Chương
27: Khuyên Đỗ Nhàn Trập, Võ Tánh một dạ trung quân. - Trốn Bùi Thị Xuân, Nguyễn
Vương hai lần thoát hiểm.
Nhắc
lại Nguyễn Phúc Ánh đánh cùng quân Tây Sơn ở Thất Kỳ Giang bị thua trận, bèn
cùng Bá Đa Lộc quay thuyền mà chạy.
Nữ
Đô đốc Tây Sơn Bùi Thị Xuân trông thấy nói với Nguyễn Huệ:
-
Chiếc thuyền rồng kia chắc của Nguyễn Phúc Ánh, tôi xin đuổi bắt giết chết nó
cho rồi.
Nói
xong Xuân qua một chiếc đạii thuyền dẫn đầu nữ binh đuổi theo Phúc Ánh. Phúc Ánh
trông thấy hồn phi phách tán, nghĩ thầm rằng: Con tiện tỳ này võ nghệ siêu quần
sức khỏe vô song. Nếu phen này mà nó bắt được ta thì dù cố vạn lạy mòn đầu gối
nó cũng chẳng tha.
Nghĩ
xong hối quân chèo gấp. Thị Xuân đuổi theo, Ánh liệu bề ở trên thuyền không chạy
khỏi, bảo quân ghé thuyền vào bờ lên đất liền mà trốn. Bùi Thị Xuân cũng lên bờ
đuổi theo. Bá Đa Lộc dẫn Ánh chạy vào trong một xóm đạo, đến nhà thờ lớn Lộc bảo
mấy đạo sĩ:
-
Mau mau tìm chỗ cho vua nấp, kẻo giặc đuổi tới nơi.
Nói
vừa xong người canh cổng vào bảo rằng;
-
Có đạo binh toàn là con gái, gươm giáo lăm lăm đang lùng sục khắp nơi.
Đạo
sĩ giữ nhà thờ nói:
-
Xin vua và giám mục mau ra trốn nơi hậu quân.
Ánh
và Lộc liền chạy ra hậu quân. Vừa vào trong đã nghe tiếng Bùi Thị Xuân quát ở
ngoài rằng:
-
Các ngươi hãy lục soát khắp nơi bắt kỳ được Phúc Ánh cho ta.
Ánh
chẳng còn hồn vía nào, nhận thấy mấy người đàn bà đang hộ sanh cho một phụ nữ
đang trở dạ, liền cùng Bá Đa Lộc chui xuống gầm giường ấy mà trốn. Bùi Thị Xuân
mở cửa bước vào thì vừa lúc đứa trẻ chào đời khóc oa oa. Thị Xuân thấy vậy liền
vội vã lẩn ra ngoài. Bùi Thị Cúc hỏi:
-
Vì sao chị vừa vào đã vội ra ngày?
Xuân
đáp:
-
Trong ấy có người phụ nữ vừa sanh con. Ta làm người đẻ sợ hãi lên máu sản hậu
mà chết nên phải ra ngày.
Cúc
lại hỏi:
-
Thế ngộ nhỡ Phúc Ánh chui xuống gầm giường ấy mà trốn thì sao?
Xuân
cau mày đáp:
-
Nguyễn Phúc Ánh đến nỗi nào mà hèn như thế được! Vả lại nếu ta vào lục soát,
người mẹ mới sanh con kia sẽ sợ hãi lên sản hậu mà chết. Lòng ta sao nỡ! Thôi!
Mau đi tìm ở hướng khác.
Tìm
đến tối vẫn không thấy tăm dạng Phúc Ánh đâu, Bùi Thị Xuân đành quay về báo
cùng Nguyễn Huệ:
-
Thưa tướng quân, Phúc Ánh chạy thoát chính là lỗi do tôi.
Huệ
cười bảo:
-
Việc gì mà cô Xuân phải tạ lỗi. Đất Gia Định sông ngòi chằng chịt, rừng rậm um
tùm, hắn đã chạy trốn thì dễ gì mà kiếm cho ra. Vả lại số của Ánh chưa tàn mà
thôi. Nay Phúc Ánh trốn thoát chạy vào thành Sài Côn, vợ chồng Diệu và Xuân hãy
đem hai ngàn quân chia nhau chặnn ở hai cửa Cung Hậu và Hàm Luông do sông Tiền
Giang đổ ra. Đợi Vũ Văn Nhậm đem bộ binh tiến đánh Trấn Biên, Ánh tất bỏ Sài
Côn mà chạy về Trường Đồn. Ta đã sai Nguyễn Văn Lộc tiến đánh Trường Đồn, Nguyễn
Văn Tuyết đánh Long Hồ. Phúc Ánh chỉ còn một con đường là lợi dụng vùng sông
ngòi chằng chịt theo sông Tiền Giang trốn ra hải đảo mà thôi. Lần này có thể vợ
chồng Diệu Xuân lại lập công to như lần trước bắt hai chúa Thái Thượng vương và
Tân Chính vương của nhà Nguyễn vậy. Hai người nên cố gắng tiêu diệt được Phúc
Ánh, xem như ta đã bình được đất Gia Định vậy.
Bùi
Thị Xuân ân hận nói:
-
Nguyễn Phúc Ánh thoát được là do lỗi ở Xuân này. Xin tướng quân trị tội.
Huệ
cười hỏi:
-
Ta chưa từng nghe nói có điều quân lệnh nào bảo rằng không bắt được tướng giặc
là có tội. Cô Xuân đừng nên bứt rứt như thế.
Bùi
Thị Xuân không dám kể rằng chính mình đã tha mạng cho Phúc Ánh năm xưa lúc bắt
hai chúa Nguyễn, bèn cáo từ Nguyễn Huệ rồi cùng chồng là Trần Quang Diệu lãnh lệnh
ra đi.
Nhắc
lại Nguyễn Phúc Ánh thấy Bùi Thị Xuân dẫn nữ binh đi rồi, liền cùng Bá Đa Lộc
chui ra khỏi gầm giường. Ánh bồng đứa bé mới sinh trên tay và nói:
-
Ngươi chính là người trời sai xuống cứu vua. Và ta phong cho ngươi làm hộ giá đại
tướng quân. Ngày sau phục quốc nhất định tìm mà ban thưởng.
Đoạn
Phúc Ánh chia tay với Bá Đa Lộc rồi tìm đường về thành Sài Côn. Đến nơi thấy Lê
Văn Quân cũng kéo quân về tới. Ánh giật mình hỏi Quân:
-
Khanh đang thủ thành Trấn Biên sao lại kéo quân về đây?
Vân Quân quỳ tạ lỗi:
-
Giặc Tây Sơn do Vũ Văn Nhậm chỉ huy từ Bình Thuận kéo vào đánh rất dũng mãnh.
Binh ta không địch nổi, thần đành phải chạy về đây hợp quân cùng Thượng vương cố
thủ đất Sài Côn.
Ánh
bảo:
-
Binh ta đã bị quân Tây Sơn đánh tan ở Thất Kỳ Giang. Mạn Hòe tử trận, các tướng
Nguyễn Nghi, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Hồ Văn Lân đều thất lạc cả.
Nay nếu giặc ba bề đánh tới thì làm gì mà cố thủ Sài Côn. Bây giờ chỉ còn có một
đường là bỏ thành mà chạy vào Trường Đồn với Mạc Thiên Tứ mới mong bảo toàn
tính mạng.
Vừa
dứt lời nghe quân hớt hải vào báo:
-
Thưa Thượng vương, Vũ Văn Nhậm đem quân đánh đến cửa Bắc thành.
Phúc
Ánh cả kinh liền sai Lê Văn Quân đem một ngàn quân đoạn hậu, còn mình đích thân
dìu mẹ và em lên xe tứ mã mở cửa thành Nam mà chạy.
Nhắc
lại từ khi Đỗ Thành Nhân bị Phúc Ánh giết chết, thuộc hạ của Đỗ Thành Nhân là Đỗ
Nhàn Trập và Võ Tánh dẫn ba ngàn quân Đông Sơn bỏ Trường Đồn về tránh ở căn cứ
là rừng Tam Phụ.
Ngày
ấy quân thám mã về báo cùng Đỗ Nhàn Trập:
-
Thưa tướng quân, vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc đem quân thuỷ bộ vào đánh Gia Định.
Thượng vương Phúc Ánh bị thua to ở Thất Kỳ Giang. Bộ quân Tây Sơn do phò mã Vũ
Văn Nhậm đã đánh chiếm thành Trấn Biên. Hiện Thượng vương và tướng quân Lê Văn
Quân đã lui về cố thủ Sài Côn.
Đỗ
Nhàn Trập nghe xong liền quay sang Võ Tánh nói:
-
Từ ngày anh ông là Võ Nhân và chú tôi bị Phúc Ánh bắt giết chết, tôi và ông phải
về ẩn náu ở nơi này, lúc nào tôi cũng nuôi chí báo thù. Nay quân Tây Sơn sắp sửa
đánh chiếm thành Sài Côn, Phúc Ánh không thể nào địch nổi sớm muộn gì thành Sài
Côn cũng mất về tay quân Tây Sơn. Tôi với ông đều là bậc hào kiệt, vậy ta nên
theo về với Tây Sơn đánh Phúc Ánh báo thù cho chúa. Chẳng hay ý ông thế nào?
Võ
Tánh lắc đầu nói:
-
Nếu ta đầu Tây Sơn đánh Thượng vương thì không phải là ta báo thù mà sẽ phụ
lòng chủ tướng nơi suối vàng vậy.
Nhàn
Trập hỏi:
-
Phúc Ánh giết chủ tướng. Nay ta đánh Phúc Ánh để báo thù sao lại bảo là phụ
lòng chủ tướng.
Tánh
không đáp, hỏi lại Nhàn Trập:
-
Xin hỏi ông vì sao chủ tướng ứng nghĩa cần vương giúp chúa Định Vương lại lấy
tên quân ta là Đông Sơn.
Trập
đáp:
-
Chú tôi lúc ấy lấy tên Đông Sơn là tỏ ý đối nghịch với Tây Sơn.
Tánh
hỏi:
-
Vậy nay ta đầu hàng Tây Sơn thì chẳng phải là phụ lòng chủ tướng sao?
Trập
đáp:
-
Người xưa có nói: Chim khôn chọn cây mà đỗ, tôi hiền chọn chúa mà thờ. Nay Phúc
Ánh tâm địa nhỏ nhen, mượn tay người rồi lại giết người, mới đặng chim đã vội
vàng bẻ ná. Vả lại Phúc Ánh muốn tranh lấy ngôi vàng nhà chúa mà không màng đến
điều hại của quốc dân, nên mới mượn binh của nước Pháp Lang Sa, đổi lại cho Bá
Đa Lộc được tuyên truyền tà đạo, người như thế đâu phải là minh quân. Vả chăng
Phúc Ánh vốn có lòng muốn giết hai ta ở tiệt trừ hậu hoạ nên mới sai Mạc Thiên
Tứ từ Hà Tiên đánh ra, Lê Văn Quân và Hồ Văn Lần từ Sài Côn đánh vào lúc hai ta
còn trấn thủ ở Trường Đồn. Nay nếu ông ra phò Phúc Ánh có dám chắc rằng bảo
toàn tính mạng được chăng? Tôi có nghe vua Thái Đức Tây Sơn là người nhân
nghĩa, ban quân pháp không được giết hàng quân, đi đến đâu đều cứu giúp dân
nghèo. Đến như năm xưa chúa Định Vương bỏ Quảng Nam vượt bể vào Gia Định, vua
Tây Sơn bắt được Tĩnh Điệp hầu Nguyễn Đăng Trường, cảm mến lòng trung hiếu của
Tĩnh Điệp hầu, vua Tây Sơn lại cấp ghe thuyền cho Tĩnh Điệp hầu vào Gia Định
theo chúa. Người như thế không phải là đại nhân đại đức hay sao? Nay nếu ta cứ
câu nệ hai chữ trung quân không đầu quân Tây Sơn, thì đối với Phúc Ánh cũng
mang tiếng là phản chúa. Chẳng lẽ ông lại để cho mấy ngàn quân Đông Sơn ở mãi
trong rừng Tam Phụ này sao?
Võ
Tánh bác lời của Đỗ Nhàn Trập:
-
Thượng vương giết chủ tướng là do chủ tướng cậy công mà xem thường tiểu chúa,
làm anh tôi phải bị chết oan, thì sao lại đổ lỗi cho Thượng vương được. Ấy là một
lẽ! Thượng vương mượn binh Pháp Lang Sa mong khôi phục cơ đồ ấy là điều đúng. Đạo
do Bá Đa Lộc tuyên truyền cũng dạy người làm điều thiện thì sao lại bảo là tà đạo?
Ấy là hai lẽ. Thượng vương muốn giết chết hai ta để trừ hậu hoạ vì hai ta là
thuộc hạ của chủ tướng, ở trong cương vị này ai cũng phải làm như thế mà thôi.
Phận làm tôi không được đem lòng oán chúa. Ấy là ba lẽ! Vả lại tôi không ở
trong thành Trường Đồn để Thượng vương bắt làm tội cho trọn câu: "Quân xử
thần tử, thần bất tử bất trung" mà về ẩn thân nơi rừng Tam Phụ vì nghĩ rằng
thân này còn có ngày giúp chúa đánh Tây Sơn. Tôi cũng như Tĩnh Điệp hầu Nguyễn
Đăng Trường chỉ biết câu: "Tôi trung không thờ hai chúa" mà thôi. Lẽ
đâu lại đi hàng thằng buôn trầu Nguyễn Nhạc, vả lại quân Tây Sơn mượn tiếng tôn
phò giả nhân giả nghĩa nên mới thả cho Tĩnh Điệp hầu để lấy lòng hiền sĩ. Nếu
không thế, tại sao lúc bắt Tĩnh Điệp hầu lần thứ hai lại không cảm lòng trung
hiếu tha cho mà bắt giết đi. Xin ông chớ có lầm anh em thằng buôn trầu là người
nhân nghĩa.
Đỗ
Nhàn Trập nghĩ thầm rằng: Võ Tánh đã quyết như thế ta có nói thế nào cũng không
lay chuyển được, chi bằng ta làm hoà rồi thừa cơ trốn đi là hơn. Nghĩ xong làm
như giật mình tỉnh ngộ, Trập nói:
-
Nếu không nhờ ông phân giải, tôi đã làm quân Tây Sơn. Nhưng Thượng vương cứ muốn
giết hai ta thì làm sao mà ra giúp chúa cho được?
Tánh
bàn rằng:
-
Hiện giờ ta chưa thể chứng minh lòng trung của ta được. Nay tôi và ông hay kéo
quân đến thành Sài Côn giúp chúa chống Tây Sơn. Lẽ nào chúa chẳng tin ta?
Trập
vội can:
-
Nếu làm như thế tôi e rằng quân ta chưa đến nơi thì Thượng vương đã bỏ thành mà
trốn.
Tánh
ngạc nhiên hỏi:
-
Vì sao ông lại nói thế?
Trập
vờ lo lắng nói:
-
Nay Sài thành mặt Bắc thì bộ binh Vũ Văn Nhậm đang uy hiếp, mặt Đông thì thuỷ
binh Nhạc, Huệ tấn công. Nếu quân do thám về báo với chúa rằng có Võ Tánh và Đỗ
Nhàn Trập đem quân Đông Sơn tiến đánh mặt Nam thì Chúa thượng lại ngồi yên
trong thành được sao? Ông làm thế thành ra hại chúa vậy!
Tánh
gật đầu hỏi:
-
Theo ông nay tôi phải làm sao?
Trập
hiến kế:
-
Nay chỉ còn có cách là chờ chúa thất thủ Sài Côn ắt phải chạy vào Trường Đồn
cùng Mạc Thiên Tứ, vào Trường Đồn tất phải chạy ngang qua rừng Tam Phụ của ta.
Khi ấy ta kéo quân ra đánh Tây Sơn đang đuổi theo để cứu chúa. Chỉ có như vậy mới
chứng tỏ được lòng trung của mình cho chúa biết mà thôi.
Tánh
thở dài nói:
-
Biết chúa lâm nguy mà không ra giúp được, phải chờ cho chúa bại binh. Nhưng
không còn cách nào khác đành phải vậy thôi!
Trập
bảo:
-
Tôi xin đem một ngàn quân bản bộ làm tiên phong ra ngoài rừng đến ven đường mai
phục. Ông chỉnh đốn hàng ngũ vận chuyển binh lương cùng toán binh đến sau.
Nói
rồi Trập từ biệt Võ Tánh đi ngay.
Nói
về Nguyễn Phúc Ánh bỏ thành Sài Côn mà chạy đến gần khu rừng Tam Phụ, xảy thấy
vài tên quân mình từ hướng Nam chạy đến bảo:
-
Thưa Thượng vương, tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Lộc đem quân theo đường bể vào cửa
Hàm Luông chiếm lấy Trường Đồn. Nguyễn Văn Tuyết theo sông Tiền Giang đánh chiếm
Long Hồ. Tổng trấn Mạc Thiên Tứ đã bỏ Trường Đồn chạy về cố thủ Hà Tiên.
Phúc
Ánh thất kinh than:
-
Nay hai đầu địch quân đánh tới biết phải chạy về đâu?
Vừa
than dứt lời bỗng thấy một đạo binh trong rừng xông ra. Viên tướng cầm đầu đạo
binh ấy hết lớn:
-
Nguyễn Phúc Ánh chạy đâu cho thoát. Hôm nay ta quyết giết ngươi để trả thù cho
chú ta là Đỗ Thành Nhân.
Nguyễn
Phúc Ánh tâm thần bấn loạn nói:
-
Quân Đông Sơn lại kéo đến đánh, Lê Văn Quân mau chặn Đỗ Nhàn Trập lại cho ta.
Quân
vội vàng nói:
-
Chúa thượng mau phò quốc mẫu chạy vào con đường nhỏ ở hướng Đông lánh nạn. Thần
xin ở lại liều mình chết cùng Đỗ Nhàn Trập.
Văn
Quân nói xong hô quân cự chiến với Đỗ Nhàn Trập. Binh Nguyễn bị Tây Sơn đuổi chạy
tướng sĩ người ngựa mệt mỏi đều quẳng giáo bỏ trốn. Lê Văn Quân cũng vài mươi
tuỳ tùng quất ngựa chạy theo Phúc Ánh. Đỗ Nhàn Trập quyết chí báo thù thúc ngựa
đuổi theo. Văn Quân chạy một hồi thấy xa giá quốc mẫu và Phúc Ánh phía trước mà
sau lưng Đỗ Nhàn Trập vẫn rượt nã theo. Trong cơn nguy khốn bỗng nghe một tiếng
hét vang:
-
Quân giặc kia không được hại chúa!
Người
vừa hét mặt đen như than, thân hình cao lớn tay cầm đại đao từ đâu xông đến chặn
Nhàn Trập mà chém. Nhàn Trập giơ thương lên đỡ nghe rủn cả tay, hoảng kinh quất
ngựa mà chạy. Nhờ vậy nên Nguyễn Phúc Ánh và Lê Văn Quân mới thoát nạn. Phần Đỗ
Nhàn Trập thì dẫn quân về thành Sài Côn đầu hàng quân Tây Sơn.
Nói
về viên tướng mặt đen sau khi đuổi Đỗ Nhàn Trập đi rồi bèn quay ngựa lại ra mắt
Phúc Ánh. Ánh hỏi:
-
Tráng sĩ tên họ là gì, quê quân ở đâu? Sao biết ta lâm nạn nơi này mà cứu?
Tướng
ấy đáp:
-
Thần dân tên Trương Tấn Bửu, quân làng Hiệp Hưng, Tổng Tân An, Châu Định Viễn ở
gần đây. Nay quân Tây Sơn bủa vây mọi phía, xin mời chúa hãy lẩn về nhà thần
dân nghỉ tạm qua đêm rồi sẽ liệu sau!
Phúc
Ánh và Lê Văn Quân liền đưa quốc mẫu về nhà Trương Tấn Bửu. Mẹ con Phúc Ánh và
Lê Văn Quân mỏi mệt quá đánh nằm trên giường rơm, dưới ánh đèn dầu leo lét,
trong túp lều tranh lụp xụp ngủ vùi. Sáng sớm hôm sau nghe Trương Tấn Bửu gọi:
-
Đỗ Nhàn Trập về hàng quân Tây Sơn, hiện đang dẫn giặc đi lùng sục khắp nơi. Xin
Chúa thượng mau đi tránh.
Phúc
Ánh mệt mỏi lo lắng hỏi:
-
Nay quân ta tan tác chỉ còn có vài người tuỳ tùng. Giặc đuổi đến biết tránh đi
đâu?
Bửu
trấn an rằng:
-
Xin Chúa thượng chớ lo. Thần dân ở vùng này rất rành địa thế, xin đưa chúa qua ở
cồn vắng bên kia sông thì không lo giặc tìm ra tông tích.
Nói
xong Bửu dùng thuyền nhỏ đưa mẹ con Phúc Ánh qua cù lao giữa sông mà tránh. Đến
nơi quốc mẫu lại kêu đói. Ánh bảo Tấn Bửu:
-
Phiền ngươi đi tìm thực vật cho mẹ con ta lót dạ.
Tấn
Bửu đi một hồi quay lại nói:
-
Thần dân định về nhà lấy cơm dâng quốc mẫu và Chúa thượng, nhưng ngặt nỗi quân
Tây Sơn đang lùng sục trong làng nên không tiện quay về. Xin chúa cùng quốc mẫu
dùng tạm quả này cho đỡ đói.
Nói
xong Bửu dâng quả rừng cho Phúc Ánh. Ánh cắn thử một miếng thấy vị vừa chua vừa
chát liền hỏi Trương Tấn Bửu:
-
Quả này tên gọi quá gì?
Bửu
thưa:
-
Cây này thường mọc bên bờ sông, tên gọi cây bần.
Ánh
tò mò hỏi:
-
Vì sao gọi là cây bần?
Bửu
đáp:
-
Vì quả này thường những người nghèo khó thiếu cơm mới ăn qua bữa, nên có tên là cây bần.
Ánh
bèn bảo:
-
Họ nhà ta làm chúa cả thiên hạ, nay phải ăn trái bần lót dạ. Từ nay cấm không gọi
là trái bần nữa.
Bửu
hỏi ngày:
-
Thưa chúa vậy phải gọi là trái gì?
Ánh
ngẫm nghĩ rồi đáp:
-
Từ nay phải gọi là cây Thuỷ Liễu!
Ánh
nói xong liền dâng trái Thuỷ Liễu cho mẹ dùng. Hôm sau Trương Tấn Bửu lại đem về
một chiếc thuyền lớn nói với Phúc Ánh:
-
Nay giặc Tây Sơn đi lùng sục khắp nơi, sớm muộn gì cũng đến nơi này. Vậy mời
Chúa thượng mau lên thuyền chạy ra ngoài hải đảo lánh nạn mới yên.
Phúc
Ánh nói:
-
Năm xưa hai chúa cũng vì chạy ra hải đảo lánh nạn nên mới bị nữ tướng của giặc
là Bùi Thị Xuân bắt ở cửa Hàm Luông. Nay nếu ta chạy theo đường đó làm gì mà
không bị đón bắt như hai lần trước?
Bửu
đáp:
-
Xin Chúa thượng chớ lo, kênh rạch vùng này thần dân rất rành. Thần dân sẽ cho
thuyền theo rạch nhỏ mà đi ra ngoài biển. Giặc Tây Sơn không thể nào biết được.
Phúc
Ánh và Lê Văn Quân nghe lời đưa quốc mẫu và công chúa Ngọc Du lên thuyền theo
Trương Tấn Bửu mà đi. Bửu cho ghe luồn lách trong rạch nhỏ quả nhiên không gặp
quân Tây Sơn. Nhưng vừa ra cửa bể bỗng gặp nữ tướng Tây Sơn Bùi Thị Xuân đem
vài chiến thuyền đi tuần tiễu trông thấy. Bùi Thị Xuân gọi lớn:
-
Chiếc thuyền kia mau dừng lại cho quân ta tra xét.
Trương
Tấn Bửu không đáp, giong buồm cho thuyền chạy ra khơi. Thị Xuân nói:
-
Long Nhương tướng quân đoán không lầm. Quả nhiên là thuyền Phúc Ánh chạy trốn.
Mau đuổi theo!
Phúc
Ánh trông thấy Bùi Thị Xuân đuổi theo liền trương cung lắp tên bắn một phát. Thị
Xuân lẹ mắt chụp được mũi tên ấy, rồi lấy cung bắn trả. Tên bay xé gió trúng
dây buồm dứt lìa. Thuyền Phúc Ánh đứt dây buồm không chạy được. Ánh cả kinh
than:
-
Lần nào ta chạy trốn cũng bị con tiện tỳ này rượt đuổi. Số của ta phải chết dưới
tay đàn bà sao?
Than
vừa dứt lời bỗng trời mây vần vũ, rồi mưa to gió lớn nổi lên. Bùi Thị Xuân liền
hối quân chạy thẳng vào bờ nấp bão, lạ lùng thay chiếc thuyền nhỏ của Phúc Ánh
trong giông bão giữa biển khơi lại chẳng hề hấn gì. Bão tan chẳng thấy thuyền
quân Tây Sơn đâu nữa. Nhờ vậy Nguyễn Phúc Ánh và Lê Văn Quân, Trương Tấn Bửu
thoát được chạy ra đảo Phủ Quốc ẩn náu.
Nữ
tướng Tây Sơn là Bùi Thị Xuân sau cơn bão không thấy thuyền Phúc Ánh bèn thu
quân về thành Sài Côn ra mắt vua Thái Đức, tâu:
-
Thần dẫn quân đi tuần ngoài cửa bể Hàm Luông, gặp thuyền Phúc Ánh chạy trốn thần
đuổi theo gần kịp, bỗng một cơn bão nổi lên thần đành cho thuyền vào bờ núp
bão. Khi bão tan không thấy Phúc Ánh, đành kéo quân về ra mắt Bệ hạ.
Vua
Thái Đức nói:
- Ở
giữa biển lại gặp bão tố, thuyền Phúc Ánh làm gì mà không bị đắm. Phen này ắt
là đã diệt xong dòng họ chúa Nguyễn. Phúc Ánh chết các tướng sĩ quân Nguyễn chạy
trốn ắt là như rắn mất đầu ta có lo gì nữa.
Đoạn
vua bảo các tướng:
-
Hãy chuẩn bị quân trang định ngày xa giá hồi kinh!
Nguyễn
Huệ hỏi vua:
-
Vậy hoàng huynh đệ Đặng Văn Long trấn thủ Gia Định chứ?
Vua
Thái Đức suy nghĩ giây lâu rồi đáp:
-
Đỗ Nhàn Trập vừa mới hàng ta. Trập là người Gia Định ắt hiểu rõ nhân văn địa lý
vùng này, ta cho Trập trấn thủ Gia Định là hợp lý. Vả lại, Trập vừa mới hàng
ta, ta trọng dụng Trập lại càng tỏ rõ đức độ của ta. Thế chẳng phải là nhất cử lưỡng tiện hay sao?
Vua
Thái Đức nói xong liền để hàng tướng là Đỗ Nhàn Trập trấn thủ đất Gia Định.
Nguyễn Huệ không dám cãi đành theo Nguyễn Nhạc đem đại binh về Quy Nhơn!
Nói
về chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh nhờ cơn bão mà thoát khỏi tay nữ tướng Tây Sơn là
Bùi Thị Xuân chạy ra đảo Phú Quốc. Hay tin vua Thái Đức và Long Nhương tướng
quân Nguyễn Huệ rút đại binh về, Lê Văn Quân bàn:
-
Nay anh em Nhạc, Huệ đã rút đại binh về Quy Nhơn, để hàng tướng là Đỗ Nhàn Trập
trấn thủ đã Gia Định. Ta nên thừa cơ hội này hưng binh khôi phục đất Gia Định.
Ánh
buồn rầu hỏi:
-
Nay ta ở đây chỉ có ngươi và Trương Tấn Bửu cùng mấy tên quân. Còn các tướng
Nguyễn Nghi, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Hồ Văn Lân không biết đang lẩn
trốn nơi nào thì làm sao hội quân mà khôi phục đất Gia Định?
Quân
hiến kế:
-
Nay Chúa thượng nên viết chiếu chỉ mời mọi người đem quân vào Gia Định. Các tướng
của ta hiện đang lẩn trốn bên cạnh một người, nghe người ấy nói có mệnh của chúa ta sẽ hội tàn quân về
theo, như thế thì có thể chiếm lại Gia Định.
Ánh
hỏi ngay:
-
Người ấy là ai?
Quân
đáp:
-
Người này tên là Chu Văn Tiếp, quê ở huyện Phù Ly phủ Quy Nhơn. Lúc Nguyễn Nhạc
làm loạn ở Tây Sơn, Tiếp mộ quân ở núi Bô Chinh Sơn kéo vào cứu quan trấn thủ
Quy Nhơn là Nguyễn Khắc Tuyên, chẳng may thua trận, anh của Tiếp là Châu Đoan
Chữ tử trận. Tiếp bèn đem quân về đóng ở núi Trà Lang phủ Phú Yên. Sau Nguyễn
Huệ lại đem quân vào Phú Yên đánh lão tướng Tống Phước Hiệp. Tiếp lại cứu được
con Tống lão tướng quân là Tống Viết Phước. Trận ấy chẳng may em Tiếp là Châu
Đoan Hãn lại bị tướng Tây Sơn là Phan Văn Lân giết chết. Chu Văn Tiếp có thù
sâu với giặc Tây Sơn. Hiện Chu Văn Tiếp còn hơn ngàn quân ở núi Trà Lang giữa
lòng đất địch mà vẫn giữ vững núi ấy thật đáng là danh tướng. Nay Chúa thượng
nên viết mật chiếu triệu Chu Văn Tiếp vào Gia Định mới mong khôi phục cơ đồ.
Phúc
Ánh nghe lại liền viết mật thư sai người ý tâm phúc đi đường bằng lên ra Phú
Yên đến núi Trà Lang trao cho Chu Văn Tiếp.
xem tiếp: * Chương 28: Chu Văn Tiếp trương cờ
xem tiếp: * Chương 28: Chu Văn Tiếp trương cờ
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...