là có thật.
Sự kiện xảy ra tại một
ngôi làng ở nước Liban. Tại đây có một cháu bé trai tên là Imad Elawar. Bé Imad
rất thông minh, mau biết đi và biết nói. Nhưng khi nói câu đầu tiên rõ ràng thì
đó là chữ Jamileh.
Trong nhà không hiểu bé
Imad nói chữ đó là nghĩa là gì. Bé Imad bảo đó là tên của một đứa con gái trẻ đẹp.
Bé còn bảo rằng nó có hai người em tên là Amin và Huda nhưng những người em hiện
nay không còn nữa. Imad cho biết nó là con của gia đình Bouhamzy ở Khriby.
Trong đời nó trước đây nó đã trải qua một kiếp sống với nhiều sự kiện đáng sợ.
Nó đã chứng kiến cảnh rùng rợn chết chóc khi một người láng giềng bị xe vận tải
cán chết một cách khủng khiếp rồi khi nó làm tài xế lái xe buýt, có lần ngừng
xe lại vừa nhảy xuống xe thì bất ngờ chiếc xe vẫn tiếp tục chạy làm bị thương
nhiều người, nó còn kể mình thường đi săn, có lần cải lẩy của một người, và tức
giận dùng súng bắn người ấy... Nó nhớ đủ chuyện, và tự nhiên kể cho mọi người
trong nhà nghe, khiến ai cũng ngạc nhiên cứ tưởng rằng thằng bé Imad bị nhiễu
loạn thần kinh.
Một hôm bé Imad đi dạo với
bà nó, lúc còn bé vừa lên bốn. Giữa đường nó gặp một người đàn ông đi ngược chiều
nó chạy lại và kêu lên có vẻ vui mừng:
- A! Đây là người láng giềng
ngày xưa của tôi.
Người đàn ông kia ngơ ngác
chẳng hiểu gì cứ tưởng bé nói đùa. Câu chuyện được bà của Imad kể lại cho gia
đình nghe, về sau cha của Imad mới biết được rằng người đàn ông này ở làng
Khriby, nhà ông ở gần nhà của gia đình Bouhamzy sống. Chính nhà nghiên cứu Ian
Stevenson đã tìm hiểu kỷ chuyện lạ về bé Imad. Ông cho biết ngôi làng hiện nay
bé Imad đang ở cách xa Khriby khoảng 30 cây số. Bác sĩ Stevenson đã đề nghị kiểm
chứng sự kiện bằng cách đi với Imad và cha của cháu đến Khriby. Mặc dầu là nơi
xa lạ nhưng bé Imad có vẻ quen thuộc đường sá trong chuyến đi ấy. Tại đây có
gia đình Bouhamzy. Bác sĩ Stevenson tìm hiểu và biết rằng trong gia đình này có
một người bị chết vì tai nạn xe hơi thật rùng rợn giống như điều bé Imad đã kể
trước đó. Người cha trong gia đình này là Haffez Bouhamzy cho biết họ có một
người anh em họ tên là Ibrahim Bouhamzy. Khi đến căn nhà của Ibrahim, vừa bước
vào sân, Imad đã dừng lại chỉ tay vào cuối sân và nói:
- Đây là chỗ của con chó ở.
Chỗ kia là chỗ nuôi dê. Nơi đây có một căn nhà nhỏ để lưu trữ các dụng cụ. Khi
bước lên lầu tới căn phòng của Ibrahim, bé Imad chỉ một cái giường và nói:
- Cái giường này xưa kia
tôi nằm ngủ. Imad còn cho biết giường đã đổi chỗ vì ngày xưa giường này để ở chỗ
khác. Bà Bouhamzy hỏi thử bé Imad một điều mà bà nghĩ rằng chỉ khi nó ở đây
trong tiền kiếp thì nó mới biết được thôi. Bà hỏi như sau:
- Này! cháu có nhớ là tại
đây cháu đã thường xuyên chuyện trò với bạn bè bằng cách nào không?
Imad chỉ cái cửa sổ và trả
lời một cách tự nhiên khiến bà Bouhamzy kinh ngạc:
- Qua cái cửa sổ ấy.
Theo lời bà Bouhamzy thì
trước khi Ibrahim qua đời, bệnh tình ngày càng nặng không ai có thể đến thăm.
Ibrahim lúc bấy giờ chỉ nằm trên giường và nói chuyện với bạn bè qua cửa sổ ấy
mà thôi.
Người nhà thường nghe Imad
nhắc đến cân súng săn nên sẵn dịp hỏi Imad thử cây súng cất ở đâu. Imad cho biết
cây súng giấu sau tủ. Điều này hoàn toàn đúng. Lúc đó người em gái của Ibrahim
là Huda bước đến hỏi Imad một câu:
- Có biết tôi không?
Imad cười nói: À Huda em
tôi đây mà.
Huda ngạc nhiên vô cùng chỉ
bức hình vẽ treo trên tường hỏi:
- Hình của ai đấy?
Imad trả lời:
- Đó là hình của em trai
tôi, Fuad đó!
Huda lại đi lấy một tấm ảnh
chụp của Ibrahim hỏi Imad.
- Còn đây là hình của ai?
Imad nhìn kỹ hình rồi nói:
- Đây là hình tôi trước
đây!
Bỗng Huda như chợt nhớ ra
điều gì, đến gần Imad và nói:
- Nếu quả là Ibrahim thì
trước khi chết, Ibrahim nói câu gì?
Imad trả lời với giọng buồn
buồn:
- Huda ơi! hãy kêu Fuad
đi!
Nghe Imad trả lời như thế,
Huda nổi gai ốc khắp người. Quả thật lúc đó, trước khi tắt hơi, Ibrahim đã kêu
lên như thế. Như vậy, mọi người có mặt, kể cả bác sĩ Stevenson cũng đều thừa nhận
rằng Imad chính là Ibrahim tái sinh.
Trong cuốn Bạn Tinh có Tái
Sanh, tác giả Minh Tuệ (1974) đã viết lại một số trường hợp có thực về tái sanh
(tài liệu được cung cấp bởi Đại Đức Narada Maha Thera, ông Francis Story và
Amarasiri Weerarartna) xin tóm lượt như sau:
Trường Hợp Nam Tài Tử Nổi
Danh Glenn Ford
Giới điện ảnh quốc tế và
giới mộ điệu phim ảnh không ai là không biết đến nam tài tử gạo cội Glenn Ford
của màn bạc Hoa Kỳ. Cuộc sống sôi động qua các vai của Glenn Ford trong cuộc đời
hiện tại cũng tượng như trong "Những cuộc đời tiền kiếp" của ông.
Glenn Ford nói: "Tôi không mê tín dị đoan, tôi không tin những điều mù
quáng vớ vẩn, nhưng tôi tin vào cái gọi là đầu thai".
Glenn Ford ngoài say mê
đóng phim, ông còn một say mê khác là tìm hiểu những vấn đề có tính cách huyền
bí nhưng đầy tính khoa học. Ông say mê lý thuyết về Thiền học, và đồng ý ới
phương pháp yên tĩnh tâm hồn qua thuật thôi miên. Chính nhờ sự giúp đỡ của một
chuyên gia tài giỏi về khoa thôi miên Glenn Ford đã ghi lại qua băng ghi âm lời
thuật về chính tiền kiếp của mình như sau:
"Năm 1774 tôi chào đời
tại Egin (thuộc xứ Scotland). Tên tôi lúc ấy là Charles Stewart, là một nhạc
sư, tôi thường dạy nhạc cho nhiều người. Về sau tôi bị bệnh phổi và qua đời năm
1812".
Tôi còn biết là tôi cũng
đã trải qua một kiếp làm người nữa vào thời đại vua Louis thứ 14 của nước Pháp
nghĩa là khoảng những năm 1643 đến 171.
Lúc bấy giờ tôi là một sĩ
quan kỵ binh bảo vệ hoàng cung tên tôi là Launvaux. Trong thời gian bảo vệ điện
Versailles, tôi đã để ý và yêu tha thiết một phụ nữ quý tộc đã có chồng. Không
may là câu chuyện yêu đương tuy chưa thành sự thật, nhưng lại bị chồng người
đàn bà này biết và thách thức đấu súng. Kết quả là tôi bị bắn trọng thưởng và
tôi phải trải qua một thời gian dài đau đớn quằn quại trước khi chết..."
Điều kỳ lạ là sau này khi
nam tài tử Glenn Ford còn sống, ông thường hay bị đau nhức người, chỗ đau này
chính Glenn Ford cảm nhận rõ ràng và ông thường than với bác sĩ riêng của mình
về vết đau kỳ lạ ấy. Chính Glenn Ford đã viết trong tập hồi ký đời mình về vấn
đề này như sau:
"Vết thương từ cuộc đấu
súng tay đôi từ "kiếp trước" ấy vẫn thỉnh thoảng làm tôi đau đớn ngay
ở "đời hiện tại" và chỉ có mình tôi cảm nhận đều được đó thôi."
Trường Hợp Cậu Bé Michael
Croston
Machael Croston sanh tại
Liverpool (nước Anh). Năm Michael đước 11 tuổi tự nhiên cậu bé có phong thái của
một người lớn chững chạc và cậu cảm nhận được rằng mình chính là ông ngoại của
đã qua đời trước trước khi Michael chào đời. Chính mọi người trong gia đình của
Michael cũng thấy rõ điều đó. Cậu bé thuộc nằm lòng các đường phố lớn, nhỏ,
mòn, đường tắt vùng hoang dã.
Yorkshire nơi quê nhà của
cậu, nhưng cậu chưa bao giờ đặt chân tới. Vậy mà cậu đã dẫn người nhà đến đó và
chỉ những ngã tắt, cửa sau, đường băng như một người đã sống ở đó lâu đời. Chỉ
có ông ngoại của cậu mới có khả năng ấy thôi.
Một điều lạ lùng đã xảy ra
là có một đêm, Michael trằn trọc không ngủ được nơi căn trại khi chiếc đồng hồ
quả lắc to lớn cứ tích tắc như nhắc nhở cậu điều gì. Rồi khi đồng hồ điểm 2 giờ
khuya, cậu cảm thấy như có cái gì đó thôi thúc khiến phải vùng dậy chạy nhanh
xuống dưới cầu thang và lần tay sau chiếc đồng hồ, cậu gặp một cái nút kéo ra.
Trong một cái hốc, tay cậu chạm vào những tờ giấy bạc để trong chiếc hộp kim loại.
Về sau hiện tượng lạ lùng này đã được biết rõ nguyên nhân hơn về sự khám phá
món tiền mà ngày xưa ông ngoại cậu đã cất dấu. Nguyên nhân khêu gợi quá khứ
chính là tiếng đồng hồ kêu và khi đồng hồ vang lên 2 tiếng thì đó là giờ mà xưa
kia ông ngoại cậu đã chết.
Trường Hợp Edith Oliver
(Người Anh)
Bà Edith Oliver là nữ ký
giả Anh đã có lần viếng ngôi làng Avenbury. Khi đến địa điểm này bà bỗng nhiên
nhớ lại rằng nơi đây có chợ búa với những khối đá to lớn. Tuy nhiên rằng dân
làng bảo rằng ở Avenbury không có như vậy nhưng cuối cùng các tài liệu địa
phương chí lại cho thấy vào những năm 1800 đến 1850 quả thật ở đây có những điều
mà bà Edith Oliver đã mô tả. Như vậy chỉ có một kết luận là kiếp trước bà Edith
Oliver sống tại đó?
Trường Hợp Cô Bé
Gnanatilaka
Gnanatilaka sinh năm 1956
tại Kotamale (Tích Lan) khi gần năm tuổi cô bé này đòi cha mẹ dẫn đi tìm cha mẹ
ruột chính thức của mình. Lời yêu cầu ấy cứ mãi lập đi lập lại nhiều lần nhưng
cha mẹ cô bé vẫn cho là con mình nói cho vui miệng hoặc nghĩ rằng người trong
xóm làng bày vẽ nó nói mà thôi. Tuy nhiên càng lớn đứa bé càng van nài khẩn thiết
được gặp mặt cha mẹ nó. Chuyện lạ lùng này đến tai một số nhà khoa học, tâm lý
và tôn giáo trong vùng. Cuối cùng, lời yêu cầu của bé Gnanatilaka được thực hiện.
Phái đoàn đi chung với cô bé đến vùng Talawakele. Cô bé dẫn đường rất rành rẽ.
Họ bước vào một căn nhà mà cô bé gọi là nhà cha mẹ mình. Bé giới thiệu hai vợ
chồng ngôi nhà này là cha mẹ kiếp trước của mình. Lúc ấy có một giáo viên nhà
trong vùng nghe chuyện đến xem thì cô bé bảo là thầy cô. Cô bé cho biết kiếp
trước cô là con trai tên la Tilakaratna. Cô còn chỉ nghĩa trang và mộ chí của
mình tức là của bé trai Tilakaratna cho mọi người thấy. Khi kiểm tra lại mọi
chi tiết của bé Gnanatillaka ra đời, vùng TalaWakele có cậu bé tên là
Tilakaratna và cậu bé chính là con của hai ông bà mà cô bé nhận là cha mẹ tiền
kiếp. Cậu bé Tilakaratna chết yểu vào ngày 9 tháng 11 năm 1945 chôn tại nghĩa
trang mà bé Gnanatillka đã dẫn mọi người đến chỉ đúng mộ chí và bảo đó là mộ chí
của mình ngày xưa (ý nói đến tiền kiếp).
Điều kỳ lạ là hai gia đình
không liên lạc quen biết nhau và ở rất xa nhau vậy mà tất cả những gì cô bé đã
mô tả về gia đình mà cô bé đòi đến hoàn toàn đúng.
Chính bác sĩ Stevenson
cũng đã đích thân đến Tích Lan để theo dõi và tìm hiểu vấn đề này và bác sĩ đã
bảo rằng, đây là một trường hợp đặc biệt trong các trường hợp lạ lùng về hiện
tượng tái sinh.
Nhà nghiên cứu về sự chết
và những hiện tượng tiếp diễn sau khi chết là Jeffrey Iverson đã thu thập nhiều
tài liệu liên quan đến vấn đề, trong đó có vấn đề Luân Hồi và Tái Sinh. Trong
cuốn In Search of the Death xuất bản năm 1992, Jeffrey Iverson đã đưa ra một số
trường hợp tái sinh xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Đó là những chuyện có thật
được xem như những bằng chứng rõ ràng nhất về hiện tượng luân hồi.
Sau đây là vài chuyện điển
hình:
Trường Hợp Cô Bé Shanti Devi
ở Ấn Độ
Câu chuyện có thật sau đây
về cô bé Shanti Devi đã một thời làm xôn xao dư luận Ân đến độ báo chí, đài
phát thanh, các phái đoàn khoa học và ngay cả Ghandi, người cha của dân tộc Ấn
cũng phải đích thân tới gặp mặt Shanti để hỏi chuyện. Chính bác sĩ Ian
Stevenson, nhà khoa học chuyên nghiên cứu về những hiện tượng liên quan đến
luân hồi tái sinh ở Hoa Kỳ và khắp nơi trên thế giới cũng đã phát biểu như sau:
- Trường hợp của bé Shanti
Devi có thể nói là một trường hợp cổ điển nhất về hiện tượng đầu thai.
Nhà nghiên cứu và biên soạn
các sách chuyên về các vấn đề huyền bí siêu linh là Jeffrey Iverson cũng đã tìm
hiểu kỹ câu chuyện theo từng chi tiết một vào năm 1988. Các nhà nghiên cứu đã đến
Đê li (Delhi) để gặp Shanti và hy vọng khám phá thêm nhiều điều lý thú lạ lùng
khác nhưng không may cho họ là Shanti Devi đã qua đời trước đó 2 tháng hưỡng thọ
61 tuổi. Mặc dầu vậy, tại Delhi, hầu như ai cũng biết chuyện bé Shanti tái
sanh. Họ biết được câu chuyện rất rõ ràng từ năm 1935 là năm khởi phát ra sự kiện
lạ lùng. Về sau trong gia đình Shanti, ông Viresh Narair là người anh ruột đã
thường đón tiếp các nhà báo, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu khắp nơi trên
thế giới đến tìm hiểu và ông đã kể lại mọi chi tiết về trường hợp Shanti Devi,
em gái ông. Nhưng năm sau đó vấn đề chưa lắng dịu. Nhiều nhà nghiên cứu sự kiện
nêu nhiều ý kiến như Bal Chand Nahata thuộc Hiệp Hội Phân Tích Tâm Lý ở Ấn Độ
cho rằng cần phải có sự tiếp tay hỗ trợ của những nhà tâm lý học, những nhà
khoa học trong ủy ban điều tra thì mới hy vọng đem lại những khám phá trung thực.
Qua những cuộc tìm hiểu, phỏng vấn, đối chiếu các sự kiện từ năm 1935 đến năm
1938 các nhà nghiên cứu vẫn chưa hài lòng vì có nhiều điểm chưa được rõ ràng.
Phải đến 3 năm sau, một nhân vật có tiếng khác là ông Sushil Bose đã bỏ khá nhiều
thời gian để tìm hiểu về trường hợp của Shanti Devi và kết quả là ông đã tìm ra
được bằng chứng xác thực chứng minh rằng hiện tượng lạ lùng về Shanti Devi là
có thật.
Shanti đã kể về tất cả những
diễn tiến của tiền kiếp mình, lúc đó Shanti là người đàn bà tên Ludgi. Theo
Sushi Bose nhà nghiên cứu hiện tượng Shanti thì trước tiên, ông tìm gặp người
cha của Shanti tên là Rang Bahadur Mathur ở Cheerakhana và được biết rằng bé
Shanti Devi biết nói chậm hơn các trẻ khác cùng lứa tuổi. Phải đến năm 3 tuổi
Shanti mới nói được. Bé luân luôn trầm tư mặc tưởng, đăm chiêu tư lư lạ thường.
Đôi khi những trẻ con khác chọc ghẹo hay làm điều sai quấy, ồn ào gây bất hòa
xích mích thì Shanti thường tỏ ra nhẫn nhục, chịu đựng, nghiêm trang, trông giống
như một người lớn và dàn xếp mọi chuyện một cách êm đẹp thần tình. Một chuyện lạ
đã xảy ra sau đó khi Shanti ngồi chung với gia đình trong bữa cơm chiều. Shanti
đã hỏi người mẹ một câu như sau:
- Mẹ ơi! Con thấy mẹ nấu
những món ăn khác với những gì con đã ăn lúc ở thị trấn Mathura quá nhiều. Những
món này con ăn không quen. Còn quần áo cũng vậy cũng có khác với nơi con đã sống
trước đây. Mẹ biết không, gia đình con hồi đó có một tiệm bán áo quần và căn
nhà con đã ở thì sơn màu vàng.
Mọi người trong lúc đầu
còn ngạc nhiên về câu nói kỳ lạ đó, nhưng sau đó trở thành thói quen và không
ai còn quan tâm đến một đứa bé con đôi khi hay phát ngôn những câu "bậy bạ"...
Tuy nhiên, càng về sau Shanti càng tỏ vẻ nôn nóng và năn nỉ cha mẹ dẫn mình đến
thăm căn nhà cũ ở Mathura và nhất là để thăm người chồng ngày xưa hiện còn sống
ở đó.
Một nhà giáo ở Đề Li
(Delhi) nghe chuyện lạ về Shanti nên đã tìm gặp tìm hiểu. Lúc đó Shanti đúng 8
tuổi. Nhà giáo này cố gắng tìm cách để Shanti nhớ lại rằng nếu kiếp trước quả
thật bé đã sống ở thị trấn Mathura có chồng ở đó thì hãy thử nhớ lại tên chồng
xem sao. Khi nghe lời yêu cầu này, Shanti liền trả lời như sau: "Nếu tôi
thấy được anh ấy tôi sẽ nhận ra ngay". Theo báo cáo ghi lại thì sở dĩ
Shanti không nhắc đến tên chồng là do phong tục ngày xưa của người Ấn khi theo
đạo Hindu thì người vợ không bao giờ nói tên chồng mình cho người khác biết.
Nhà giáo này đã tìm cách mua chuộc Shanti (vì Shanti chỉ là một cô bé nhỏ dại)
bằng một vài quà tặng và còn hứa rằng nếu bé nói rõ tên chồng lúc đó thì ông ta
sẽ giúp bé đến thị trấn Mathura. Shanti suy nghĩ một hồi rồi xích lại gần nhà
giáo và nói nhỏ vào tai ông ta: "Ông nhớ giữ in nhé! tên chồng tôi lúc đó
là Pandit Kedernath Chowbey".
Trong khi đó người cha của
bé Shanti lại cho biết như sau: "Chẳng có ai trong gia đình biết về những
gì bé Shanti đã nói cả. Chẳng có ai hay biết thăm dò, điều tra gì về căn nhà ở
Mathura hay người được gọi là chồng của Shanti nói ra đều có thật! Chúng tôi
toàn thể gia đình đều mong soa cho Shanti quên đi những gì mà cháu thường nhắc
nhở đến mà thôi".
Về sau, nhà giáo này lại đến
lần nữa và lần này đi cùng một người có vai vế ở trường, đó là ông Lalá Kishan
Chand, hai người này yêu cầu Shanti mô tả thật rõ ràng căn nhà ở Mathura, cả số
nhà, con đường nữa. Họ ghi lại cẩn thận và hỏi về người đàn ông mà Shanti đã bảo
là chồng tiền kiếp của mình. Rồi chẳng chờ đợi lâu, ông Chand viết một lá thư
trình bày sự việc gởi ngay đến cho Pandit Kedenmath Chowbey là người chồng kiếp
trước của Shanti theo địa chỉ ấy ở thị trấn Mathura. Họ gọi đây là "một bức
thư may rủi" vì họ không chắc có người và địa chỉ như Shanti đã nói.
Một thời gian không lâu, họ
nhận được một lá thư từ thị trấn Mathura gởi đến. Tất cả mọi người trong gia
đình Shanti ở Delhi khi nhận được bức thư đều vô cùng kinh ngạc vì trên phong
bì có ghi rõ họ người gởi là tên của người Shanti đã từng bảo là chồng mình.
Khi đọc lá thư, ông Chand hoàn toàn sửng sốt, vì những gì viết trong thư đều
phù hợp với những gì mà Shanti đã mô tả. Người viết thư này chính là Chowbey.
(đúng tên người mà Shanti thường bảo là chồng mình ở tiền kiếp) Chowbey có cho
ông Chand biết là anh ta có một người vợ tên là Lugdi đã chết. Chính anh ta
cũng rất ngạc nhiên về những điều mà ông Chand đã viết trong thư về chuyện
Shanti. Chowbey viết thêm là anh ta sẽ nhờ một người em họ đang ở Đề Li (Delhi)
đến gặp mặt Shanti để tỏ rõ thật hư. Khoảng 2 tuần sau, người em họ của Chowbey
tên là Pandit Kanjimall đã tìm đến nhà Shanti đã nhận ra ngay là người em họ của
chồng mình và Shanti đã hỏi thăm đủ chuyện nào là chuyện con cái, chuyện ngôi
nhà ở Mathura, hỏi luôn cả cửa tiệm bán quần áo, cửa tiệm này ở trước ngôi đền
Dwarikadesh. Thấy Shanti còn nhỏ nhưng lại nói chuyện như người lớn. Vả lại người
nhà Shanti còn cho biết là Shanti cũng như mọi người trong gia đình chưa ai từng
đặt chân tới thị trấn Mathura thì Kanjimall lại càng kinh ngạc hơn nữa vì tất cả
những gì mà Shanti mô tả đều hoàn toàn đúng sự thật.
Vào ngày 12 tháng 11 năm
1935, người đàn ông tên là Chowbey ở Mathura sau khi nhận được thư do người em
họ kể lại chuyện lạ lùng về Shanti và còn cho biết là Shanti có thể là hiện
thân của Lugdi Devi, vợ của Chowbey nên anh ta vừa bán tín bán nghi, vừa nôn
nao hồi hộp, vội vã đáp tàu hỏa đến Đề Li để gặp Shanti, người tự nhận là vợ
anh.
Chowbey khi đi còn dẫn
theo một cháu bé trai chính là con của Lugdi Devi, tên là Nabanita Lall (hiện tại
thì đứa con trai này lớn tuổi hơn Shanti). Ngoài ra, đi theo Chowbey còn có người
em họ là Kanjimall và người vợ mới sau này mà Chowbey đã cưới sau khi Lugdi
Devi qua đời. Khi cả bốn người này vào nhà thì Shanti còn đi học chưa về.
Trong khi chờ đợi, người
nhà trong gia đình Shanti sau khi nghe Chowbey thuật lại mọi việc có liên quan
đến Shanti thì vội vã mời khách ngồi chơi và cũng kể hết những gì đã xảy ra về
trường hợp lạ lùng khó hiểu của con gái họ là bé Shanti. Khoảng một giờ sau
Shanti đi học về. Bước vào nhà, cô bé ngạc nhiên vì thấy có nhiều người nơi
phòng khách, Shanti vừa chào khách vừa nhìn lén từng người. Khi Shanti nhìn
Chowbey thì bỗng nhiên cô bé tỏ vẻ kinh ngạc rồi bước ngay tới ngồi gần một bên
Chowbey với thái độ bẻn lẻn e thẹn. Tất cả mọi người có mặt đều im lặng theo
dõi. Người nhà Shanti liền chỉ Chowbey và nói:
- Đây là người anh cả của
chồng cháu ngày xưa, vậy cháu có nhận ra không?
Shanti vừa mân mê vạt áo vừa
trả lời:
- Không phải đâu, đây là
chồng của con. Con đã nói chuyện này nhiều lần cho cả nhà nghe nhưng không ai
tin con cả.
Mọi người nghe Shanti nói
đều hết sức lạ lùng. Người này nhìn người kia, còn Chowbey thì nhìn Shanti chăm
chăm. Trong khi đó, người vợ kế của Chowbey ngơ ngác như đang trải qua một giấc
mơ. Shanti chợt thấy đứa con trai đứng bên Chowbey thì nắm tay nó tỏ vẻ âu yếm
vừa hôn vừa khóc sụt sùi một hồi rất lâu. Shanti bảo mẹ đi tìm đồ chơi cho nó
và có lẽ sợ mẹ đi tìm chậm nên Shanti đã hăm hở chạy đi lục lọi đủ mọi thứ quà
đem lại cho "con".
Về sau người cha của
Shanti đã kể lại hình ảnh lạ lùng này mà ông đã chứng kiến rõ ràng. Mặc dầu
Shanti còn nhỏ nhưng phong thái, cử chỉ lời nói, nét mặt và ánh mắt biểu lộ rõ
nét những đức tính của một người mẹ thương con. Đó là cả một sự lạ lùng khó hiểu.
Theo lời người cha của
Shanti kể lại thì không ai còn cho Shanti là một đứa bé con nữa cả. Còn Shanti
thì nước mắt trào ra vì sung sướng mà khóc. Mọi người khi đó thấy cảnh tượng ấy
cũng tự nhiên mủi lòng rơi lệ...
Mặc dầu câu chuyện được dấu
kỷ không để lộ ra ngoài nhưng ở Ấn Độ cũng như ở những nước Đông Nam Á khác không
có chuyện nhà nào dù kín đáo bí mật đến đâu mà hàng xóm láng giềng lại không biết.
Vì thế mà câu chuyện về bé
Shanti chẳng mấy chốc lan truyền đi khắp vùng. Nhiều người tụ tập lại nhà
Shanti để xem chuyện "lạ nhất thế gian nhưng có thật".
Chiều hôm đó, Shanti vui vẻ
thúc mẹ làm cơm mời gia đình Chowbey và chỉ mẹ những món ăn mà Chowbey thường
thích. Khi thấy người vợ mới của Chowbey ngồi gần bên người em họ có đeo nhiều
nữ trang ấy trước đây là của mình (lúc ấy Shanti là Lugdi Devi), sau khi Lugdi
mất, Chowbey đã lấy nữ trang ấy cho người vợ kế đeo.
Sau bữa cơm, Shanti quay lại
hỏi Chowbey:
- Anh Chowbey, tại sao anh
lại cưới chị ấy? Có phải chúng ta đã đồng ý với nhau trước khi tôi nhắm mắt là
anh sẽ không cưới vợ lần nữa?
Cả nhà lại một phen kinh
ngạc vì câu nói hoàn toàn là của người lớn đầy vẻ trách móc, than oán, giận hờn,
lý lẽ luật lệ mà ngoài người lớn ra, tuyệt đối không thể một đứa trẻ nào có thể
phát ngôn một cách tự nhiên như vậy được.
Trong khi mọi người còn
đang ngơ ngác thì Chowbey đưa hai tay ôm lấy đầu cúi gục xuống không nói gì cả.
Có lẽ Chowbey đang tưởng nhớ lại người vợ cũ của mình cùng những gì mà hai người
đã ước hẹn thề nguyền với nhau hồi trước đó.
Hồi lâu, Chowbey ngẩng mặt
lên nhìn Shanti và hỏi:
- Shanti đã tả lại ngôi
nhà trước đây ở thị trấn Mathura như vậy, Shanti có thể biết được những gì
trong vườn nhà ấy chứ?
Shanti gật đầu nói:
- Phải, tôi còn nhớ rất rõ
ngôi nhà và cả khu vườn. Nơi khu vườn, ở phía góc có một cái giếng. Tôi thường
ngồi bên giếng để giặt quần áo, rửa đồ đạc và tắm nữa...
Chowbey lại hỏi:
- Làm thế nào mà Shanti lại
nhận được Nabanita là con mình vào giờ phút Shanti sắp qua đời lúc đó vì thằng
Nabanita chỉ mới được có 9 ngày thôi?
Shanti suy nghĩ một lúc rồi
trả lời Chowbey:
- Bởi vì Nabanita chính là
cuộc sống của tôi, là cuộc đời tôi...
Ngày 24 tháng 11 năm 1935,
một nhóm người trong ủy ban điều tra những sự kiện về Shanti đến nhà Shanti để
cùng đáp tàu hỏa đến thị trấn Mathura để nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề. Lúc bấy
giờ chuyện Shanti lan truyền khắp nước. Báo chí Ấn đăng tải nhiều chuyện rất lạ
lùng mà học điều tra được về Shanti nhất là nhà báo Indian Press, The Tej...
thường dành nhiều trang lớn để kể về chuyện lạ Shanti.
Cùng đi với phái đoàn có
Shanti và cha mẹ ruột của cô bé. Trên chuyến tàu, những người trong ủy ban điều
tra đã ghi nhận một sự kiện là khi gần đến nơi, Shanti đã thốt lên một câu như
sau:
- Đã 11 giờ rồi, cổng đền
Dwarikadesk sắp đóng đấy.
Trong câu nói ấy, người ta
thấy có một điều lạ là Shanti đã dùng một từ ngữ đặc biệt có tính cách hoàn
toàn địa phương và nhất là từ ngữ mà người Hindi hay dùng.
Dân chúng ở thị trấn
Mathura trong những ngày hôm ấy nôn nóng loan truyền với nhau về chuyện cô bé
tái sinh Shanti sẽ đến thăm lại nơi tiền kiếp cô bé đã sống. Báo chí Ấn Độ loan
tin ngày hôm đó có đến hơn 10.000 người tề tựu ở Sân ga của thị trấn Mathura để
xem mặt cô bé tái sinh.
Trong khi đó, Shanti ngồi
gọn trong lòng ông Deshbandu, một thành viên trong nghị viện Ấn. Bỗng Shanti thấy
một người đàn ông bước tới phía mình, liền chạy đến sờ chân người đàn ông ấy với
vẻ kính trọng xong đứng sang một bên nói cho Deshbandu nghe rằng: "đây là
người anh chồng lớn tuổi nhất lúc xưa của tôi". Mọi người nghe Shanti nói
thì hết sức kinh ngạc vì quả thật người đàn ông này chính là anh ruột của
Chowbey. Anh này ở Delhi và đáp tàu đến Mathura thăm gia đình Chowbey vì đã
nghe chuyện lạ lùng do Kanjimall kể lại và bất ngờ gặp nhóm người này.
Khi bước xuống sân ga, ông
Deshbandu bế Shanti lên chiếc xe ngựa chờ sẵn và nói người đáng xe là cứ theo sự
chỉ dẫn đường đi tới nhà của bé Shanti thử xem sao. Trên đường đi, Shanti cho
biết là ngày xưa (khi Shanti còn là Lugdi, vợ của Chobey) con đường dẫn tới nhà
mình không được rải đá tráng nhựa gì cả.
Đến nơi, Shanti bảo người
đánh xe ngựa ngừng lại rồi leo xuống đất rẻ vào một con đường để vào ngôi nhà
nhiều cây cối. Shanti gặp một người Bà La Môn (Brahmin) già liền dừng lại kính
cẩn chào, xong quay lại nói với những người đi theo sau:
- Đây là ông bố chồng của
tôi!
Trong khi đó, hai bên đường
làng, dân chúng nghe tin đồn từ trước về chuyện "Shanti về nhà cũ của tiền
kiếp" đã tụ tập rất đông để xem cho được cô bé tái sinh.
Còn Shanti sau khi chào bố
chồng thì đi ngay vào ngôi nhà một cách rất tự nhiên. Đây đúng là ngôi nhà của
người bố chồng, nơi mà trong tiền kiếp, lúc đó Shanti là Lugdi đã cùng Chowbey
đến ở một thời gian.
Shanti đã chỉ nơi mà trước
đây mình đã ngủ, nơi mình đã treo, móc, cất quần áo. Shanti còn tỏ ra quen thuộc
tự nhiên với những người ở trong ngôi nhà này. Điều kỳ lạ nhất là trong đám
đông đứng gần nhà, Shanti đã phân biệt rõ ràng được một thanh niên khoảng 25 tuổi
là anh ruột của mình ở tiền kiếp (lúc Shanti và Lugdi) và một người đàn ông lớn
tuổi mà Shanti gọi là anh của bố chồng.
Đến trưa, những người ở
trong ủy ban bảo Shanti chỉ đường cho họ đến thăm ngôi nhà của vợ chồng shanti
lúc Shanti là Lugdi đã chỉ đường rõ ràng và đến ngay ngôi nhà đó. Tại đây,
Shanti nhớ lại rằng mình đã có nói rằng ở khu vườn nhà có cái giếng và thường
ngôi tắm ở đó. Nhưng bây giờ không ai thấy cái giếng đâu cả. Shanti tỏ ra bối rối
và suy nghĩ. Sau đó, Shanti đến góc sân dùng chân dậm dậm xuống đất và nói:
- Nơi này này! tôi nhớ rõ
chính nơi này ngày trước có cái giếng mà...
Những người có mặt tại chỗ
đến ngay nơi Shanti đã dẫm chân lên. Họ quan sát thật kỷ và khám phá ra rằng đã
có một phiến đá lớn đặt lên đó và từ lâu ngày cỏ, đất phủ lên nên không còn thấy
miệng giếng nữa. Hai ba người đàn ông liền cố sức đẩy phiến đá đi và miệng giếng
lộ ra rõ ràng.
Bỗng Shanti như chợt nhớ
ra điều gì nên vội vã quay vào trong nhà. Shanti gọi những người trong ủy ban
theo mình. Lúc này có thêm sự hiện diện của Chowbey (chồng của Shanti kiếp trước).
Bước vào một căn phòng, Shanti chỉ xuống đất và nói:
- Đây là phòng ngủ của hai
vợ chồng tôi lúc đó, tôi có đào xuống nền nhà của phòng này để chôn dấu một số
tiền. Hãy đào chỗ này lên sẽ thấy cái hộp, trong đó tôi có để tiền...
Khi nền nhà được đào bới
lên, mọi người có mặt thấy một cái hộp đặt dưới một phiến đá nhưng khi mở hộp
ra thì không thấy có gì trong hộp cả.
Shanti nhíu mày tỏ vẻ suy
nghĩ và kinh ngạc nhưng cương quyết nói:
Tôi đã để tiền vào trong
cái hộp này mà! vậy ai đã lấy tiền đó vậy? Khi đó Chobey có mặt tại chỗ liền
nói ngay:
Vợ tôi là Lugdi có chôn hộp
tiền xuống nền nhà của phòng này. Khi Lugdi chết, tôi đã phải đào lấy tiền
trong hộp để trang trải mọi thứ.
Shanti nghe Chowbey nói liền
cúi đầu im lặng. Shanti còn chỉ căn nhà của cha mẹ mình ở tiền kiếp cho những
người trong ủy ban điều tra xem. Shanti bước những bước chân rất tự nhiên và vững
vàng quen thuộc lên các bậc cấp của ngôi nhà tựa hồ như đã ở đây hàng chục năm
rồi. ngay tại nhà này, đã có hàng mấy chục người vừa đàn ông vừa đàn bà vừa con
trẻ ngồi đứng chờ Shanti có thể nhận ra cha mẹ ruột tiền kiếp của mình không.
Tưởng cũng nên nhớ rằng
khi chuyện Shanti loan thuyền khắp nơi. Gia đình Lugdi vẫn còn nhiều ngờ vực.
Sau đó người nhà Lugdi (tiền kiếp của Shanti) đứng lẫn trong đám đông để khi
Shanti tới xem cô bé có nhận ra được cha mình ở kiếp trước không? Thế rồi khi
Shanti đến, cô bé đi thăm toàn thể ngôi nhà và phải đi ngang qua đám đông sắp
thành hàng ngang đứng quanh vườn nhà. Bỗng Shanti rẽ đám đông, tiến lại nắm tay
một người đàn bà kêu lên:
- Mẹ! Mẹ...
Sau đó, Shanti lại nhận được
người cha tiền kiếp của mình đứng trong đám đông. Hai người Shanti nhận là cha
ruột của mình ở kiếp trước chính là cha ruột Lugdi, vợ của Chowbey. Mọi người
có mặt lúc bấy giờ đã la hét vang rền và vỗ tay nồng nhiệt vì đã chứng kiến tận
mắt một chuyện lạ lùng nhất thế gian về hiện tượng tái sinh kỳ diệu. Shanti còn
đưa ủy ban đi thăm những nơi mà trước đây mà Shanti đã sinh sống qua thân xác của
Lugdi. Dân chúng quanh vùng càng ngày càng đổ xô đến xem chuyện lạ. Thị trấn
Mathura tự nhiên ồn ào náo nhiệt lạ thường. Bốn ngày sau đó Shanti cùng phái
đoàn trở lại Đê-Li. Thị trấn Mathura xa dần trong tầm mắt và càng lúc Shanti
càng tỏ vẽ u buồn rồi vì quá mệt mỏi, Shanti đã ngủ thiếp rất lâu trên đường về.
Có một điều đáng lưu ý khi
gặp Chowbey, ông Sushil Bose đã có dịp hỏi Chowbey, chồng của Lugdi về tình trạng
sức khỏe và bệnh tình của Lugdi ra sao đến nỗi phải chết. Chowbey cho biết rằng
vợ anh lúc đó là Lugdi bị nhiễm trùng do đạp phải một mảnh xương. Sau đó khi trở
về Đê-Li, ông Bose hỏi Shanti một câu như sau:
Shanti bảo rằng trước đây
Shanti là Lugdi, vợ của Chowbey. Vậy Shanti có nhớ lúc mình là Lugdi, thì đã bị
thương tích, đau ốm nguy hiểm gì trước khi qua đời không? Shanti suy nghĩ một hồi
rồi trả lời:
Lúc ấy tôi ( tức là Lugdi
rất sùng đạo( đạo Hindu) tôi thường hành hương nhiều nơi và hành lễ đúng thủ tục,
đôi khi còn vượt xa các thủ tục đã đề ra. Một hôm, tôi đã đi bộ bằng chân
không( chân đất không mang giày dép gì cả) để đi bộ quanh ngôi đền hiển linh rộng
lớn ở Harchapiri cả trăm lần không mỏi mệt. Nhưng không may là tôi đã dẫm phải
một mảnh xương sắc lẽm và bị nhiễm độc rất nặng. Chất độc lan vào máu và bác sĩ
đành phải bó tay. Khi nghe Shanti kể song sự việc, ông Bose đã ghi vào cuốn sổ
tay của mình một câu như sau:
Không còn nghi ngờ gì nữa
về hiện tượng tái sinh luân hồi của Shati Devi và Shanti là một trường hợp điển
hình. Tất cả những gì chính cô bé mô tả đều phù hợp hoàn toàn. Đó là điều khẳng
định sự thật hiển nhiên rằng Shanti là hậu thân của Lugdi và Lugdi chính là tiền
kiếp của bé Shanti.
Người Ấn từ ngàn xưa đã
tin vào thuyết luân hồi nên khi chứng kiến rõ ràng sự kiện cô bé Shanti thì họ
lại càng tin tưởng nhiều hơn nữa về hiện tượng tái sinh.
Riêng câu chuyện có thật về
Shanti thì từ năm 1935 đến nay các sách vở và các tài liệu viết về Shanti được
lưu trữ tại các văn khố và thư viện quốc gia khắp thế giới rất nhiều. Tài liệu
"Shanti" được coi như là tài liệu mẫu mực nhất cho các nhà nghiên cứu
về tiền kiếp và hậu kiếp tham khảo và tiếp tục nghiên cứu thêm.
Mới đây người ta còn bổ
sung thêm vào tài liệu Shanti một số sự kiện mới thí dụ những ghi chép trong
gia đình về giòng họ Shanti có ghi rằng trước khi Shanti lìa đời 3 hôm, Shanti
đã nói với anh mình rằng: "Em nghĩ em luôn luôn là kẻ trung thành, trước
sau như một với chồng em, cho dù anh ta (Chowbey) là chồng kiếp trước của em đi
nữa. Hơn nữa anh ta vẫn còn đó, vì thế em không muốn tái sinh lại lần nữa."
Được biết là suốt đời
Shanti vẫn độc thân không chịu lấy chồng cho đến ngày nhắm mắt (hưởng thọ 61 tuổi).
Trường Hợp Bé Dilukshi Ở
Sri - Lanka
Chuyện bé Dilukshi ở Sri
Lanka nhớ lại tiền kiếp mình cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu hiện tượng luân
hồi quay phim và viết thành sách. Chính giáo sư Erlendur Haraldson tại đại học
Iceland đã là người theo dõi sát về vấn đề này.
Câu chuyện có thật về bé
Dilukshi xảy ra như sau:
Năm 1986, bé Dilukshi vừa
tròn hai tuổi, mặc dầu với chừng ấy tuổi nhưng bé lại ăn nói những câu còn hơn
cả người lớn nữa. Trong các câu nói có những câu làm cha mẹ Dilukshi cảm thấy
lo lắng, bối rối. Mỗi lần nói với mẹ, Dilukshi chỉ gọi bằng Dì chớ không gọi bằng
mẹ. Bé lại còn năn nỉ cha mẹ hãy đem bé đến cho người mẹ ruột của bé đang ở tại
ngôi nhà thuộc vùng Dawbulla. Địa điểm này ở cách xa chỗ bé Dilukshi đang sống
khoảng 100 cây số. Mỗi lần nghe bé nói là cả nhà vừa ngạc nhiên vừa bực tức vì
cứ nghĩ rằng bé đã học của ai, nhưng kiểm soát lại thì trong gia đình chẳng có
người nào chỉ bày cho bé Dilukshi nói những câu như thế cả. Tuy nhiên cha mẹ
Dilukshi vẫn la rầy và bảo bé hãy câm miệng lại kẻo bị đánh đòn. Bé Dilukshi vẫn
không chịu bỏ câu nói và cách gọi mẹ bằng Dì, mà trái lại mỗi lần bị rầy la thì
bé Dilukshi lại trả lời như sau:
Cha mẹ con trước đây không
bao giờ la rầy con mà thường nói với con những lời âu yếm nhẹ nhàng thôi:
Ngoài ra Dilukshi còn khẳng
định rằng nó đã có lần bị rơi xuống sông Dawbulla.
Cuối cùng, cha mẹ Dilukshi
không thể yên tâm, mỗi ngày nghe con mình nói những điều mà họ cho là "vô
nghĩa lý". Họ nghĩ có thể con họ bị ma nhập, quỉ ám gì đó, vì thế cha mẹ
Dilukshi đã đến tiếp xúc với một vị cao tăng ở một ngôi chùa thuộc vùng
Dawbulla. Chẳng bao lâu, câu chuyện về bé Dilukshi được lan truyền khắp nơi.
Báo chí đã đưa tin tức về "bé gái Dilukshi lạ kỳ, nói về tiền kiếp của
mình". Dân chúng địa phương đua nhau đọc. Trong số đó có một người đàn ông
lớn tuổi, sinh sống ở Dawbulla khi theo dõi câu chuyện của bé Dilukshi thì tự
nhiên cảm thấy có sự trùng hợp lạ lùng với các tình huống đã xảy ra cho con gái
anh ta. Con gái của anh này tên là Shiromi đã bị rơi xuống gần sông Dawbulla và
đã chết (hôm đó là ngày 16 tháng 9 năm 1983; một năm trước khi Dilukshi chào đời).
Sau khi đọc bài báo, hai vợ chồng người này nôn nóng muốn được gặp Dilukshi vì
họ nghĩ rằng có thê Dilukshi là người con gái của họ tái sinh. Dilukshi chính
là Shiromi.
Nhờ sự giúp đỡ của một số
nhà báo, nhà nghiên cứu hiện tượng luân hồi. Hai gia đình vừa kể có điều kiện gặp
nhau. Theo I. W. Abeypala, người đã viết bài tường thuật và đưa tin trên báo
chí về câu chuyện bé Dilukshi thì đây quả là một câu chuyện kỳ lạ hiếm có về một
người đã chết rồi được tái sinh trở lại và đi tìm gặp cha mẹ mình ở tiền kiếp.
Chính Abeypala đã chứng kiến tận mắt bé Dilukshi nhận diện ra những người mà bé
khẳng định chắc chắn rằng đó là cha mẹ, anh chị em, cô dì, bà ngoại, của
mình...
Rồi những đồ chơi trước
đây của bé Shiromi được lấy từ tủ ra đã được Dilukshi lắp ráp lại với sự thành
thạo như đã từng chơi những thứ đó. Ngoài ra bé còn đi tìm thêm những thứ đã bị
thiếu trong những thùng đồ khác một cách hết sức tự nhiên. Thỉnh thoảng bé
Dilukshi còn kiểm điểm lại đồ chơi "lúc xưa" của mình xem thử có mất
mát cái nào không. Dilukshi còn lấy ở tủ sách một tập vở vẽ rồi lấy bút chì để
vẽ tiếp vào phần còn lại chưa vẽ hết. Mọi người chứng kiến các hành động và cử
chỉ của Dilukshi đều thấy rõ ràng rằng Dilukshi đã quá quen thuộc gia đình này
và theo như lời nói trước đây của bé khi chưa đến đây thì chính bé Shiromi, cô
bé đã rơi xuống sông chết ở Dawbulla.
Điều kỳ lạ là khi kéo các
tủ đựng quần áo, mặc dù các áo quần để không có thứ lớp,lẫn lộn nhưng
Dilukshi,vẫn lựa ra được những thứ áo quần nào là của Shiromi, người mà
Dilukshi cho là tiền kiếp của mình.
Khi mọi người cùng đến bên
bờ sông, Dilukshi đã đưa tay chỉ con sông bảo rằng năm Shiromi lên 9 tuổi đã bị
rơi xuống sông này. Abeypala kể lại rằng: Dilukshi đã nhặt một hòn đá nhỏ và liệng
xuống sông rồi bảo:
- Đó! đó chính là nơi con
đã té xuống.
Dilukshi còn nhớ lại những
gì mà mình (lúc đó là Shiromi) đã sống trước đó. Bé nhớ lại lúc chơi đùa với
người anh trai trên phiến đá nhô cao khỏi mặt đất và đã gọi đó là khối đá nhỏ
nhắn dễ thương Dawbulla mà từ trên đỉnh mỏm đá này, bé có thể trông thấy rõ mái
nhà của cha mẹ mình ẩn trong tàng cây. Khi những người đi theo Dilukshimô tả lại
cảnh ấy họ liền đi tìm thử ở cạnh bờ sông có khối đá nào như thế không thì quả
nhiên họ trông thấy một khối đá nhỏ nổi cao lên ở một vị trí nằm ngay giữa đoạn
đường từ con sông đến ngôi nhà của cha mẹ Shiromi khi leo lên đứng trên mỏm đá
này họ đều thấy rõ mái nhà của Shiromi lấp ló sau hàng cây.
Sự hội ngộ giữa hai gia
đình Shiromi và Dilukshi đã đem lại kết quả là cha mẹ của cháu bé Shiromi bất hạnh
nhận Dilukshi làm con gái của mình. Dilukshi được xem như Shiromi tái sinh. Còn
cha mẹ hiện nay của Dilukshi thì vẫn xem bé là con gái của mình, vì thế, giờ
đây, Dilukshi là người con của hai gia đình. Các người trong đoàn đi theo đã
quay phim và chụp ảnh hai gia đình chung cùng với nhau và sau đó họ tổ chức một
bữa tiệc mừng sự hội ngộ lạ lùng chưa từng có này.
Trường Hợp Bé Subashini.
Sonaw Gyatso là một bé gái
13 tuổi sống với cha mẹ tại Sri - Lanka. Căn nhà Sonaw Gyatso ở gần vùng rừng
núi. Theo lời thuật của cha mẹ Sonaw Gyatso thì cô bé thường hay sợ tiếng động.
Nhiều lần Sonaw Gyatso đã kể lại cho gia đình nghe rằng trước đây bé đã bị chôn
vùi vì đất lở do trận giông tố tạo mưa lớn gây nên. Năm Sonaw Gyatso 13 tuổi,
bé bắt đầu nói về kiếp trước của mình một cách rất tự nhiên.
Lúc đó con tôi là một cô
gái hái trà (hái chè) nơi đồn điền rộng lớn ở Sinhapitiya (Gampola). Thế rồi,
vào một đêm kia, trong một trận giông bão lớn đến khủng khiếp mẹ con lúc đó bảo
con hãy đốt đuốc lên và ra ngoài xem thử tình hình ra sao. Có thể đất, núi, đồi
quanh đó lở và sụp đổ không chừng... khi con cầm đuốc bước ra khỏi nhà, trời tối
đen, giông tố nổi lên và con đã bị phủ ngập trong những khối đá sụp đổ từ cao
xuống.
Sonaw Gyatso đã chỉ rõ nơi
mà thảm họa đã diễn ra và cả gia đình của Sonaw Gyatso lúc đó cũng đều bị chết.
Theo các tài liệu kiểm tra
được về những thảm họa xảy ra ở vùng này thì khoảng tháng 10 năm 1977 (khoảng
hơn 2 năm trước khi Sonaw Gyatso chào đời) đã có một trận đất chuồi (sụp lở)
làm chôn vùi dân cư ở đây. Báo hàng ngày Ceylon Daily Mirror đã đăng tải truyện
này và còn cho thấy những nấm mồ của những nạn nhân bị chết trong vụ đất lở
này, tổng số người bị chết là 28 người cả người lớn và trẻ con.
Điều kỳ diệu là Sonaw
Gyatso mặc dầu ra đời sau cuộc thảm họa ây nhưng lại mô tả lại thật rõ ràng những
gì đã xảy ra. Cha mẹ Sonaw Gyatso cho biết là chính họ cũng không hiểu rõ chi
tiết như con họ đã mô tả. Như vậy Sonaw Gyatso đã nhớ lại kiếp trước của mình
và nhớ luôn cả những gì đã xảy ra lúc đó. Sonaw Gyatso còn cho biết là chỗ ở của
mình lúc đó cách xa chỗ ở hiện nay 100 cây số. Sonaw Gyatso còn tả chi tiết về
những người trong nhà làm gì trước khi trận chuồi đất xảy ra. Theo Sonaw Gyatso
thì người anh cả tối đó có về nhà nhưng rồi lại đi ngay trước khi cơn thảm họa
kéo tới nhờ đó mà anh thoát chết. Ngoài ra người chị của Sonaw Gyatso tối hôm
đó cũng không có mặt ở nhà. Các nhà nghiên cứu sự kiện tái sinh đã cố gắng đi
sâu vào vấn đề. Họ nghĩ tại vùng xảy ra đất chuồi năm 1977, những thân nhân của
những người bị nạn chắc chắn vẫn còn sinh cơ lập nghiệp quanh đó và hy vọng sẽ
tìm ra được người đàn ông mà Sonaw Gyatso đã bảo là người anh cả trong nhà đã
thoát chết khi thảm họa xảy ra. Sau đó chính Sonaw Gyatso đã nhận ra được người
này và khi hỏi lại thì chính anh ta còn nhớ rõ ràng trước khi xảy ra tai nạn đất
lở, anh ta có về nhà và đã rời khỏi nhà tức thì có công việc riêng. Khi hỏi về
người em gái của anh ta thì anh ta buồn rầu trả lời:
- Em tôi cũng đã bị chết
trong trận bão tối hôm đó rồi. Em tôi tên là Mallika (Devi Mallika). Để tìm
đúng nơi mà Sonaw Gyatso đã mô tả, đoàn nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của ông
I.B.Herath đã leo lên ngọn núi, từ đó nối liền với những đồi chè thoai thoải. Mọi
vật chẳng có gì thay đổi ngoài một vài nơi đất sụt lở dưới chân đồi, dưới có
nhiều ngôi nhà bị chôn vùi trong đất đá, Herath đã đúc kết lại những gì đã xảy
ra trong thảm họa đó. Lúc đó khoảng 8 giờ tối ngày 27 tháng 10 năm 1977 sấm sét
càng lúc càng mãnh liệt tiếp theo sau 4 ngày mưa tầm tã. Bất thình lình một tảng
đá hoa cương (granite) khổng lồ nặng hàng ngàn tấn sụt lở từ trên cao lôi cuốn
theo đất, bùn sụt lở ào ào đổ xuống sườn núi và chôn vùi tất cả những gì nằm ở
bên dưới, trong đó có bé Mallika và gia đình của bé.
Trong bản ghi các tài liệu
về trường hợp của Sonaw Gyatso có một đoạn mô tả cách uống trà của Sonaw Gyatso
khá lạ lùng. Thường ngày Sonaw Gyatso đều uống trà, đó là thói quen khó bỏ
nhưng cách uống trà lại có phần kỳ dị. Mỗi lần uống, Sonaw Gyatso đổ một ít đường
vào lòng bàn tay rồi khi uống một hớp trà thì lại dùng lưỡi liếm một tí đường
cho ngọt miệng. Cha mẹ Subashini đã ngạc nhiên về cách uống trà của con mình và
chẳng hiểu vì sao Subashini lại thích uống trà theo kiểu lạ lùng như vậy. Mãi về
sau, khi người đàn ông mà Subashini bảo là anh cả của mình từ kiếp trước kể
chuyện uống trà trong gia đình anh ta thi khi đó mới vỡ lẽ ra rằng: Sở dĩ
Subashini uống trà theo cách vừa mô tả là do khi Subashini còn là Mallika (tiền
kiếp) thì trong gia đình này vì quá nghèo không đủ khả năng mua nhiều đường pha
vào tách trà để uống thường lệ mà phải "chấm mút" nhỏ giọt theo
phương cách đã kể. Cái thói quen uống trà kiểu đó vẫn còn lưu giữ đối với
Subashini khi tái sinh.
Giờ đây, các nhà nghiên cứu
không còn nghi ngờ gì nữa về những gì mà chính Subashini đã kể về đời sống tiền
kiếp của mình, về những gì đã xảy ra cho mình và cho gia đình, tất cả đều phù hợp
với những gì mà các nhà nghiên cứu đã tìm thấy. Ngoài ra sự kiện Subashini uống
trà theo những cách thức liếm đường trong lòng bàn tay và nhất là kinh hoàng hốt
hoảng, lo sợ khi nghe tiếng sấm vang đều là những bằng chức hết sức rõ ràng chứng
minh rằng bé Millika đã tái sinh trở lại qua bé Subashini vậy.
Trường Hợp Duminda Hậu
Thân Của Một Vị Sư Trưởng Hay Ven Gunnepara Tái Sinh?
Tại Sri Lanka có một bé
trai tên là Duminda. Khi sinh ra và lớn lên, cháu bé cũng giống như bao nhiêu
em bé khác, chẳng có gì đặc biệt. Nhưng đến năm 3 tuổi tự nhiên Duminda biết tụng
kinh như một chú tiểu và lạ lùng hơn nữa là bé tụng kinh theo nguyên văn tiếng
Pali một thứ tiếng rất khó thuộc về ngôn ngữ cổ xưa của Phật giáo Ấn Độ.
Gia đình Duminda trước đó
cũng đã có ý định muốn gởi bé vào một tu viện địa phương và họ muốn chuẩn bị
cho con mình trở thành một chú tiểu để dần dần trở nên một nhà chân tu sau này.
Duminda được bố mẹ dẫn đến
thủ đô của một vùng đảo nổi danh được xem như là trung tâm tôn giáo nổi tiếng
nơi mà Đền thờ Răng Thiêng của Phật được xây cất, địa điểm này ở gần với tu viện
Asgiry.
Trong thời gian còn bé,
Duminda sống với ông bà chớ không ở với cha mẹ. Ngay từ tấm bé, Duminda thường
ăn mặc rất khác người. Thường ngày bé khoác bên mình một miếng vải màu vàng (vắt
ngang qua vai giống kiểu áo choàng của những nhà sư thường mặc). Cứ mỗi ngày,
Duminda đến viếng nơi Đền Thiêng. Nơi đây bé Duminda tụng kinh Pali.
Cha mẹ Duminda cho biết:
Năm lên ba tuổi, Duminda tự nhiên nói một câu như sau:
- Trước đây tôi là một nhà
sư ở đền Asgirya.
Ông ngoại của Duminda cũng
cho biết là thường khi đứa cháu này thúc giục mọi người trong gia đình hãy đến
Đền Asgirya để lễ bái.
Sáng nào Duminda cũng dậy
sớm, khoát tấm vải màng như đắp y lên mình rồi bước ra cửa đứng trước mặt nhà
nhìn người qua lại. Mỗi lần thấy bóng dáng một vị sư bước lên xe bus là Duminda
kêu to lên như nhắc nhở:
- Kìa, kìa, nhà sư đã lên
đường rồi, tôi cũng muốn đến Đền Asgirya, hãy để tôi đi!
Những gì mà cả nhà sư thường
làm như giờ trai tăng, giờ tụng kinh, giờ đọc sách, lễ phật... thì Duminda đều
làm đúng theo như một vị sư đã tu trì lâu ngày trong chùa vậy. Người mẹ Duminda
thì kể rằng: Duminda rất sạch sẽ, thường căn dặn mẹ là không nên đụng tay vào một
vị sư nào vì đó là điều cấm kỵ. Ngay cả khi người mẹ tắm cho Duminda thì chỉ có
múc nước xối lên người bé thôi chớ không được kỳ cọ đụng tay vào da thịt bé.
Duminda cũng không chơi với những trẻ con khác vì tự nhận mình là người lớn,
luôn luôn tỏ ra đàng hoàng nghiêm túc. Bé thường dặn người trong nhà hãy gọi
mình là chú tiểu hay sư nhỏ cũng được hoặc gọi bằng hai chữ Podi Sadhu. Duminda
dần dần không còn là đứa bé kỳ dị đối với gia đình nữa. Cha mẹ Duminda chẳng
còn ngạc nhiên hay lo lắng về những cử chỉ, lời nói lạ lùng của bé nữa vì họ
xem Duminda như có "căn cơ" "nghiệp lực" tu trì từ nhỏ và
chắc chắn sẽ thành vị sư tài ba sau này. Vì thế họ dự định gởi Duminda vào tu
viện, ở Tích Lan cũng có tục lệ gần giống với Tây Tạng về vấn đề con trẻ thường
được cha mẹ gởi vào tu viện để được đào tạo và trở thành tu sĩ sau này.
Duminda thường dùng cái quạt
cầm tay để che trước mặt giống như những nhà sư thường làm và ngâm thơ một cách
thành thạo. Khi gặp các nhà sư ngoài đường hay đến nhà. Duminda luôn luôn nhắc
đi nhắc lại rằng mình trước kia (kiếp trước) cũng là một nhà sư tu hành ở
Asgirya. Duminda còn cho biết là tại đó có một tu viện lớn và mình có một ở với
đầy đủ đồ đạc và của cải. Ngoài ra, còn có một chiếc xe mô tô nữa. Duminda thường
ngỏ ý muốn được đến Asgirya thể thăm ngôi Đền Thiêng và coi lại căn phòng, đồ đạc
và chiếc xe của mình.
Những nhà sư đã có lần gặp
Duminda đều có nhận xét rằng: "Đây là một đứa trẻ có phong cách, cử chỉ, lời
nói lạ lùng hoàn toàn khác xa với những đứa trẻ khác. Nhiều người đề nghị là
nên đưa Duminda đến Asgirya một chuyến thử xem sao.
Chuyến đi được sắp đặt chu
đáo. Ngày khởi hành là ngày chủ nhật, tháng 10 năm 1987. Cùng đi với Duminda đến
Asgirya có một số nhà báo và nhà khoa học. Một số nhà báo của tờ báo nổi tiếng
Island là Oliver Silva cũng tháp tùng theo. Suốt cuộc hành trình. Duminda rất
tành về đường sá dẫn đến tu viện chính ở Asgirya Duminda còn nhắc lại những tập
tục ở đó nhất là những phương thức, nghi lễ cầu nguyện. Duminda nhắc lại là lúc
còn là vị sư ở đó, Duminda đã được tôn kính và nể trọng.
Khi tới nơi, một vị sư đã
nghe qua chuyện kể về Duminda và nêu lên câu hỏi như sau:
Chào Duminda, chẳng hay
Duminda có biết cây Bồ Đề nơi dấu tích Linh Thiêng của phật ở đâu chăng?
Duminda nghe vị sư hỏi
mình cái đó thì im lặng không trả lời nhưng bước đi thật nhanh không do dự qua
một nơi với nhiều bậc cấp quanh co và đến nơi có ngôi điện nằm dưới cây Bồ Đề.
Khi vào trong tu viện,
Duminda tự nhiên đi qua các phòng như người đã ở đây từ lâu rồi. Đến một phòng
khá khang trang gần tu viện Dumind mở cửa và chỉ vào trong nói với mọi người:
- Đây là căn mà xưa kia
tôi đã ở.
Các nhà sư có mặt ở tu viện
vô cùng kinh ngạc, họ không dám coi thường Duminda, họ tỏ vẻ kính nể ra mặt. Một
vị tu sĩ mời Dumimda ngồi cho đỡ mỏi nhưng Duminda vẫn đứng yên chờ cho đến ki
có người đem miếng khăn trắng phủ lên ghế mới chịu ngồi xuống vì đó là tục lệ đặc
biệt dành cho một vị cao tăng.
Duminda lúc bấy giờ mới chững
chạc, chậm rãi kể về thân của mình cho mọi người nghe.
- Trước đây tôi là một vị
sư và đã qua đời sau một lần té ngã xuống đất. Lúc đó tôi cảm thấy đau tức ở ngực
thật dữ dội và được chở tới bệnh viện nhưng không thể cứu chữa được nữa.
Khi một bức ảnh xưa chụp
12 vị sư được đem ra trao cho Duminda xem thì Duminda nhìn ảnh một hồi lâu rồi
đưa ngón tay chỉ một vị sư đứng trong ảnh và nói:
- Người này chính là tôi!
Lúc bấy giờ hai vị sư già
và vị cao tăng trong tu viện xem lại người mà Duminda đã chỉ trong bức ảnh thì
họ đều xác nhận được chính là vị sư trưởng của tu viện tên là Ven Gunnepana. Vị
này đã qua đời năm 1929. Điều trùng hợp lạ lùng với những gì mà Duminda đã nói
trước đó là vị sư trưởng này có của cải, tiền bạc và có một chiếc xe mô tô nữa.
Duminda còn chỉ cho mọi
người thấy nơi mà trước đây mình đã ngủ, nơi treo các quần áo.
Trước bàn thờ Phật.
Duminda kính cẩn quỳ xuống làm lễ tụng kinh bằng tiếng Pali.
Có lần một người trong
đoàn nghiên cứu hiện tượng Dumimda tái sinh đã hỏi:
Duminda học những bài kinh
tiếng Pali này ở đâu? thì Duminda trả lời như sau:
(.... bản gốc bị thiếu)
Bác sĩ Ian Stevenson đã
phát biểu như sau khi nghiên cứu kỷ hiện tượng lạ lùng về cậu bé Duminda.
Đây là một trường hợp ly kỳ
và lý thú về hiện tượng được gọi là hiện tượng luân hồi tái sinh. Một hiện tượng
cho đến nay rõ ràng khoa học chưa có thể giải thích nhưng càng ngày con người
càng gặp nhiều hiện tượng tương tự xảy ra khắp nơi trên thế giới...
Sự kiện vừa kể trên được
xem như trường hợp thuộc về hiện tượng hoá thân trở lại của những vị chân tu để
hoàn tất một tâm nguyện như tiếp tục cứu độ chúng sinh chẳng hạn. Và sự kiện
này đã trở thành thông thường nơi xứ Tây Tạng.
Sự Tái Sinh Của Những Vị
Hóa Thân
Sự tái sinh luân hồi được
hiểu đơn giản là sự đầu thai lại và người Tây Tạng tin tưởng rằng có những vị
cao tăng, những vị sư trưởng, khi chết thường có ý nguyện được tái sinh trở lại
để giúp đỡ chúng sinh. Các vị Bồ Tát mặc dù đã thoát khỏi vòng luân hồi Nhân Quả
nhưng họ vẫn muốn được đầu thai trở lại để hoàn tất ước nguyện cứu độ những kẻ
còn chìm đắm trong mê mờ tối tăm ở cõi thế.
Danh từ Hóa Thân được dịch
từ chữ Tulkus và được hiểu như đã nói trên. Thật ra từ Hóa Thân chỉ dùng cho những
vị Bồ Tát còn muốn tái sinh trở lại. Nhiều sách vỡ đôi khi còn dịch chữ Hoá
Thân qua từ Reincamation. Từ Reincamation chỉ sự đầu thai của tất cả những
chúng sinh còn bị nghiệp quả luân hồi tác động. Trái lại từ Tulkus chỉ sự đầu
thai trở lại theo ý muốn, vì những người đầu thai này thật sự đã thoát khỏi sự
ràng buộc của luân hồi. Những vị này sau khi đã đầu thai rồi, họ vẫn ý thức được
rõ ràng về tiền kiếp của mình và biết rằng mình tái sinh trở lại là để thực hiện
một ý tưởng vị tha cao cả cho chúng sinh.
Theo các tài liệu nghiên cứu
về Phật giáo Tây Tạng và nhất là những cuộc đời của Đức Đại Lai Lạt Ma Tây Tạng
(mà chúng tôi may mắn đã có được một tài liệu giá trị của tác giả Phương Dung
viết về đề tài này trên báo Hồn Việt và báo Việt Nam (1993) thì từ năm 1419 Tây
Tạng đã có truyền thống về sự hóa thân khi Đại Sư Tsong Khapa qua đời. Vị này
đã chỉ định sư Gedum Truppa thay thế mình. Chính vị sư này đã nguyện rằng sau
khi chết sẽ tái sinh trở lại để cứu độ chúng sinh và hoàn tất những gì mình
chưa làm xong cũng như phát triển việc huấn luyện các tu sĩ phái Gelugpas thường
được gọi là phái Mũ Vàng lúc đó đang gặp nhiều khó khăn trở ngại.
Theo Đại Sư Gedun Truppa
thì hóa thân trở lại trần gian, ông sẽ đầu thai trở lại qua các vị Đạt Lai Lạt
Ma. Để các đệ tử biết được mình sẽ hóa thân vào người nào, Đại sư đã chỉ rõ một
vài thứ đồ dùng hằng ngày của mình và viết một bài kệ đặc biệt. Ngày sau cứ
theo đó mà suy đoán. Sau khi Đại sư Gedun Truppa viên tịch được 2 năm, các đệ tử
đã thăm dò, theo dõi, tìm kiếm khắp nơi những gì khả dĩ nói lên được sự tái
sinh của Đại Sư.
Lúc bấy giờ ở một vùng kế
cận Thủ Đô, có một bé trai mới 2 tuổi nhưng ăn nói và hiểu biết thông thạo như
người lớn. Nghe được tin này, các đệ tử của Đại Sư đã tìm đến tiếp xúc. Họ thấy
cậu bé trả lời những câu hỏi do họ đưa ra rất trôi chảy. Sau đó là cuộc thử
thách, họ đặt những di vật của Đại Sư Gedun Truppa lẫn lộn với nhiều đồ vật
khác của những vị sư khác trong tu viện trước mặt cậu bé rồi hỏi như sau:
- Hãy cho biết những thứ
nào người đã thường dùng ngày xưa?
Cậu bé nhìn tất cả các thứ
rồi lựa chọn những di vật của Đại Sư Gedun Truppa để riêng ra một bên rồi nói:
- Đây là những thứ tôi thường
dùng ngày trước.
Các đệ tử vô cùng kinh ngạc,
một người nhớ lại bài kệ liền đưa cho cậu bé đọc thử. Không ngờ vào tuổi nhỏ
như vậy mà cậu bé lại đọc được cả bài kệ và còn giải thích luôn những đoạn khó
hiểu cho mọi người nghe.
Sau khi đã chắc chắn đó là
vị Hóa Thân của Đại Sư Gedun Truppa. Các đệ tử đã rước cậu bé về tu viện và tôn
lên làm Sư Trưởng với danh hiệu là Gedun Gyatso. Tại tu viện, cậu bé đã được huấn
luyện rất kỷ về giáo lý quy luật và mọi thứ dành cho vị Sư Trưởng sau này.
Gedun Gyatso rất thông minh, học một biết mười, có lần cậu bé thấy nhiều người
trong tu viện kinh ngạc về trí thông minh của mình nên đã nói một câu như sau:
- Thế các người không biết
ta chính là Đại Sư Gedun Truppa hay sao?
Về sau, cậu bé đã lớn lên
trong tu viện cùng với các tài năng xuất chúng của mình. Lúc bấy giờ ông là một
Sư trưởng nổi danh về tài đức, thông suốt mọi kinh điển Phật giáo và đã đi rao
giảng, giúp đỡ mọi người từ những làng mạc xa xôi đến những nơi heo hút khiến mọi
người dân ở Tây Tạng đều tôn sùng kính nể. Sư trưởng có nhiều ước nguyện trong
vấn đề cứu độ chúng sanh. Nhưng chưa thực hiện được bao nhiêu thì bệnh bất ngờ
và qua đời. Trước khi tắt hơi, vị Sư trưởng này đã trăn trối lại mình sẽ tái
sinh lần nữa để mong hoàn tất ý nguyện. Lần này, ông để lại một số di vật khác
trước và một bài kệ mới để các đệ tử dùng trong việc tìm ra người mà Sư trưởng sẽ
đầu thai vào. Không đầy một năm rưỡi sau, người ta phát hiện được một ngôi làng
ở rất xa thủ đô có một cháu bé ra đời trong một gia đình nghèo. Bé này có những
cử chỉ và lời nói rất lạ lùng. luôn luôn tỏ vẻ nôn nóng và yêu cầu về đến được
chính tu viện để gặp mặt một số vị sư ở đó. Tu viện chính liền cử ba người đến
ngôi làng ấy. Khi đi, họ đem theo các di vật của Sư trưởng cùng bài kệ. Trước
lúc phái đoàn đến nhà một ngày, cháu bé đã báo cho gia đình biết là: "Ngày
mai sẽ có khách quý đến thăm, hãy chuẩn bị trà nước đón khách". Quả nhiên
ngày hôm sau phái đoàn tu sĩ của tu viện chính đến, cháu bé đã nhận ra một người
trong đoàn, đó là một vị sư già thường lo việc giao tiếp giữa các ngôi chùa,
các tu viện, cháu bé đã hỏi thăm về tình hình ở tu viện cùng những việc mà lúc
sinh tiền, Sư trưởng Gedun Gyatso đã biết qua. Các vị sư lại bày ra các di vật
của sư trưởng chen lẫn với những thứ khác vào và yêu cầu cháu bé chọn ra hai đồ
vật mà trước đây Sư trưởng Gedun Gyatso thường dùng và còn chỉ vào một vật thứ
ba rồi bảo rằng:
- Vật này ta thường dùng hằng
ngày. Nhớ giữ gìn cẩn thận kẻo sứt mẻ.
Riêng bài kệ, cháu bé đọc
song suốt và còn bảo rằng: "bài kệ ngày xưa vẫn còn lưu trữ tại tu viện chứ?"
Cháu bé được tôn vinh sau
đó làm vị Đại Sư tên là Sonaw Gyatso. Đây là vị Đại Sư tài ba lỗi lạc còn hơn cả
vị Sư trưởng trước. Điều này được các vị Trưởng Lão giải thích rằng: qua nhiều
lần tái sinh và học hỏi, lần tái sinh sau bao giờ cũng đặc sắc hơn vì đây là một
sự tiến hóa, trong đó có sự tiến hóa rõ ràng về kiến thức. Hơn nữa vì sự Hóa
thân nên các vị này luôn luôn tu bồi thêm công quả và sự học hỏi của mình. Đại
sư Sonaw Gyatso đã là người tạo sự giác ngộ lạ lùng cho danh tướng hung dữ Đại
Hãn và cũng từ đó mà tướng Mông Cổ này đã phong Đại Sư làm Đạt Lai Lạt Ma và cầu
mong Đại Sư bảo vệ và giáo hóa cho người Mông Cổ.
Năm 1588, Đại Sư Sonaw
Gyatso qua đời, lần này vị Đại Sư căn dặn các đệ tử trước khi xuôi tay là mình
sẽ lại tái sinh một lần nữa để cứu độ người Mông Cổ. Vị Đại Sư đã để lại một số
di vật và một bài kệ ngắn để các đệ tử đối chiếu và tìm kiếm người hóa thân.
Đến khoảng năm 1593, các đệ
tử mới tìm gặp một bé trai 5 tuổi có những điều rất phù hợp với cuộc thử nghiệm.
Bé trai này được đưa về tu viện và phong danh hiệu là Yonsten Gyatso Tưởng nên
biết rằng bé trai này gốc gác là cháu nội của Đại Hãn Mông Cổ Về sau, bé trai
này trở thành Đạt Lai Lạt Ma và chính nhờ vị này mà nhân dân Mông Cổ trải qua
được một thời đại vững bền, an cư lạc nghiệp.
Khi Yonsten Gyatso, vị Đạt
Lai Lạt Ma thứ 4 này qua đời, các đệ tử lại theo truyền thống như trình bày từ
trước để tìm người kế vị. Đó là Hóa thân của chính Yonsten Gyatso. Đây là vị Đạt
Lai Lạt Ma thứ 5 danh hiệu là Lobsang Gyatso. Trong đời ngài, cung điện Potala
được xây dựng cùng với nhiều tu viện và đào tạo nhiều tu sĩ có nhiều khả năng từ
đạo đức đến học vấn. Tây Tạng nhờ đó ngày càng phát triển mạnh về nhiều mặt.
Các vị Đạt Lai Lạt Ma tuần tự nối tiếp theo phương thức Hóa thân đã cố gắng
chăm sóc nhân dân và gìn giữ đất nước được độc lập lâu dài trong suốt mấy trăm
năm.
Nhưng rồi tai họa lại xảy
đến cho toàn dân vì Tây Tạng nằm bên áp lực của những nước lớn như Nga và Trung
Cộng, ngoài ra còn chịu áp lực của những nước khác nữa. Lúc bấy giờ vị Đạt Lai
Lạt Ma thứ 13 của Tây Tạng là Thupten Gyatso đã tìm đủ mọi cách để chống đỡ đất
nước nhưng càng ngày Tây Tạng càng bị ngoại bang nhòm ngó. Ngài biết trước thế
nào đất nước ngài cũng gặp thảm họa nhưng ngài lại không thể sống thêm để cứu
nguy dân tộc và đạo pháp. Sau khi ngài qua đời, Trung Cộng tung quân xâm lược,
đàn áp người dân Tây Tạng và tìm cách triệt hạ tôn giáo.
Tục truyền rằng khi vị Đạt
Lai Lạt Ma Thupten Gyatso qua đời, nhục thân ngài ở vị thế ngồi tĩnh tọa và được
ướp xác theo phương pháp cổ truyền. Nhưng sau đó các tu sĩ thấy mặt ngài đã
chuyển về hướng Đông Bắc. Vị sư già nhiều kinh nghiệm đã suy ra rằng đức Đạt
Lai Lạt Ma đã chỉ hướng, nơi mà ngài lại tái sinh. Từ đó cuộc tìm kiếm vị Hóa
thân của ngài được tiến hành. Phái đoàn lên đường nhắm hướng Đông Bắc mà đi.
Trên đường họ thu thập thêm các sự kiện có liên hệ. Một hôm họ nghe đồn về một
cháu độ 3 tuổi rất thông minh và thường nhắc đến các vị sư cũng như thích kinh
điển. Phái đoàn đến ngôi nhà đó. Đây là một ngôi nhà xây bằng đất tọa lạc bên cạnh
một cây cổ thụ sum xuê. Khi phái đoàn bước vào thì gặp cháu bé. Cháu bé rất vui
mừng khi thấy các nhà sư vào nhà mình nên chạy vội đến mà ngồi lên đùi một vị
trưởng lão hòa thượng vì vị này có đeo một chuỗi hạt rất đẹp vị sư hỏi:
- Tên ngươi là gì?
Cháu bé đáp:
- Tôi là Lhamo
Vị sư lại chỉ một nhà sư đứng
bên cạnh và hỏi:
- Đây là ai?
Cháu bé đáp:
- Đây là Lạt Ma Scra.
Phái đoàn đã biết được một
phần nào kết quả khi trắc nghiệm cháu bé Lhamo, nhưng họ còn phải tìm hiểu thêm
nữa trước khi quyết định tháp tùng Lhamo về tu viện. Lần sau họ đưa ra một số
xâu chuỗi khác nhau và yêu cầu Lhamo phân biệt thử xâu chuỗi nào là của Đạt Lai
Lạt Ma thứ 13 thường dùng. Lhamo liền bước đến dùng xâu chuỗi không đúng của Đạt
Lai Lạt Ma ra và chỉ giữ lại xâu chuỗi của ngài đã dùng trước đây. Các vị tu sĩ
đều kinh ngạc vì quả thật xâu chuỗi đó chính là xâu chuỗi của Đạt Lai Lạt Ma thứ
13. Các cuộc trắc nghiệm kế tiếp đều được Lhamo làm đúng hoàn toàn. Do đó phái
đoàn quyết định đưa Lhamo về kinh đô. Mặc dầu đường sá khó khăn lại thêm quân đội
Trung Cộng gây cản trở nhưng cuối cùng phái đoàn cũng đưa được Lhamo về cung điện
Potala. Đến năm gần 5 tuổi. Bé Lhamo chính thức được tôn vinh là Đạt Lai Lạt Ma
lần thứ 14. Trong suốt 20 năm, vị phật sống này phải được huấn luyện về mọi mặt.
Tuy nhỏ tuổi nhưng ngài phải vượt qua nhiều thử thách cam go về giờ giấc, học
hành, và nhất là thực hành các pháp môn và giáo lý Phật giáo... Trong khi đó,
tình hình chính trị không yên. Trung Cộng tìm đủ mọi cách để gây hấn vì thế năm
1959 Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã phải trong đêm khuya trốn khỏi điện Potala để vượt
biên giới để lánh nạn ở Ấn Độ. Trên đây là những giai đoạn Hóa thân của Đạt Lai
Lạt Ma Tây Tạng. Thật sự thì sự hóa thân được xem như khởi đầu từ Đại Sư Gedun
Truppa trở đi.
Khi một vị Đạt Lai Lạt Ma
qua đời, vị này thường có được ước nguyện tái sinh trở lại, việc đi tìm cho
đúng ai là người Hóa thân của những vị này là cả một vấn đề rất khó khăn. Đôi
khi phải mất 3, 4 năm hay hơn mới tìm ra được vị hóa thân. Vì thế mỗi khi một vị
lãnh đạo tôn giáo cao cấp của Tây Tạng qua đời thì họ sẽ đầu thai trở lại.
Mới đây các vị sư Tây Tạng
trú tại Ấn đã lưu ý đến trường hợp một cậu bé 5 tuổi tên là Simon cậu bé này có
lời nói và cử chỉ rất lạ lùng. Khi gặp tu sĩ Geshe Lobsang Tsepel, 62 tuổi( viện
trưởng của trung tâm Phật giáo Tây Tạng ở San Dioge) cậu bé đã bước tới nói một
câu rất tự nhiên:
À! Tôi biết ông nhưng có lẽ
ông không nhận ra tôi?! Chính tôi là người mà ông thường ở kề cận.
Lúc đầu tu sĩ Geshe
Lobsang Tsepel cứ tưởng cậu bé tập nói theo kiểu người lớn nhưng khi ông này cuối
xuống nhìn vào mắt cậu bé Simon và hỏi lại một câu rằng: "vừa rồi Simon đã
nói gì?" thì bé vẫn trả lời: "tôi biết ông!" vừa nói Simon vừa
đưa tay mân mê chiếc còng của tu sĩ Geshe tỏ vẻ thân mật vô cùng.
Vị tu sĩ này sau đó, trở lại
hỏi người trong gia đình này về trường hợp của bé Simon thì được cha mẹ Simon
cho biết thêm chi tiết như sau:
Bé Simon rất khác thường nếu
so sánh với các trẻ con khác, suốt ngày Simon chỉ ngắm trời mây, đi dạo trong
nhà hay trong sân. Ít thích chơi đùa nghịch ngợm, thường tư lự như một người đứng
tuổi. Mới đây Simon lại có các biểu hiện lạ lùng như tự nhiên nói những lời
tiên tri. Có lần Simon khuyến cáo trong nhà không nên nghe lời người hàng xóm để
đi xa thì thật sự nơi đó chẳng có gì. Lần khác Simon bảo người cha nên ở nhà
trong một ngày mà Simon bảo ngày ấy là rất xấu cho ông. Quả hôm đó chỗ ông định
tới lại bị lụt lớn, gãy cầu, nếu ông đi sẽ bị kẹt lại đó một thời gian.
Cậu bé Simon sinh tại
California Hoa Kỳ và đã tình cờ gặp tu sĩ Geshe Lobsang Tsepel khi vị này đến
thăm Victoville thuộc vùng sa mạc Nam Cali. Sau khi thấy ở bé Simon những biểu
hiện lạ lùng, vị tu sĩ này trở về và hôm sau nằm mộng thấy vị thầy của mình thuở
trước. Đó là Lạt Ma Lobsang Phakpa, người đã viên tịch tại Trung Quốc vào đầu
thập niên 1950, trong giấc mơ, vị Lạt Ma này như có điều gì nhắn gởi với tu sĩ
Geshe Lobsang Tsepel. Khi vị tu sĩ giật mình thức dậy, ông tự nhiên có ý nghĩ rằng
có lẽ bà Simon là Hóa thân của Lạt Ma Lobsang Phakpa chăng vì ngày xưa tu sĩ
Geshe Lobsang thường sống gần gũi bên vị Lạt Ma này và vị này mỗi khi nói điều
gì cũng thường hay lấy tay sờ hay ấn vào cằm tu sĩ Geshe Lobsang giống như bé
Simon đã làm. Sau đó, tu sĩ này đã viết một bức thư đầy đủ chi tiết gởi về Ấn Độ
để thỉnh ý quý vị lãnh đạo tu viện cũ có liên hệ với Lạt Ma Lobsang Phakpa.
Sau một thời gian tìm hiểu,
trắc nghiệm, quý vị trong ban lãnh đạo tu viện đã quyết định gởi bé Simon qua Ấn
để tìm hiểu thêm và nếu quả thật thì bé Simon sẽ được giáo dục theo phương pháp
và chương trình giáo dục của tu viện Tây Tạng.
Cũng cần biết thêm là trước
đó vài năm, tại Tây Ban Nha người ta cũng phát hiện được một cháu bé được nghi
ngờ là một Hóa thân của một vị Lạt Ma. Và năm 1992 người ta cũng phát hiện được
một bé trai có cử chỉ và lời nói hoàn toàn giống Đức Phó Tăng Thống Tây Tạng.
Sau đó Đạt Lai Lạt Ma đã đồng ý gởi bé qua Ấn Độ tìm hiểu thêm đó có phải là một
Hóa thân của vị Tăng Thống ấy không.
xem tiếp: * Kết Luận
xem tiếp: * Kết Luận
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...