Chương
24: Dạ con nít, Đỗ Thành Nhân treo xác Lý Tài. - Bụng đàn bà, Bùi Thị Xuân tha mạng
Phúc Ánh.
Nói
về Nguyễn Huệ vâng lệnh Nguyễn Nhạc đem hai vạn thuỷ binh vào Gia Định đánh
chúa Nguyễn. Đến cửa bể Cần Giờ, Nguyễn Huệ cho dừng quân, mời các tướng lên
soái thuyền nhận lệnh. Huệ giở bản đồ ra rồi hạ lệnh:
-
Nguyễn Lữ làm chánh tướng, Đặng Văn Long phó tướng cùng Đặng Xuân Phong, Đặng
Xuân Bảo và Phạm Ngạn dẫn một vạn quân theo sông Đồng Nai, tiến đánh chiếm
thành Trấn Biên rồi Lữ và Long chia binh làm ba cánh. Một là cho Đặng Xuân Bảo
lãnh một ngàn quân đi đường tắt đến con đường sang nước Cao Miên ở phía Tây
thành Sài Côn đốt lửa làm kế nghi binh, không cho Lý Tài ở thành Sài Côn chạy
trốn sang Cao Miên. Cánh thứ hai là Nguyễn Lữ và Phạm Ngạn lãnh ba ngàn quân ở
lại giữ Trấn Biên đề phòng tiếp ứng cho Đặng Xuân Bảo. Cánh thứ ba là Đặng Văn
Long và Đặng Xuân Phong đem sáu ngàn binh mã tiến ra đánh chiếm Bình Thuận,
Diên Khánh và ải Vân Phong.
Nguyễn
Lữ nghe xong lãnh lấy lệnh bài. Nguyễn Huệ lại truyền:
-
Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Uy lãnh bốn ngàn quân vào cửa biển Hàm
Luông theo sông Tiền Giang tiến lên đánh lấy thành Trường Đồn (nay là Mỹ Tho).
Chiếm được thành rồi, ba tướng phải canh phòng cẩn mật không cho quân của Mạc
Thiên Tứ ở Hà Tiên đem binh tiếp viện, đồng thời chẹn đường rút binh của chúa
Nguyễn từ thành Sài Côn về Hà Tiên, làm cho chúng hai đầu không cứu ứng với
nhau được. Các tướng nên nhớ trận này vô cùng quan trọng, phải tốc chiến tốc thắng
tiêu diệt bằng được họ Nguyễn ở Gia Định rồi lập tức rút binh về Qui Nhơn đề
phòng họ Trịnh đánh ta nơi mặt Bắc.
Các
tướng đều hăng hái nhận lệnh đi ngay. Bỗng Trần Quang Diệu bước ra nói:
-
Các tướng đều đã dẫn quân ra trận. Còn thành Sài Côn do Lý Tài trấn giữ, vợ chồng
tôi xin lãnh binh tiên phong chiếm thành.
Nguyễn
Huệ cười rằng:
-
Thành Sài Côn không cần phải đánh, ta chỉ đem chiến thuyền và hai ngàn quân tiến
theo sông Thị Nghè làm kế nghi binh. Đợi khi Nguyễn Lữ và Đặng Văn Long chiếm
xong thành Trấn Biên, Lý Tài ắt phải bỏ thành Sài Côn mà chạy vào Trường Đồn.
Nơi này có vùng rừng Tam Phụ do quân Đông Sơn Đỗ Thành Nhân hùng cứ.
Thành
Nhân mà nghe Lý Tài chạy đến đây ắt sẽ đem quân đón đánh báo thù năm trước Lý
Tài đuổi Đỗ Thành Nhân khỏi thành Sài Côn, lấy mất binh quyền. Ấy là ta không
đánh mà địch quân phải hao binh tổn tướng gấp hai lần vậy. Đợi hai con hổ này
đánh nhau sức cùng lực kiệt xong, dù chúng có tài dời non lấp biển, cũng không
thể nào thoát khỏi vòng vây của ta!
Trần
Quang Diệu nghe xong nói:
-
Tướng quân dùng binh như thần. Nhưng kể từ ngày đến Tây Sơn tụ nghĩa, vợ chồng
tôi chịu ơn tướng quân sâu nặng, mà chưa lập được công trạng gì để trả nợ nước.
Nay vào đến đất Gia Định này cũng không được cầm quân ra trận thật đáng buồn
thay!
Huệ
vỗ vai Quang Diệu thân mật nói:
-
Quang Diệu chớ buồn, đánh trận này chính vợ chồng Diệu – Xuân là lập nên đại
công vậy!
Bùi
Thị Xuân hỏi lẫy rằng:
-
Không cầm quân ra trận dám hỏi dượng rể sao lại lập nên đại công?
Huệ
chỉ vào bản đồ nói:
-
Khi chúa tôi nhà Nguyễn chạy vào Trường Đồn thì Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Văn
Tuyết tất đã chiếm được thành Trường Đồn triệt đường về Hà Tiên của địch. Lúc ấy
chúa Nguyễn chỉ còn một con đường là xuống thuyền theo sông Tiền Giang ra các cửa
bể Cung Hầu và cửa bể Hàm Luông hòng chạy trốn ra ngoài hải đảo mà thôi. Vậy Diệu
– Xuân hãy lãnh bốn ngàn binh chia quân mai phục ở các cửa bể này chờ hai chúa
Nguyễn chạy ra đón bắt, thì không phải là lập được đại công đó sao.
Diệu
và Xuân mừng rỡ tạ ơn rồi lãnh lệnh đi ngay. Ngày hôm sau, Nguyễn Huệ mới gọi
Lê Chu và hai ngàn quân dưới quyền mình theo sông Thị Nghè từ từ tiến về Sài
Côn.
Lúc
ấy trong thành Sài Côn quân thám mã hớt hải chạy về phi báo cùng Nguyễn Phúc
Dương. Dương cuống cuồng lo sợ gọi Lý Tài đến hỏi:
-
Hai vạn quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy hiện đang đóng ở cửa biển Cần Giờ, sớm
chiều sẽ tiến đánh Sài Côn. Tướng quân đã có kế sách đánh giặc hay chưa?
Lý
Tài nói cứng:
-
Thần đã có cách tiến thủ, xin Tân vương chớ lo!
Dương
lại hỏi:
-
Cách tiến thủ thế nào mau nói ta nghe thử?
Tài
đáp:
-
Thần đã cho người hoả tốc đến Trường Đồn gọi Lê Văn Quân, Trấn Biên gọi Hồ Văn
Lân, Bình Thuận gọi Nguyễn Văn Hoằng mang quân về cứu viện. Hiện thần đã cho
quân đặt đại bác trên mặt thành thì không dễ gì Nguyễn Huệ lấy thành được. Chờ
ít lâu viện binh về đến, Nguyễn Huệ tất lui binh, lúc ấy ta đem quân đuổi đánh ắt
là toàn thắng.
Phúc
Dương hoàn hồn nói:
- Ấy
thật là kế sách vẹn toàn, nhưng Nguyễn Huệ mưu mẹo vô cùng, dùng binh rất lạ.
Nhớ năm xưa hắn chỉ dùng có năm ngàn quân mà đánh tan ba vạn quân của Tôn Thất
Hương ở núi Bích Kê sông Lại Dương, Qui Nhơn phủ. Năm sau hắn đem năm ngàn quân
lại đánh tan hai vạn quân của Tống Phước Hiệp ở Phú Yên. Nay Nguyễn Huệ vào Gia
Định đem hùng binh tới hai vạn nên ta lấy làm lo lắng lắm.
Lý
Tài trấn an Dương:
-
Xin Tân vương bình tâm. Năm xưa Tôn Thất Hương bất tài, Tống Phước Hiệp khinh địch
nên mới lầm mưu sâu mà bại dưới tay Nguyễn Huệ. Sao đem Lý Tài này so sánh với
hai người ấy được. Nay đồn Thị Nghè là yết hầu của thành Sài Côn đã có tướng
Nguyễn Nghi trấn đóng, thần xin đem toàn quân ra hợp với Nguyễn Nghi giữ Thị
Nghè thì Tân vương ở trong thành Sài Côn như ngồi trên bàn thạch vậy.
Nói
rồi liền dẫn quân đi. Lý Tài đi rồi, quân thám mã về báo với Dương: Thưa Tân
vương, quân Tây Sơn đã đánh chiếm thành Trấn Biên, quan trấn thủ Hồ Văn Lân bỏ
thành chạy trốn.
Nguyễn
Phúc Dương hoảng hốt định sang dinh phủ Nguyễn Phúc Thuần, vừa lúc thấy Phúc
Thuần và Nguyễn Đăng Trường đến. Dương không kịp mời ngồi hỏi ngay:
-
Quân Tây Sơn chiếm lấy Trấn Biên, Thái Thượng vương đã biết chưa?
Nguyễn
Đăng Trường đỡ lời nói:
-
Thượng vương đã biết nên mới sang đây bàn bạc với Tân vương.
Dương
hỏi:
-
Vậy ta phải làm thế nào?
Trường
đáp:
-
Nay quân Tây Sơn đã lấy mất Trấn Biên thì Nguyễn Văn Hoằng không thể đem quân về
cứu viện. Nguyễn Huệ lại từ cửa Cần Giờ đánh tới Thị Nghè, thành Sài Côn không
thể nào giữ nổi. Hai Chúa hãy mau bỏ thành Sài Côn mà lui về Trường Đồn. Nếu
Tây Sơn đánh tới Trường Đồn ta còn đường chạy về hà Tiên nương nhờ Mạc Thân Tứ,
chứ ngồi ở thành Sài Côn này, ngộ nhỡ Nguyễn Huệ lại cho một cánh quân đánh lấy
Trường Đồn, thì quân ta bốn bề thọ địch, khác nào cá nằm trong rọ vậy.
Nguyễn
Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Đăng Trường liền đem gia quyến bỏ thành
Sài Côn nhằm hướng Nam mà chạy.
Trong
đêm ấy Nguyễn Huệ thừa lúc nước lớn cho chiến thuyền tiến sát đồn Thị Nghè đánh
trống tưng bừng. Lý Tài và Nguyễn Nghi lệnh quân bắn đại bác xuống thuyền Tây
Sơn, Nguyễn Huệ liền cho thuyền lui ra khỏi tầm súng. Một đêm mấy lần như thế,
quân Lý Tài bắn hết đạn đại bác thì trời vừa hừng sáng. Bỗng quân từ thành Sài
Côn chạy về phi báo: Quân Tây Sơn đã chiếm Trấn Biên. Hai chúa Tân vương và Thượng
vương đã bỏ thành Sài Côn chạy về Trường Đồn.
Lý
Tài thất sắc nói:
-
Quân Tây Sơn sao chiếm được Trấn Biên nhanh thế. Tân vương chạy về Trường Đồn
sao không bảo ta một tiếng!
Nói
rồi truyền quân bỏ đồn Thị Nghè chạy theo hai chúa.
Lúc
ấy sào huyệt quân Đông Sơn Đỗ Thành Nhân ở rừng Tam Phụ cạnh thành Trường Đồn.
Đỗ Thành Nhân nghe quân vào báo:
-
Thưa tướng quân, chúa Thái Thượng vương và Tân Chính vương bỏ thành Sài Côn vừa
chạy ngang qua nơi này. Hiện Lý Tài cũng sắp sửa đến nơi.
Đỗ
Thành Nhân mừng rỡ nói:
-
Đây là dịp để ta báo thù năm trước, truyền lệnh xuất quân.
Lý
Tài dẫn quân chạy đến rừng Tam Phụ bỗng nghe một phát pháo lệnh nổ vang, quân
Đông Sơn từ hai bên rừng bắn tên ra như mưa. Quân Lý Tài dùng khiên mà đỡ. Đỗ
Thành Nhân thấy quân Lý Tài chẳng chết bao nhiêu liền hô quân giáp chiến. Võ
Nhân, Võ Tánh từ bên phải xông ra, Đỗ Thành Nhân, Đỗ Nhàn Trập từ bên trái đánh
tới. Lý Tài cùng đường bèn quay lại bảo quân sĩ:
-
Các ngươi hãy cùng ta quyết đánh một trận. Thắng quân Đông Sơn là chúng ta
thoát nạn. Nếu quay lại gặp quân Tây Sơn thì chỉ còn con đường chết mà thôi.
Nói
xong rồi vung đao xông tới. Hai bên giáp chiến, quân Lý Tài thất thế chống
không nổi bị giết thây nằm chật đất. Lý Tài ngửa mặt than:
-
Không ngờ Lý Tài ta cùng đường chết thảm nơi này!
Than
xong đâm cổ tự vẫn. Đỗ Thành Nhân toàn thắng, tàn sát quân Lý Tài không còn một
người nào cả. Nhân kiểm điểm binh mã thấy tổn thất cả ngàn quân, tức giận bảo
quân lấy xác Lý Tài treo lên cây ven rừng, đoạn Nhân chỉ vào thây Lý Tài đang
treo lủng lẳng trên cây mắng:
-
Nếu không có mày đến đây thì giờ này ta đang làm phụ chính trong thành Sài Côn
thống lãnh binh quyền phò tá chúa. Chính mày làm chúa tôi ta mỗi người đi một
ngả, nghi kỵ lẫn nhau, làm rối loạn đất Gia Định này. Tội mày chết vẫn chưa trả
được.
Nói
xong liền chia nhau đi tìm chúa Nguyễn.
***
Lúc
ấy hai chúa đem gia quyến chạy khỏi rừng Tam Phụ cách thành Trường Đồn hai mươi
dặm. Bỗng thấy một đám tàn quân từ thành Trường Đồn chạy đến. Tân Chính vương
Nguyễn Phúc Dương đón quân ấy lại hỏi:
-
Các ngươi là lính của trấn nào?
Quân
ấy đáp:
-
Kính Chúa thượng, chúng thần là quân ở thành Trường Đồn, thành Trường Đồn bị
quân Tây Sơn đánh chiếm, tướng quân Lê Văn Quân không rõ trốn tránh nơi nào.
Chúng thần định chạy về Sài Côn báo cho chúa biết chẳng ngờ gặp chúa nơi này.
Tân
vương thất kinh hỏi Nguyễn Đăng Trường:
-
Tây Sơn chiếm thành Trường Đồn là ta không còn đường chạy về Hà Tiên. Nay bốn
bên địch vây phủ vậy phải làm sao?
Trường
vẫn cần mẫn đáp:
-
Ta chỉ còn một con đường là theo đường sông ra cửa bể Hàm Luông chạy ra ngoài hải
đảo mà thôi!
Nói
đoạn chúa tôi đưa gia quyến xuống thuyền xuôi dòng sông hồng ra cửa bể. Trong
đoàn thuyền lánh nạn ấy có chiếc thuyền chở người cháu nội Võ vương Nguyễn Phúc
Khoát, con Hoàng tử Nguyễn Phúc Luân bị Phúc Loan giết chết trong ngục ở Phú
Xuân cùng Ý đức hầu Thái uý Trương Văn Hạnh năm xưa. Người này tên gọi Nguyễn
Phúc Ánh cùng mẹ và em gái là tiểu thư Ngọc Du đang ở trong thuyền, bỗng thuyền
bị gãy cột buồm nên đi chậm lại một đoạn khá xa. Phúc Ánh giật mình đứng trên
mũi thuyền nói thầm rằng:
-
Ta nghe nói tướng ra trận gãy cờ là điềm gở. Thuyền đang đi gãy buồm chắc là việc
chẳng lành!
Vừa
nói xong bỗng thấy phía trước đoàn thuyền chúa Nguyễn xuất hiện một đoàn thuyền
chiến Tây Sơn từ trong ngả rẽ ào ào xông ra. Tướng Tây Sơn đứng trên mũi thuyền
là Trần Quang Diệu quát:
-
Hai chúa đừng chạy nữa, tôi chờ hai chúa ở cửa sông này đã lâu!
Nói
xong Diệu liền hô quân vây bắt hai chúa Nguyễn. Tân vương ngoảnh lại thấy mình
chỉ còn vỏn vẹn mười chiếc thuyền nhỏ và một trăm tên quân, biết không thoát được
đành bó tay chịu trói. Thượng vương Nguyễn Phúc Thuần liền chạy ra sau lái thuyền
gào to lên rằng:
-
Phúc Ánh cháu ơi mau chạy đi!
Gào
xong nhảy xuống sông tự vẫn. Nguyễn Đăng Trường hét lên một tiếng đâm đầu theo
Phúc Thuần. Trần Quang Diệu sai quân lặn xuống nước vớt Thuần và Trường lên
thuyền. Về phần Nguyễn Phúc Ánh ở nơi xa thấy hai chúa bị Tây Sơn bắt liền quay
thuyền hối quân chèo gấp. Vợ Trần Quang Diệu là Bùi Thị Xuân lướt thuyền theo
đuổi bắt. Chạy được một đoạn Phúc Ánh liệu bề ở dưới sông không chạy kịp liền bảo
quân quay thuyền vào bờ dìu mẹ và em gái lên đất liền chạy trốn. Bùi Thị Xuân
cũng tấp thuyền vào cùng mươi nữ hộ vệ đuổi theo Phúc Ánh. Vì vướng mẹ và em nhỏ
chạy chẳng thoát, ngoảnh lại thấy quân đuổi theo toàn là nhi nữ, Ánh bèn quay lại
vung gươm rượt đánh. Được vài hiệp, Thị Xuân chờ giáo Phúc Ánh đâm tới, liền
đưa tay chụp lấy mũi giáo kẹp vào trong nách mình. Phúc Ánh dùng hết sức rút
giáo về nhưng cánh tay Bùi Thị Xuân như sắt không sao rút được. Thị Xuân kề
gươm vào cổ Ánh hô nữ binh trói lại. Lúc ấy mẹ Ánh và em gái Ánh là tiểu thư Ngọc
Du cũng vừa bị giải đến. Mẹ Ánh quỳ lạy Thị Xuân và khóc rằng:
-
Nay dòng họ Nguyễn của tiên vương chỉ còn một mình nó là trai. Xin bà hãy bắt mẹ
con tôi về làm tội, hãy tha thứ cho Phúc Ánh để nó lo việc tế tự tổ tiên về
sau.
Nói
xong khóc lóc thảm thiết. Tiểu thư Ngọc Du lúc ấy vừa tròn mười bốn tuổi cũng
quỳ cạnh mẹ mà lạy Thị Xuân. Thị Xuân ngoảnh mặt gạt đi:
-
Không van xin gì cả! Quân bay giải về hết cho ta!
Lúc
ấy Nguyễn Phúc Ánh mới quỳ lạy Thị Xuân ba lạy nói:
-
Tôi tuy còn nhỏ nhưng là nam nhi, vì nước loạn mà chết chẳng ân hận gì. Bất đắc
dĩ phải lạy nữ tướng quân ba lạy, xin nữ tướng hãy thả cho mẹ và em tôi được sống.
Mẹ tôi đã già, em tôi là nữ nhi thường tình không thể làm hại cho xã tắc được,
xin nữ tướng quân mở lượng hiếu sinh.
Thị
Xuân quay lại bảo:
-
Được! Ta tha cho mẹ và em ngươi. Quân bay giải Phúc Ánh đi!
Mẹ
Ánh ôm chân phải Thị Xuân khóc rống lên rằng:
-
Cả dòng họ chỉ còn mình nó là trai. Nó chết đi mẹ con tôi còn sống làm gì nữa.
Tiểu
thư Ngọc Du ôm chân trái Thị Xuân khóc nức nở cầu xin:
-
Bà cũng là phụ nữ, cũng làm mẹ cũng có con, ắt hiểu được tấm lòng của mẹ con
tôi. Vậy xin bà hãy tha cho anh tôi được sống.
Hai
mươi nữ binh của Thị Xuân trông thấy cảnh này đều rơi nước mắt. Thị Xuân động
lòng nói với em mình là Bùi Thị Cúc:
-
Nếu ta tha Phúc Ánh, ngộ nhỡ Chúa công bắt tội biết ăn nói làm sao?
Thị
Cúc đáp:
-
Việc này chỉ có chị em ta cùng hai mươi vệ quân thân tín, ta giấu đi sao Chúa
công biết được. Chỉ e rằng Phúc Ánh là dòng hoàng tộc nếu sau này khởi binh báo
thù thì nguy cho xã tắc mà thôi!
Thị
Xuân cười bảo:
-
Cả một cơ đồ còn phải sụp đổ thay, huống gì thằng con nít này trong tay chẳng một
tên quân thì làm gì ta được.
Nói
rồi liền ra lệnh tha cho ba mẹ con Phúc Ánh. Phúc Ánh cùng mẹ và em rối rít lạy
tạ ơn, rồi vội vàng dìu nhau đi về làng dân gần đó. Ngọc Du hỏi Ánh:
-
Anh ơi! Nay không cửa không nhà, không người thân thích biết phải về đâu?
Ánh
vỗ về Ngọc Du:
-
Trời đất này là của nhà Nguyễn ta, nay ta lại không có chỗ dung thân sao? Ta sẽ
về với Đỗ Thành Nhân.
Nguyễn
mẫu hỏi:
-
Ngày trước Thành Nhân quản thúc Thượng vương và hoàng tộc trong thành Sài Côn.
Nay theo về với hắn để làm tù nhân ư. Thà mẹ sống làm một người dân hạ tiện còn
hơn về với Đỗ Thành Nhân!
Ánh
trấn an mẹ và em rằng:
-
Mẹ cứ an tâm! Lần trước quản thúc họ nhà ta trong thành Sài Côn hắn tưởng rằng
con khờ dại nên mới bảo con lên mặt thành vờ không nhận Đông cung Thế tử Dương.
Nhờ vậy con bắn tên đưa thư cho Thế tử Dương thông báo việc Thành Nhân làm phản.
Đến nay Thành Nhân vẫn nghĩ rằng con tin hắn một dạ trung thành ắt vui vẻ mà
đón tiếp mẹ con ta. Vả lại Thành Nhân dấy binh lấy tên Đông Sơn là có ý cho rằng
binh hắn đối dịch với Tây Sơn. Nay có mẹ con ta hắn ắt mừng vì có nghĩa tôn
phò, không hậu tiếp con sao được? Mẹ chớ lo!
Nói
rồi liền dìu mẹ và em ngày đi đêm nghỉ bước thấp bước cao cực khổ trăm bề, tìm
đến rừng Tam Phụ nương náu Đỗ Thành Nhân.
***
Nói
về tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ vào thành Sài Côn rồi. Trần Quang Diệu và Bùi Thị
Xuân dẫn Thượng vương Phúc Thuần, Tân vương Phúc Dương, Tĩnh điệp hầu Nguyễn
Đăng Trường về nộp dưới trướng. Nguyễn Huệ cười hỏi Phúc Dương:
-
Đại huynh tôi sửa thành Đồ Bàn, tạm mời Đông cung Thế tử ra chùa Thập Tháp, chờ
sửa xong thành sẽ rước Thế tử về xưng vương. Sao Thế tử lại chạy vào Gia Định để
nhà Nguyễn ta có một lần hai chúa vậy?
Phúc
Dương đáp:
-
Ta thoát được về Gia Định mưu khôi phục cơ đồ. Nay việc không thành là do lòng
trời vậy. Muốn chém giết mặc lòng, chớ hỏi lôi thôi.
Nguyễn
Huệ truyền quân đem tạm giam Dương và Thuần, rồi tự tay mở trói cho Nguyễn Đăng
Trường hỏi:
-
Ngày trước chia tay ở Qui Nhơn, tiên sinh ra đi định xoay chuyển lại đất trời.
Nay tiên sinh bị tôi bắt lần nữa, cỗ xe cầu hiền tôi vẫn dành cho tiên sinh đó.
Chẳng hay ý tiên sinh thế nào?
Trường
lạnh lùng đáp:
-
Ngày nay chỉ có chết mà thôi!
Huệ
cười bảo:
-
Nếu thả tiên sinh lần nữa, chỉ e rằng lần sau quân lính của Huệ lại tốn thêm một
sợi dây trói chứ lợi ích gì?
Nói
rồi Huệ truyền quân lôi Thượng vương Phúc Thuần, Tân vương Phúc Dương và Nguyễn
Đăng Trường ra chém. Chém xong Huệ lại sai quân tống táng theo nghi lễ vương hầu.
***
Nói
về Nguyễn Lữ lấy xong thành Trấn Biên rồi, bèn sai Đặng Văn Long đem sáu ngàn
binh mã tiến đánh Bình Thuận. Quân Tây Sơn trước đặt đại bác bắn vỡ thành rồi
xung phong giáp chiến. Quân Nguyễn nghe súng nổ, trống đánh vang trời đã kinh hồn
bạt vía bèn bỏ thành chạy trốn vào rừng. Nguyễn Văn Hoằng lúc ấy đã ngoài năm
mươi tuổi, lên ngựa mặc giáp cùng vài trăm quân tín cẩn đến cửa thành cản địch,
bị Đặng Xuân Phong chém một đao rơi đầu. Đặng Văn Long thừa thắng kéo quân ra
thẳng thành Diên Khánh. Đồn trại quân Nguyễn dọc đường bị quân Tây Sơn tung hoả
hổ mà đốt, khắp nơi lửa cháy ngút trời. Bại binh quân Nguyễn đổ xô chạy về
thành Diên Khánh, tên nào tên nấy áo rách tả tơi, kẻ phồng mình, người gãy tay,
sứt trán kêu khóc xin mở cửa thành. Quan trấn thủ Diên Khánh là Tống Phước
Khuông kinh hãi đốc thúc quân canh phòng cẩn mật. Bỗng nghe trống trận Tây Sơn
dồn dập từ xa, quân của Khuông run lên bần bật. Khương nổi giận vung gươm chém
một tên quân vì sợ hãi mà rơi mất giáo. Khuông quát:
-
Giặc tới phải liều chết mà đánh, nếu ai sợ ta giết chết không tha.
Vừa
dứt lời quân Tây Sơn ở dưới thành đặt đại bác bắn vào. Súng nổ ầm ầm, đạn bay
vèo vèo lên mặt thành, trúng vào đâu gạch đá vỡ tan. Quân Khuông hò nhau bỏ chạy.
Khuông ngăn không được bèn hoà trong đám loạn quân bỏ thành mà trốn. Chiếm được
thành Diên Khánh, Đặng Văn Long nói với Đặng Xuân Phong:
-
Nay từ Qui Nhơn vào Gia Định chỉ còn quân Nguyễn đóng trên ải Vân Phong. Chiếm
được ải này là từ Quảng Nam đến Sài Côn đã thuộc về Tây Sơn ta vậy!
Nói
rồi truyền quân tiến đánh ải Vân Phong. Quân Tây Sơn đến chân đèo, thấy trên
đèo tĩnh mịch như tờ, không một bóng người. Long liền cho vài tên quân lên dò
thám, đến nơi mới hay tướng giữ Vân Phong là Tống Phước Lương và toàn quân đã bỏ
trốn mà trốn tự bao giờ!
Quân
Tây Sơn khắp nơi toàn thắng. Nguyễn Huệ liền để Lê Chu giữ thành Sài Côn, Nguyễn
Uy giữ thành Trường Đồn, Phạm Ngạn giữ Trấn Biên, Đặng Xuân Phong giữ Bình Thuận,
Diên Khánh rồi hợp binh các đạo tại cửa Cần Giờ định ngày rút về Qui Nhơn. Văn
Long hỏi Huệ:
-
Nay ta mới bình chứ chưa yên được đất Gia Định. Lê Chu, Nguyễn Uy, Phạm Ngạn đều
là người hữu dũng vô mưu không biết phép trị dân, nay ở lại trấn Gia Định e
lòng người không phục.
Huệ
đáp:
-
Ta cũng biết thế, nhưng lúc xuất binh ở Qui Nhơn đại huynh dặn dò ta khi chiếm
được Gia Định phải để ba người này trấn thủ ba dinh, rồi rút đại binh về Qui
Nhơn để phòng quân Trịnh xâm phạm mặt Bắc. ta để Lê Chu, Phạm Ngạn, Nguyễn Uy
trấn thủ ba dinh là làm theo lệnh đại huynh mà thôi.
Nguyễn
Văn Tuyết vểnh râu nói:
-
Nguyễn Uy, Lê Chu, Phạm Ngạn là do Chúa công lập trường đấu võ tuyển dụng ra.
Chúa công đố tài tướng quân nên để ba người này trấn Gia Định để làm vây cánh ở
cõi ngoài mà thôi.
Huệ
ôn tồn bảo Văn Tuyết:
-
Tuyết nói sai rồi! Chẳng qua đại huynh ta thấy các ông đều là hào kiệt nên muốn
cùng ta về Qui Nhơn đề phòng quân Trịnh. Tuyết chớ nói càn mà mang tội khi
quân.
Văn
Tuyết quỳ tâu:
-
Tướng quân là người trung hậu, tình nhà nghĩa nước vẹn đôi bề. Đối với Chúa
công hết dạ trung thành, chúng tôi rất lấy làm kính phục. Bản thân Tuyết tôi chịu
ơn cứu mạng của Chúa công, nguyện đem thân này ra đáp trả. Nhưng Tuyết tôi nghĩ
sao thì nói vậy, Chúa công là người nhân hậu, vì thương người nghèo mà dấy
nghĩa cứu dân, nhưng Chúa công tánh hay đố kỵ người tài trí hơn mình, e bất lợi
cho đại sự, tướng quân nên tính trước. Tuyết tôi nói thế là vì quốc dân mà
thôi. Xin tướng quân tha tội.
Nguyễn
Huệ trợn mắt quát:
-
Văn Tuyết to gan! Nếu không nghĩ ngươi là một công thần theo đại huynh ta từ
lúc Tây Sơn dấy nghĩa, ta giết chết không tha.
Nói
rồi đuổi Văn Tuyết ra ngoài, truyền quân xuất phát đem đại binh về Qui Nhơn.
xem tiếp: * Chương 25: Đánh Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc lên ngôi. - Nương Thành Nhân, Phúc Ánh làm chúa.
xem tiếp: * Chương 25: Đánh Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc lên ngôi. - Nương Thành Nhân, Phúc Ánh làm chúa.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...