Tôi đi ngang một khu chợ tự phát, thấy
cô bé độ 15-16 mặt mày xinh xắn đang ngồi chào mời khách mua lươn. Cái chậu
lươn của em có đến mấy chục con. Em đang làm lươn, vẻ mặt rất bình thản, tay
dính đầy máu. Tôi bỗng thấy chóng mặt và nghe tim mình nhói đau.
Đúng là trong cuộc sống, ta rất cần có
được một tâm tư bình thản để đối mặt với đời. Nhưng con lươn dưới tay em đang oằn
oại, thống khổ tận cùng song em không chút động lòng vì nỗi đau của nó, em đã
quen với nghề nghiệp của mình và không còn biết xót xa cho số kiếp những con vật
bị an bài theo thuyết “Vật dưỡng nhân”.
Hồi nhỏ, dạo 8-9 tuổi, tôi còn “anh
hùng” hơn em. Ba tôi mở một quán kem gần chợ. Mật ngọt của kem thu hút đông đảo
khách hàng đến tiệm - không phải người - mà là ruồi!
Ba tôi giao cho tôi nhiệm vụ đặc biệt: đập
ruồi. Tôi nhận “vũ khí” ông đưa, mới đầu tôi chỉ làm theo bổn phận, nhưng dần
dà tôi cảm thấy khoái chí nhất là sau mỗi tiếng “chát” vang lên, ruồi nằm chết
dẹp lép, ruột lòi ra, công việc của tôi đã thành trò tiêu khiển, ruồi phải nằm
bẹp dí lòi ruột, thì tôi mới thích thú.
Đó là quãng thời gian tôi sống trong tối
tăm - tối tăm - vì tôi không biết đến Phật pháp. Trong nhà tôi vẫn có thờ hình
Phật, song giáo lý Ngài tôi chưa thấm sâu, nhà tôi cũng cữ sát hại, chẳng giết
con gì để ăn, nhưng những loài côn trùng nhỏ nhít cỡ ruồi muỗi trở xuống thì chẳng
ai quan tâm thương đến chúng.
Rồi khi vào chùa tu, chúng tôi thường kể
chuyện cho nhau nghe. Một pháp lữ bảo tôi:
- Hồi nhỏ tui khoái nhất là bắt chuồn
chuồn, ngắt đuôi nó đi, rồi cắt tua giấy kiếng nhiều màu, se nhọn một đầu, nhét
vào ruột chuồn chuồn, thả nó bay lên, tui thích chí nhìn đuôi giấy đủ màu bay
lượn giữa trời, không biết làm vậy là con chuồn chuồn đau ruột, cũng không hiểu
nó đau như thế nào? Cho tới năm hơn 20 tuổi tui bị viêm ruột, rồi về già thì
ung thư ruột, bỗng dưng tui lại nhớ và thấu hiểu nỗi đau của con chuồn chuồn.
Tôi thuật lại cảnh đập ruồi của mình,
tôi không đau ruột như chị, nhưng bây giờ tôi hưởng cái đau toàn thân, từng đốt
xương đều nhức buốt, mỗi khi nhúc nhích cơn đau càng gia tăng khiến tôi cử động
thật khó khăn. Điều khiến tôi có thể song hành và chấp nhận được cơn bệnh là
tôi biết mình đang “nếm thử” quả của nhân gieo không lành ngày xưa. Cơn đau này
có thấm vào đâu so với nỗi đau hàng trăm con ruồi lòi ruột bẹp dí?
Có thể cho là tôi suy nghĩ viển vông, mơ
hồ. Nhưng nghĩ theo nhân quả cũng rất có lợi, bởi vì mỗi lúc thân xác bị bệnh
hoành hành đau đớn, tôi lại nhớ đến hành động sát sinh của mình ngày xưa và tự
dưng có đủ sức chịu đựng và thấy cơn đau vơi đi, nhẹ bớt. Bàn về thuyết nhân quả
của Phật giáo, tôi chợt nhớ đến chuyện bà cô họ của tôi. Hồi trước giải phóng,
bà chuyên bán bì bún chả giò ở chợ BH. Ngày nào cũng mua cả thúng thịt heo đem
về luộc chuẩn bị cho món bì vào buổi bán ngày mai. Sau này khi già, da bà ngả
màu y như thịt heo luộc, rõ nhất là phần bàn tay.
Còn bé Hà công quả chỗ tôi, em ở nhờ
chùa đi học bổ túc, vẫn tụng niệm, ăn chay và tu tập “nháp” theo thời khóa dành
cho Ưu bà di. Nhưng lúc cần tiền em cũng nhận làm móc câu cho một hãng sản xuất
cần câu cá. Vào nghề mới nửa tháng, cổ họng em sưng tấy, lưỡi cũng sưng lở nhìn
giống như bị lưỡi câu móc. Tất nhiên là em rất đau đớn, thế là em hoảng kinh, vội
lạy sám hối và bỏ nghề. Sau này em xin vào một hãng may, lương ổn định, cuộc sống
tương đối không chật vật.
Đọc đến đây có lẽ sẽ có người nói rằng:
... khối người giết chóc, khối người sát sinh mà vẫn sống phây phây, ăn nên làm
ra, có khổ báo gì đâu?
Phật từng giải thích rằng: Quả báo có
khi trả sớm, có khi trả muộn.
Thật sự nếu để ý, ta sẽ thấy những người
đang sống hiền thiện mà xoay qua làm ác, trả quả rất nhanh. Quả này xảy ra như
một cảnh báo, giúp họ đình chỉ việc ác và hồi đầu. Giống như chiếc áo trắng, vừa
mới bị lem vài vết mực, được chỉ để tẩy ngay. Có những người cả đời làm ác,
song do một biến cố nào đó khiến họ thức tỉnh, xoay qua làm thiện mạnh mẽ. Đó
là nhờ duyên lành đời trước nên họ còn được cảnh tỉnh để quay về với nẻo thiện.
Còn người làm ác quá nhiều mà không thấy
“trả” gì. Thì quả sẽ trả sang đời sau, khi phúc hưởng hết thì họa ập tới còn
thê thảm hơn. Phật luôn nhắc nhở môn đệ Ngài: “Nên sống chánh nghiệp, không sống
tà nghiệp”. Chánh nghiệp là những nghề đem đến lợi ích cho mình và người. Tà
nghiệp là những nghề kiếm ra tiền trên đau khổ của người và vật. Còn nếu nói:
“Vì nghèo nên phải sống tà nghiệp thì sao?”... Tôi bỗng nhớ câu: “Trời Phật
không triệt đường của ai cả, nếu người ấy thật lòng muốn sống thiện thì niệm
lành trong tâm sẽ chiêu cảm, giúp họ có cơ may hành thiện nghiệp". Tôi thú
vị khi nhớ thời xưa nước Ấn Độ vẫn có những ngày vua chúa cấm giết hại, cấm bán
thịt, nhất là những vị vua mộ đạo...
Nếu không có Phật, không có giáo lý Ngài
hướng dẫn, có lẽ tôi đã tạo tội bằng non. Nhờ Ngài, tôi biết phân biệt thiện
ác, biết suy gẫm lý nhân quả khi gặp phải bất công, biết đắn đo khi gieo nhân,
biết đình chỉ khi niệm ác khởi, biết trau giồi phẩm hạnh để phát triển bi trí hầu
xoa dịu bớt khổ đau trong đời.
Cô bé vẫn ngồi đấy làm lươn, con lươn vẫn
tiếp tục oằn oại dưới bàn tay em, mặt em vẫn rạng rỡ, luôn điểm sẵn nụ cười để
chào mời khách. Ngoài nỗi xót xa, tôi chẳng thể làm gì trong nhịp sống đang đều
đặn diễn tiến. Cầu mong sao ánh sáng Phật soi rọi khắp nơi, để người người sống
theo Chánh pháp, không gieo nhân khổ đau và biết tạo hạnh phúc cho mình lẫn người.
Hạnh Đoan