Đã lâu rồi, mỗi lần giở trang nhật báo
ra, ta không còn cảm giác rợn người và thương tâm trước những vụ tai nạn giao
thông thảm khốc nữa. Thay vào đó, ta lại thấy may mắn vì những người thân của
ta không có trong danh sách thương vong. Rồi như không có gì xảy ra, ta thản
nhiên lao vào dòng chảy giao thông như một cuộc chiến: tranh thủ vượt đèn đỏ, bất
chấp lằn đường, giành giật nhau từng khoảng trống trên đường, ăn vạ hay hung
hãn đánh nhau khi lỡ va chạm và hậu quả còn nghiêm trọng hơn cả tai nạn thật.
Ở Mỹ, nếu ta đến giúp người gặp nạn thì
có thể bị nghi là thủ phạm và sẽ phải mất nhiều thời gian để chứng minh mình vô
can trước cảnh sát hay tòa án. Thế nên, nhiều người đã phải học cách nhẫn tâm,
nhắm mắt làm ngơ trước nạn nhân kêu cứu để khỏi gánh chịu phiền phức, “Chắc thế
nào cũng có người gọi báo cảnh sát thôi”.
Ở một số nước, luật quy định gây tai nạn
để lại thương tật tốn nhiều khoản bồi thường hơn gây tử vong. Điều này vô tình
biến những kẻ ích kỷ và hèn nhát thành kẻ đánh mất lương tri, họ cố tình cán nạn
nhân tới chết khi trót gây tai nạn, rồi lạnh lùng buông câu hỏi, “Tôi phải trả
bao nhiêu tiền cho cái xác này?”. Đó là sự thật khó tin trong thời đại của
chúng ta.
Ta cũng lánh xa dần
thói quen “click” chuột vào mục “tấm lòng nhân ái” của những trang tin điện tử,
vì sợ phải nhìn thấy những số phận éo le đến nghiệt ngã mà nao lòng: “Nhiều quá
làm sao giúp cho hết”, “Trách nhiệm này đâu phải của riêng ta”.
Ta tự nhủ thầm như thể
có ai đang bắt bí sự thờ ơ vô tình của ta vậy, rồi thấp thỏm đi tìm cảm giác dễ
chịu từ những mục văn nghệ giải trí, hay những thông tin bổ ích cho công ăn việc
làm. Thỉnh thoảng gặp vài người quen nằng nặc xin tiền bảo trợ cho hội từ thiện
nào đó, ta lại giương mắt nghi ngờ, vặn vẹo đủ điều, như thể không còn ai là
người tốt thật trên đời.
Cái đáng lo sợ nhất cho giới trẻ bây giờ
không phải là thiếu kiến thức, mà là thiếu niềm tin. Họ đã thôi bỡ ngỡ đến tỉnh
rụi trước sự giả trá. Họ từng nghe có những em học sinh đu dây qua sông đi học,
những đứa bé bị bóc lột lao động đến kiệt sức để kiếm tiền đóng học phí, nhưng
không biết những người có trách nhiệm cao nhất ở đâu khi họ đã từng hăng hái ký
vào Công ước Quốc tế về quyền bảo vệ trẻ em. Họ cũng từng biết có những cái chợ
vô hình mà nơi đó người ta bán thần thánh, bán chức tước, bán trinh tiết và bán
cả mạng người. Người lớn im lặng. Nhà chức trách làm ngơ. Thử hỏi người trẻ dựa
vào đâu để tin có chánh nghĩa, có công lý? Họ lấy gì để tiếp nối đây? Đứt đoạn
mất rồi!
Tất nhiên, không phải đến bây giờ người
ta mới sống vô cảm, nhưng phải nhìn nhận rằng cuộc tổng tấn công toàn diện của
kinh tế đã phá vỡ tan tành thành trì đạo đức, khiến biết bao kẻ cam tâm vứt bỏ
bản chất thiên nhiên của con người để trở thành cỗ máy vô tri. Ta thích kiểu sống
“độc lập” - không muốn đụng chạm tới ai và cũng không muốn ai phiền nhiễu tới
mình.
Ta luyện tập thuần thục thói quen “mặc kệ”
mọi biến động xung quanh, dù với người thân, để thẳng tiến tới mục đích làm
giàu hay thỏa mãn quyền lực. Như Đức Dalai Lama từng than, “Chúng ta đã lên tới
mặt trăng và trở về, vậy mà quá khó để bước qua đường gặp người hàng xóm mới”
(We’ve been all the way to the moon and back, but have trouble crossing the
street to meet the new neighbor). Chừng nào ta vẫn còn tin thỏa mãn danh vọng
là hạnh phúc lớn nhất của con người, vẫn bỏ cái chung vì cái riêng, thì ta sẽ
mãi không thuộc về nơi này và sẽ mãi độc hành với trái tim khô.