Trong
ba thế kỷ đầu công nguyên, những người Kitô Giáo chưa có ý niệm gì về Thiên
Chúa Ba Ngôi. Bắt đầu từ năm 320, một phong trào thần học bỗng nhiên bùng nổ tại
Ai Cập, Syria và Tiểu Á về vấn đề Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con.
Xin nhấn mạnh ở đây một điểm quan trọng về lịch sử: Đạo Hồi xuất
hiện và bành trướng từ cuối thế kỷ thứ 7. Trước đó, tức những thế kỷ đầu công
nguyên, hầu hết các nước thuộc đế quốc La Mã và toàn vùng Bắc Phi đều chịu ảnh
hưởng mạnh của Kitô Giáo. Dân chúng và các thủy thủ quanh vùng Địa Trung Hải
thường ca những câu vè ngụ ý phủ nhận Jesus* là Thiên Chúa vì chỉ có Đức Chúa
Cha là Chúa Trời thật (The Father alone was true God). Họ giải thích: Đức Chúa
Con do Đức Chúa Cha sinh ra, vậy Đức Chúa Con chỉ là vật thụ tạo (a created
order) và vật thụ tạo không thể là Thiên Chúa được. Một số khác lý luận rằng
Chúa Jesus cũng là Thiên Chúa vì Con có cùng bản tính với Cha, nhưng Chúa Cha
có ngôi vị cao hơn Chúa Con. (The Father was greater than the Son). Phong trào
thần học xuất phát từ quần chúng tín đồ đã mau chóng lan rộng khắp nơi trong đế
quốc La Mã.
Giám mục Arius (A-ri-ơcáit) cai quản địa phận Alexandria,
thành phố lớn thứ hai của Ai Cập sauCairo, sáng tác những bài ca để thuyết giảng
giáo lý. Những bài ca của Arius đã mau chóng được phổ biến. Nội dung giáo lý
như sau: Sự khác biệt duy nhất giữa Thiên Chúa và các tạo vật ở chỗ Thiên Chúa
là đấng duy nhất không bị sinh ra, duy nhất không có khởi đầu, duy nhất vĩnh cửu,
duy nhất thật, duy nhất bất tử, duy nhất thông minh, duy nhất tốt, duy nhất
toàn năng. Jesus là tạo vật như tất cả chúng ta (The essential diference
between the Unique God and all his creatures is that God was the only
unbegotten, the only one without beginning, the only eternal, the only true,
the only one who has immortality, the only wise, the only good and the only
popentate Jesus could be a creature like ourselves).
Phao Lô rao giảng giáo lý Kitô đã nhấn mạnh đến bản tính con người,
chứ không phải bản tính Thiên Chúa của Jesus : "Nếu Chúa Jesus không phải
là con người thì chúng ta không có hy vọng gì hết, vì nếu Chúa Jesus là Thiên
Chúa theo bản chất chúng ta làm sao có thể bắt chước Ngài được ?".
Trong suốt ba thế kỷ đầu công nguyên, các cuộc tranh luận về bản
tính Thiên Chúa của Jesus và vấn đề cao thấp trong ngôi vị của Chúa Cha và Chúa
Con đã gây ra một cuộc khủng hoảng giáo lý trong đạo Kitô*. Để ngăn chặn nạn
chia rẽ và phân hủy đạo Kitô, ngày 20 tháng 5 năm 325, hoàng đế La Mã
Constantine đã triệu tập hội nghị các giám mục (thời đó giáo hội Kitô chưa có
các chức vụ hồng y, giáo hoàng) tại Nicaea.
Do áp lực của hoàng đế, hội nghị Nicaea đã biểu quyết
một bản tóm tắt tất cả các điều phải tin thuộc giáo lý đạo Kitô. Bản tóm tắt
này được mệnh danh là Kinh Tin Kính (The Creed) được lưu truyền từ đó đến nay:
"Tôi tin một Thiên Chúa là Cha Toàn Năng. Tôi tin Chúa Jesus là con Thiên
Chúa, cùng bản chất với Chúa Cha như ánh sáng bởi ánh sáng, qua Ngài mọi vật được
tạo thành. Ngài xuống thế gian làm người chịu chết để chuộc tội chúng tôi. Ngài
sống lại trong ngày thứ ba và lên trời. Ngài sẽ trở lại thế gian để phán xử kẻ
sống và kẻ chết. Chúng tôi tin Đức Chúa Thánh Thần".
Mọi giám mục tham dự hội nghị đều ký tên chấp thuận bản Kinh Tin
Kính, ngoại trừ 3 giám mục Arius, Athanasius và Marcellus. Hoàng đế Constantine
lúc đó chưa theo đạo Kitô, cũng chẳng biết gì về giáo lý, chỉ có một mục đích
duy nhất là thống nhất đạo Kitô và biến đạo này thành một công cụ hữu hiệu để
thực hiện tham vọng xâm lược thế giới. Vì thấy 3 vị giám mục không chịu ký tên
vào bản Kinh Tin Kính của hội nghị Nicaea theo ý mình, Constantine trả thù bằng
cách ra lệnh sát hại giám mục Arius và các tín đồ của ông, đồng thời ra lệnh bắt
hai giám mục Athanasius và Marcellus đem đi đày.
Sau mười bốn năm bị đày ải, Marcellus được tha về. Marcellus
dành thời giờ của cuộc đời còn lại viết sách tố cáo hội nghị Nicaea, ông gọi hội
nghị này là cái lò đẻ ra thuyết Thiên Chúa Ba Ngôi. Ông dùng danh từ Tritheism
(Thuyết ba thiên chúa) để ám chỉ thuyết thiên chúa ba ngôi của hội nghịNicaea là
tà giáo vì nó đã đi ngược lại với truyền thống của đạo Do Thái chủ trương chỉ
có một thiên chúa mà thôi (Monotheism).
Mặc dù giáo hội Kitô đã được thống nhất về giáo lý do sự xuất hiện
kinh Tin Kính và nhất là do quyền lực của hoàng đế Constantine, cuộc khủng hoảng
niềm tin vẫn tiếp tục lan rộng và kéo dài đến thế kỷ 5.
Giữa thế kỷ 5, ba vị giám mục ở vùng Cappadocia ở Thổ Nhĩ Kỳ, được
gọi chung là nhóm Cappadonicians, đưa ra lý thuyết phân biệt hai loại giáo lý:
1. Giáo lý công truyền (exotoric). Đó là giáo lý của giáo hội dựa
trên văn bản Kinh Thánh nhằm mục đích dạy cho công chúng tín đồ hiểu được các lẽ
đạo (the public teaching of the church based on the scriptures).
2. Giáo lý bí truyền (esotoric). Đây là thứ giáo lý cao siêu hàm
chứa sự thâm sâu của chân lý mà ý nghĩa của nó cần phải được ẩn dấu. Các vị
không thể viết ra trên giấy trắng mực đen (The deeper meaning of truth that the
holy fathers preserved in a silence. The meaning is not to be devulged by
writing it down - Basil, trong tác phẩm On the Holy Spirit.)
Sự phân biệt hai thứ giáo lý của một chân lý nêu trên là căn bản
cho học thuyết của HỘI TAM ĐIỂM (Free Masonry). Đã từ lâu, hội Tam Điểm là một
hội bí mật qui tụ nhiều bậc minh triết trên khắp thế giới. Họ đã và đang nắm
vai trò siêu quyền lực quốc tế. Họ chủ trương: Không có một tôn giáo nào cao
hơn Sự Thật, không một chân lý tôn giáo nào có thể được diễn tả và xác định một
cách rõ ràng và hợp lý nếu không có "con mắt của tinh thần" để
"nhìn" chân lý, con người sẽ có những ý tưởng hoàn toàn sai lạc (Not
all religious truth was capable of being expressed and defined clearly and
logically. If they did not "see" these truths with "the eye of
the spirit", people could get quite the wrong idea).
Đạo Phật cũng rất chú trọng đến điều nói trên vì đạo Phật luôn
nhắc nhở chúng ta rằng: Chân lý nằm ngoài sự diễn đạt của các ngôn từ. Đạo lý
là một điều hết sức khó hiểu đối với mọi người. Chỉ một số rất ít người đạt tới
trình độ hiểu được đạo lý. Sự hiểu biết được truyền từ người này sang người
khác bằng ngôn từ, mà ngôn từ lại không có đủ khả năng chuyển tải đầy đủ ý tưởng,
do đó những kinh sách thực sự chẳng có ích lợi bao nhiêu. Muốn hiểu cái ý cốt
lõi của các tôn giáo, chúng ta cần phải có "con mắt của tinh thần".
Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này trong chương nói về "Con Mắt Thượng Đế và
Kim Tự Tháp Trật Tự Thế Giới Mới".
Mặc dầu giáo hội Kitô có nhiều nhà thần học tài giỏi đã ra sức
giải thích Ba Ngôi Thiên Chúa là một Đức Chúa Trời, nhưng Thiên Chúa Ba Ngôi
cho tới nay vẫn là một vấn đề làm nhức đầu giáo dân và vẫn là một đề tài làm rối
trí mọi người muốn tìm hiểu giáo lý Kitô. Cuối cùng, các nhà lãnh đạo tôn giáo
này phải buông xuôi bằng cách dạy giáo dân rằng: Thiên Chúa Ba Ngôi là một sự
huyền nhiệm tuyệt đối (the absolute mystery), mọi người chỉ có thể chấp nhận bằng
đức tin (đui mù) chứ không thể công nhận bằng lý trí bình thường được!
Trong số các nhà thần học Kitô Giáo, người sáng giá nhất là St.
Augustine (Ô-gớt-tin). Theo tự điển The American Heritage thì St.,
Augustine là tổ phụ về giáo lý của Giáo Hội Công Giáo lúc mới thành lập (Early
Christian Church Father). Trong tác phẩm Best-Seller "A History of God",
tác giả là bà Karen Amstrong, nguyên nữ tu tiến sĩ, viết: "Augustine có thể
được gọi là nhà sáng lập hệ tư tưởng Tây Phương. Không một nhà thần học nào
khác, đứng sau thánh Phaolô, có ảnh hưởng lớn hơn Augustine trong thế giới tư
tưởng Tây Phương." (Augustine could be called the founder of the Western
Spirit. No other theologian, apart from St. Paul, has more influence in
the West - page 119). Augustine sinh trưởng trong một gia đình quí tộc tại Algeria.
Cha theo đạo cổ truyền Ả Rập, mẹ theo đạo Kitô. Năm 370, Augustine 16 tuổi được
mẹ dẫn đi du lịch nhiều nơi trên nước Ý. Trong một dịp đi lễ ở nhà thờ Milan,
nghe giám mục Ambrose giảng đạo, Augustine đã bị nhà thần học kiêm tu sĩ trứ
danh này cuốn hút. Augustine xin giám mục Ambrose cho đi theo học đạo và cuối
cùng được giám mục này làm phép rửa tội. Ít lâu sau, Augustine trở về Algeria vào
tu tại một nhà dòng khổ hạnh. Năm 396, Augustine trở thành giám mục địa phận
Hippo tại Algeria lúc tuổi đời 42. Từ đó đến lúc chết vào tuổi 76, tức
suốt 34 năm, Augustine liên tục hăng say viết rất nhiều sách về triết học và thần
học cho đạo Công Giáo. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là cuốn sách đồ sộ mang
tựa đề "Confessions" với lời văn có tính thuyết phục và rất nhiệt
thành đối với Thiên Chúa. Augustine trở thành bậc thầy của các nhà thần học
Kitô Giáo và được coi là tổ phụ thứ hai sau Phao lô sáng lập Ki Tô Giáo (second
father / second founder of Christianity).
Trong tác phẩm "The Jesus Connection" ( The Crossroad
Publishing Co., xuất bản năm 1985), học giả Do Thái Leonard Yassen đã viết:
"Jesus đã chết không phải với tư cách là Chúa Kitô mà Ngài đã chết với tư
cách là một công dân Do Thái. Ngài không hề biết danh từ Kitô Giáo là gì và
Ngài cũng không hề nghĩ rằng mình là nhà sáng lập một đạo mới, tách rời khỏi đạo
Do Thái là đạo của Ngài". (Jesus died not as a Christian but as a Jew. He
had never heard the world Christianity and he had no idea he could be called
the founder of a separatist religion from his Judaism). Theo ông, người sáng lập
đạo Kitô chính là Paul (thánh Phaolô) và St. Augustine. Đây cũng là nhận
xét chung của hầu hết các nhà nghiên cứu đạo Kitô có quan điểm khách quan vô tư
trên phương diện lịch sử.
St. Paul là người xác lập đức tin Kitô Giáo. Đức tin này
hoàn toàn dựa trên cái gọi là "sự mặc khải (revelation) và vượt ra ngoài mọi
sự lý luận. Đức tin Kitô Giáo của Paul có thể được tóm tắt như sau: Chúa Jesus
là con Thiên Chúa, đã xuống thế gian làm người, chịu nạn chịu chết để chuộc tội
tổ tông. Ba ngày sau, Ngài đã sống lại lên trời ngự bên hữu Chúa Cha Jehovah (
Jehovah = El / Bull - Chỉ có Bull El - con bò - mới có bên tả bên hữu, còn
Thiên Chúa thiêng liêng vô hình như không khí làm gì có bên tả bên hữu ?) Ngài
sẽ xuống thế gian lần thứ hai vào ngày tận thế để phán xét kẻ sống và mọi kẻ đã
chết từ thời thượng cổ, trong đó có những vị thánh nhân đã sinh trước Jesus mấy
thế kỷ như Socrate, Pythagoras, Đức Khổng Tử, Đức Lão Tử và Đức Thích Ca ! Ai
tin Jesus là Kitô (Chúa Cứu Thế) sẽ được Ngài cứu rỗi và được sống đời đời trên
thiên đàng. Ai không biết tới tên tuổi và không tin Jesus là Chúa Cứu Thế sẽ bị
hư mất, tức là sẽ bị đày xuống hỏa ngục đời đời. Đó là toàn bộ cái gọi là
"Đức tin Kitô". Đức tin "độc đáo" này còn được gọi là khoa
thần học của Thánh Phao Lô (The Pauline Theology). Chính bản thân Chúa Jesus
cũng không biết tí gì về môn thần học rất "cao siêu" này.
Augustine là người đã làm cho khoa thần học của Phao Lô có thêm
một tính cách mới, đó là tính cách triết học. Augustine thực chất là một triết
gia. Ông chịu ảnh hưởng nặng nề nền văn hóa Hy Lạp. Ông nghiên cứu sâu sắc các
triết thuyết của các tôn giáo khác như Ấn Độ Giáo, Phật Giáo và Sherman (Nhất
Thần Giáo). Ông xác tín vào một điều căn bản: Có một Thiên Chúa xuất phát từ
không (ex-nihilo). Ông đưa ra một định nghĩa như sau về Thiên Chúa: Thiên Chúa
không phải là một thực tế khách quan mà là sự hiện hữu thuộc tinh thần trong
chiều sâu phức tạp của bản thân Ngài (God was not an objective reality but a
Spititual Presence in the complex depth of the self) .
Từ thế kỷ thứ 5 đến nay, cuốn luận đề De Trinitate của Augustine
là cuốn sách gối đầu giường của các tu sĩ và giới trí thức Kitô Giáo, vì đó
chính là cái lò đẻ ra Thiên Chúa Ba Ngôi "hoàn hảo" như ta thấy ngày
nay. Căn bản giáo lý đạo Kitô là ý niệm về Thiên Chúa Ba Ngôi hoàn toàn dựa
trên luận đề độc nhất vô nhị này. Augustine đưa ra nhiều thí dụ để mọi người có
thể hình dung ba ngôi là Một Thiên Chúa. Chẳng hạn chúng ta chỉ có một đời sống
tinh thần. Đời sống tinh thần đó có 3 đặc tính ( three properties) là sự hiểu
biết, ký ức và ý chí (understanding, memory and will). Augustine tin có quỉ và
gọi quỉ là "các thiên thần nổi loạn" (rebel angels) chống lại Thiên
Chúa. Loài người phải chịu khổ đau, một phần do Thiên Chúa trừng phạt vì tội tổ
tông, phần khác do sự cám dỗ của quỉ nên phạm thêm những tội khác chống lại
Thiên chúa nên bị Chúa phạt thêm nữa. Triết thuyết của Augustine hoàn toàn dựa
trên thần thoại Vườn Địa Đàng (Garden of Eden) là sản phẩm tưởng tượng của người
Sumeritans ở Lưỡng Hà Châu (Mesopotamia/Babylon) . Những chuyện thần thoại bịa
đặt đó chẳng khác gì những chuyện kể trong Ngàn Lẻ Một Đêm của xứ Iraq là
hậu duệ của Babylon xa xưa. Augustine cứ tưởng những chuyện thần thoại
đó là chuyện thật nên đã xây dựng toàn bộ triết thuyết Ki Tô Giáo trên căn bản
thần thoại đó. Thật là một điều không ai có thể tưởng tượng nổi chuyện đó đã xẩy
ra tại Tây Phương và tới nay nó vẫn còn tồn tại! Các người theo đạo Do Thái và
đạo Hồi cũng đều tin vào chuỵện Vườn Địa Đàng, cũng tin tổ tông loài người là
Adong Evà . . . nhưng họ không đặt nặng vấn đề tội tổ tông và họ không bị ám ảnh
quá nặng nề như Augustine.
Augustine đã để lại cho Công Giáo La Mã cả một gia tài gai góc
vì đã biến tôn giáo này thành tôn giáo duy nhất dạy đàn ông và đàn bà coi nhân
tính của họ như một cái hố ngăn cách kinh niên. Cuối cùng Công Giáo trở thành một
tôn giáo nổi tiếng về óc kỳ thị phụ nữ trong thế giới Tây Phương chỉ vì Công
Giáo đã lún quá sâu vào triết thuyết của nhà thần học Ả Rập chạm điện cao thế
này.
Trong tác phẩm One Female Dress, Augustine viết về đàn bà như sau:
"Các người có biết rằng mỗi đàn bà là một Eva không? Sự kết án của Thiên
Chúa trên phái tính của các người vẫn tồn tại trong thời đại này. Các người
(đàn bà) là ảnh của quỉ dữ, các người là kẻ đầu tiên phạm tội ăn trái cấm và là
kẻ đầu tiên vi phạm luật của Chúa. Các người là kẻ thuyết phục chồng mình, người
mà quỉ dữ không đủ sức tấn công, phạm tội chống lại Chúa. Đàn bà các người là kẻ
đã phá hoại đàn ông, hình ảnh của Thiên Chúa. (Augustine tin rằng Thiên Chúa là
Đàn Ông). Chỉ vì tội lỗi của bọn đàn bà các ngươi mà Con của Thiên chúa phải chết.
(Do you know that you are each an Eve? The sentence of God on this sex of yours
lives in this age. The guilt must of necessity live too. You are the devils
gateway, you are the unsealer of that forbidden tree. You are the first
deserter of the divine law. You are she who persuaded him whom the devil was
not valiant enough to attack. You so carelessly destroyed man, God's image. On
account of your desert, even the Son of God had to die).
Augustine thù ghét đàn bà và nguyền rủa toàn thể nữ giới với những
lời văn cực kỳ cay độc. Chỉ có một phụ nữ duy nhất được Augustine tôn trọng là
đức mẹ Maria. Augustine lý luận: Đức mẹ Maria không giao cấu với đàn ông để
sinh ra Chúa Jesus nên Chúa Jesus là người duy nhất không bị nhiễm tội tổ tông.
Chúa Jesus là Ngôi Lời (Logos,Word) nhập thể, biến thành xương thịt loài người
để toàn thể loài người được thánh hóa do ân sủng của Thiên Chúa, và cuối cùng
loài người sẽ trở nên Một cùng với Thiên Chúa. (The Word was made flesh in
order that the whole human being deified by the grace of God and become by
nature the sole God). Như thế Augustine là người khai triển tư tưởng Hy Lạp
về Ngôi Lời, nói đúng hơn là tư tưởng của triết gia Hy Lạp gốc Do Thái tên
Philo Judaeus thế kỷ I sau Công Nguyên, để gán ghép cho Jesus mang bản chất
Thiên Chúa vì Jesus là Ngôi Lời của Thiên Chúa nhập thể.
Qua các tác phẩm đồ sộ của Augustine, hình ảnh về Thiên Chúa Ba
Ngôi đã được xác định: Chúa Cha là một Thiên Chúa cay nghiệt (a harsh God),
Chúa Con là một nhân vật duy nhất nửa người nửa Thiên Chúa (half man, half
God). Chúa Thánh Thần như một bóng mờ phụ thuộc vào hai ngôi trên. Cái tội lỗi
ghê gớm kinh khủng nhất trong vũ trụ là tội của bà Eve ăn trái cấm tức là trái
của cây Hiểu Biết (the tree of knowledge) đến nỗi chỉ có ngôi Lời Thiên Chúa mới
đủ tư cách dùng cái chết của mình để xin Chúa Cha tha tội. Nhưng dù Chúa Con đã
phải chịu cực hình và chịu chết, Chúa Cha chỉ tha tội cho loài người trên
nguyên tắc mà thôi.
Dựa vào thực tế, chúng ta có thể tóm lược như sau: Chúa Cha vẫn
bắt loài người phải hoàn toàn gánh chịu mọi hậu quả của tội tổ tông, đó là sự
cơ cực về thể xác và đau khổ về tinh thần. Trước khi Chúa Con chịu chết chuộc tội,
loài người phải cơ cực đau khổ ra sao thì sau khi được Chúa Con cứu chuộc, loài
người vẫn phải cơ cực và đau khổ như vậy! Tình trạng không hề thay đổi vì thực
tế Chúa Con chẳng cứu ai và Chúa Cha cũng chẳng giảm sự thù hận loài người chút
nào. Chúa Cha xuất thân từ con bò đực điên khùng của Abraham. Chúa Con là một
gã thợ mộc thất học. Chúa Thánh Thần là một con chim bồ câu đực. Thờ Thiên Chúa
ba ngôi thực chất là thờ người và cầm thú! Những người Do Thái và thế giới Hồi
Giáo cực kỳ khinh bỉ thuyết Thiên Chúa Ba Ngôi của Kitô Giáo. Họ gọi thuyết này
là giáo lý rắc rối và phỉ báng Thiên Chúa (puzzling and blasphemous). Kitô Giáo
là "ngụy Thiên Chúa Giáo" vì về thực chất nó là Đa Thần Giáo chứ
không phải là Độc Thần Giáo theo đúng ý nghĩa chỉ tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất.
mời xem tiếp: Thiên Chúa của Do Thái Giáo Nguyên Thủy
mời xem tiếp: Thiên Chúa của Do Thái Giáo Nguyên Thủy
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...