Vấn đề hôn nhân là một vấn
đề phức tạp và khó khăn nhất trong đời người. Hôn nhân là một nguồn hạnh phúc
vô tận nếu nó được thành tựu một cách mỹ mãn, nhưng nếu thất bại, thì đó là một
nguồn đau khổ rất lớn. Hôn nhân đem đến cho ta những cái cực đoan về vinh nhục,
sướng khổ của đời người, và giữa hai cái cực đoan đó có cả một loạt những trạng
thái trung gian, vừa khổ vừa sướng, vừa vinh vừa nhục.
Nói về phương diện pháp
lý, hôn nhân là một hợp đồng sống chung giữa hai người nam, nữ. Về phương diện
nhân sinh, đó là một sự phối hợp của nam và nữ tính, bản năng thúc đẩy của những
nhu cầu sinh lý và tình cảm. Hội Thánh Gia Tô coi hôn nhân như một nghi thức
thiêng liêng. Khoa tâm lý coi nó như một vấn đề xử thế và sinh hoạt. Kẻ ngông
coi hôn nhân như một cái bẫy chuột mà chỉ có những thằng ngốc mới chui vào.
Theo một sự định nghĩa rộng
rãi hơn căn cứ trên thuyết Luân Hồi, thì những quan điểm kể trên đều đúng,
nhưng chỉ đúng có một phần. Nhà tâm lý học Linhk định nghĩa hôn nhân là khiếm
khuyết và bất toàn cùng góp sức với nhau để tranh đấu cho hạnh phúc. Định nghĩa
này sẽ gần sát hơn với quan điểm của nền Minh Triết cổ truyền, nếu tranh đấu
cho hạnh phúc cũng là cố gắng để tự cải tiến lấy bản thân mình. Theo quan điểm
rộng rãi này, thì hôn nhân là một cơ hội cho hai linh hồn bất toàn bổ khuyết và
giúp đỡ lẫn nhau để thanh toán những món nợ nhân quả, rèn luyện những đức tính
mới của linh hồn và tiến hóa trên đường tâm linh.
Những cuộc soi kiếp của
ông Cayce đã nhiều lần xác nhận rằng không có một sự liên hệ quan trọng nào
trong đời người mà lại do sự ngẫu nhiên tình cờ. Vấn đề hôn nhân càng chứng
minh cho điều này một cách triệt để. Không có một cuộc hôn nhân nào bắt đầu từ
con số không: đó là sự nối tiếp của một câu chuyện đã bắt đầu từ lâu. Các cuộc
soi kiếp cho biết rằng bằng cách này hay cách khác, những người kết hôn thành vợ
chồng đã có nhân duyên với nhau trong kiếp trước. Đó là một điều lý thú. Trong
những cuộc soi kiếp, ông Cayce coi vấn đề hôn nhân như một điều tự nhiên của
con người, và ông thường nói: "Ừ! Hôn nhân là một việc tốt. Đối với một
linh hồn sống trên thế gian, đó là một cách sinh hoạt tự nhiên."
Có người hỏi: "Tôi có
nên kết hôn trong lúc này hay không?" Ông Cayce đáp: "Lúc nào cũng
nên, nếu anh chọn được người bạn trăm năm thích hợp. Điều đó tùy theo mục đích
mà anh theo đuổi khi anh muốn kết hợp với người ấy.
Một gia đình ấm cúng, đó
là hình ảnh của trạng thái điều hòa hạnh phúc mà tất cả mọi người đều mong muốn.
Về điều này, ông Cayce tuyên bố như sau với một người mà ông soi kiếp cho:
"Sự thành công của anh phải là cái tổ ấm, vì trên đời không có sự thành
công nào lớn hơn nữa. Ít người được thành công về cả hai khía cạnh nghề nghiệp
và hạnh phúc gia đình. Nhưng hạnh phúc gia đình mới là sự thành công lớn nhất,
và người nào coi thường điều ấy sẽ tự tạo nên những trách nhiệm nặng nề về sau.
Vì gia đình, tức là cái biểu tượng gần nhứt đối với điều nguyện vọng rốt ráo của
linh hồn trong tương lai: đó là một đời sống hạnh phúc trên Thiên Đàng. Bởi vậy,
anh hãy làm sao cho gia đình anh là cái hình bóng của cõi Thiên Đàng hạnh
phúc!"
Vì gia đình là nơi người
ta cùng theo đuổi một mục đích chung với một mối tình thân hữu, nó là một cơ cấu
thể hiện những mối liên quan giữa con người với Tạo Hóa. Đó là bởi gia đình có
một mục đích sáng tạo, khi mà những đơn vị gồm trong đó đều hợp nhứt với nhau
trong một lẽ sống và một lý tưởng chung.
Những quan niệm trên đây
không phải là mới lạ gì. Tuy nhiên, những cuộc soi kiếp trình bày một quan điểm
vừa tự do vừa tân tiến đối với vai trò và định mệnh của phụ nữ. Có điều lý
thú là vấn đề nam nữ bình quyền, và quyền tự do của phụ nữ trong việc sắp xếp
cuộc đời của mình, được coi như vấn đề đương nhiên. Ý niệm về sự đương nhiên
này biểu hiện rõ hơn trong những cuộc soi kiếp về những trường hợp mà đương sự phải chọn lựa một trong
hai điều: Nghề nghiệp và hôn nhân. Thần nhãn của ông Cayce không chấp nhận quan
niệm Phát xít và độc tài đặt để vai trò của phụ nữ
là ở trong gia đình, thờ chồng và nuôi con.
Cũng như trong những cuộc
khán bịnh, mà phương pháp điều trị không tùy nơi một đường lối duy nhứt, thì ở
đây cũng thế. Không hề có một phép xử thế nhứt định cho tất cả mọi trường hợp về
vấn đề hôn nhân. Những nguyên tắc tâm lý và đạo đức bao giờ cũng vẫn giống như
thế nhưng sự diễn đạt bằng hành động cử chỉ có thể khác biệt nhau tùy trường hợp.
Đối với vài phụ nữ, ông Cayce khuyên nên lập gia đình; nhưng đối với những người
phụ nữ khác, ông lại khuyên họ nên theo đuổi một nghề nghiệp. Có vài người, ông
khuyên họ nên hành nghề trước đã, rồi sau sẽ lo lập gia đình. Có người thì ông
khuyên họ vừa lấy chồng vừa theo đuổi một nghề nghiệp. Đối với những người khác
nữa, ông khuyên hãy chọn một trong hai điều; vì họ không thể phụng sự hai chủ
cùng một lúc.
Một thiếu nữ 18 tuổi, có
tánh e lệ rụt rè và bất mãn về cuộc đời, muốn biết xem cô có thể làm gì trong
tương lai. Cuộc soi kiếp nhấn mạnh rằng trước khi nghĩ đến hôn nhân, cô nên làm
một công việc có tánh cách săn sóc giúp đỡ các trẻ em. Cuộc soi kiếp cho biết:
"Nếu linh hồn này tìm cách tiến hóa cho con đường hôn nhân, thì cô sẽ bị
thất vọng đau đớn, trừ phi trước khi lấy chồng, cô đã có làm những công tác trợ
giúp xã hội và săn sóc trẻ em." Cuộc soi kiếp nói thêm rằng cô có thể giúp
các em gái nhỏ trong trại mẫu giáo hay một tổ chức tương tự.
Một nhà tâm lý học sẽ nhìn
nhận rằng lời khuyên đó rất lành mạnh, theo quan điểm thuần tâm lý. Dạy dỗ các
thiếu niên nhi đồng là những linh hồn kém kinh nghiệm hơn mình và làm việc
chung với họ, là một phương tiện rất tốt để cởi mở và phát triển tâm tính. Sự
chỉ huy và lãnh đạo kẻ khác giúp cho y mở đức tự tin, nếu không thì đức tính ấy
không bao giờ có cơ hội phát triển. Hôn nhân có thể hoàn toàn thất bại nếu cô ấy
chọn một người bạn trăm năm không xứng đôi vừa lứa, trong cơn tuyệt vọng của một
tâm hồn khép chặt và cô đơn. Dầu cho cô được một người chồng xứng đôi, sự thất
bại cũng vẫn có thể xảy đến nếu một trong hai người không có đủ sự hòa hợp cần
thiết để đương đầu với những vấn đề thích ứng với hoàn cảnh và những sự căng thẳng
mà hôn nhân tạo nên. Bởi vậy trong trường hợp này, phương pháp tốt nhất là hãy
làm một công tác xã hội và theo đuổi một nghề nghiệp trước khi lập gia đình.
Trong một trường hợp khác,
một thiếu nữ có khả năng được khuyên nên lập gia đình và đồng thời nên theo đuổi một nghề
nghiệp; nhưng cô chỉ nên kết hôn với một người nào mà hoàn toàn thích hợp với
cô mà thôi. Trong những kiếp trước, cô đã làm nhiều công việc khác nhau, và có
khả năng về các ngành điêu khắc, làm đồ gốm, ngành dệt vải, cùng với khả năng
âm nhạc và khiêu vũ,... Với cái di sản tài năng dồi dào đó, cô có đủ điều kiện
trở nên một nhà lãnh đạo, và sau khi đã nêu rõ các điều kể trên, cuộc soi kiếp
cho biết thêm: "Chúng tôi thấy rằng linh hồn này nên lập gia đình và đồng thời nên theo đuổi một nghề
nghiệp, với điều kiện là nghề nghiệp đó phải thích ứng với người chồng mà y chọn
lựa. Bởi vì nếu người chồng đó không phải là một người hoàn toàn thích hợp với
y và góp phần xây dựng vào công việc mà y sẽ làm, thì sẽ có những sự bất đồng ý
kiến và những sự thất vọng chua cay đến nỗi nó sẽ in sâu vào tâm hồn y những vết
thương nguy hiểm."
Trái lại, dưới đây là trường
hợp lý thú của một nữ tài tử trẻ đẹp và tài hoa, cô ấy yêu một người, và muốn
biết xem cô có thể vừa thành hôn vừa tiếp tục hành nghề tài tử của cô được
không? Cuộc soi kiếp trả lời không úp mở rằng: "Không được! Linh hồn này
có đủ những đức tính cần thiết để thành công hoặc trên sâu khấu hoặc trong gia
đình; nhưng cô không thể thành công trong hai việc cùng một lúc. Vậy cô hãy tự
chọn lựa lấy!" Xem xét tỉ mỉ những cuộc soi kiếp bề trên, thì người ta thấy
rằng những lời khuyên luôn luôn nhắm mục đích dìu dắt đương sự hướng về việc
phát triển tâm linh. Nếu một phụ nữ muốn theo đuổi một nghề nghiệp với những lý
do ích kỷ như là muốn có nhiều tiền, quần áo đẹp, địa vị cao sang, quyền hành
chỉ huy, danh vọng cá nhân... Thì nguồn tài liệu biết rõ cái tâm địa ấy và
khuyên y nên hướng về việc lập gia đình. Lời khuyên này được đưa ra không phải
vì lý do tình cảm hay theo tục lệ truyền thống về tánh cách thiêng liêng của
gia đình và vai trò của phụ nữ. Nó được căn cứ trên quan niệm rằng cái động lực
và mục đích là những tiêu chuẩn để xét đoán mọi hành động của con người; rằng một
hành vi ích kỷ bao giờ cũng không bằng một hành động vị tha, và những trách nhiệm
mà người ta phải gánh vác trong sự kết hôn và lập gia đình, dễ đưa con người ta
tìm kiếm để thụ hưởng riêng một mình trong một vài loại nghề nghiệp.
Bởi vậy, ông Cayce thường
khuyên nhiều phụ nữ, dầu rằng có tài năng, hãy nên tạo lập gia đình và nuôi
con; vì đó là cái kỷ luật tốt nhất để giúp đỡ cho họ khai mở những đức tánh tâm
linh mà họ còn thiếu sót, để thắng bớt lòng ích kỷ có ý thức hay vô ý thức
trong khi họ theo đuổi một sự nghiệp.
Một mặc khác, một vài phụ
nữ tài năng có thể thành thật muốn đem khả năng của mình để phụng sự nhân loại.
Đối với một phụ nữ thuộc về loại này thì một tổ ấm, một người chồng, một gia
đình có thể là những chướng ngại cho sự phát triển đầy đủ những khả năng của họ.
Bởi vậy ông Cayce thường khuyên họ hãy trì hưỡn việc lập gia đình một thời gian
hoặc nên phối hợp việc hôn nhân với việc hành nghề cùng một lúc. Mục đích tối hậu,
đối với những người độc thân cũng như đối với những có gia đình, là sự phát triển
tâm linh; và dầu là đàn ông hay đàn bà họ đều là những linh hồn bất
tử và có quyền chọn lựa một tình trạng gia đình thích hợp nhứt, có thể giúp họ
theo đuổi sự phát triển tâm linh.
Ông Cayce coi cái quyền tự
do sắp đặt cuộc đời của mình không những là một quyền hạn trên địa hạt xã hội
mà còn là một cái quyền trên địa hạt vũ trụ. Nói theo danh từ triết học, thì
cái quyền đó gọi là quyền tự do ý chí (libre arbitre), nó đã từng là một đầu đề
tranh luận gay go sôi nổi trải qua nhiều thế kỷ. Một trong những điểm quan trọng
nhất của thuyết Luân Hồi là nó nhấn mạnh về sự hiện hữu của quyền tự do ý chí.
Một điều lầm lạc rất thông thường của những người tin tưởng ở thuyết Luân Hồi
và Nhân Quả, là họ cho rằng số mạng con người đã được định sẵn từ trước.
Một sự tin tưởng sai lầm
như thế có những hậu quả rất tai hại về mặt tâm lý và đạo đức tâm linh, vì nó làm xuống
tinh thần và làm tê liệt ý chí tiến thủ của con người. Thái độ buông xuôi, thụ
động của người Ấn Độ, là một dân tộc phần đông tin tưởng ở thuyết Tiền Định, đã
chứng minh cho điều tai hại của sự lầm lạc kể trên. Chúng ta nên biết rằng mỗi
cái hắt hơi, mỗi vết muỗi cắn, hoặc mỗi lần dự tiệc, không phải là đã tiền định hằng bao nhiêu thế về
trước. Phần nhiều những chi tiết về cuộc đời chúng ta đều hoàn toàn do chúng ta
định đoạt bằng tư tưởng và ý chí ngay trong lúc hiện tại. Thật ra, tất cả những
sự việc xảy ra trong đời chúng ta, từ việc quan trọng như việc hôn nhân đến việc
nhỏ mọn như việc ăn một cái kem chẳng hạn, đều do chúng ta định đoạt. Những sự
khó khăn trắc trở nó đè nặng lên vai chúng ta bây giờ đều
là kết quả của những lỗi lầm mà chúng ta đã gây nên trong quá khứ do sự định đoạt
của chính mình. Những sự khó khăn đó dường như đến với chúng ta từ bên ngoài, bởi
vì chúng ta đã quên những hành động của ta trong dĩ vãng và tầm nhỡn quang của
chúng ta quá ngắn ngủi nên chúng ta không thể nhìn thấy sự liên quan giữa những
hành động đã qua với cuộc đời chúng ta trong lúc hiện tại. Như thế nếu chúng ta
hiểu rõ định luật Luân Hồi, thì sự tranh luận giữa hai vấn đề tự do ý chí và định
mệnh đã được giải quyết. Chúng ta sở hữu quyền tự do ý chí chẳng khác nào như một
con chó bị buộc dây nơi cổ; nói một cách khác, con chó được hoàn toàn tự do đi
đứng, chạy nhảy tùy theo ý muốn trong cái tầm của sợi dây dài hay ngắn. Cũng y
như thế, luật Nhân Quả định đoạt cái tầm sợi dây dài hay ngắn của mỗi người
trong chúng ta; chúng ta được hoàn toàn tự do trong cái tầm giới hạn đó.
Vấn đề tự do ý chí này kêu
gọi sự chú ý của những người khảo cứu các tập hồ sơ soi kiếp của ông Cayce về vấn
đề hôn nhân và nhất là những cuộc soi kiếp cho những người đưa ra những câu hỏi
về bạn trăm năm của mình sau này. Các cuộc soi kiếp luôn luôn cho biết rằng việc
hôn phối giữa hai vợ chồng là do những sợi dây duyên nghiệp tạo nên; tức là những
cặp uyên ương sắp sửa đi đến hôn nhân đều là những người quen nhau từ kiếp trước,
nhưng họ đã quên và ngày nay họ gặp nhau trở lại để cùng thanh toán những món duyên
nghiệp nợ nần chung giữa hai người.
Tuy nhiên, trong vấn đề
hôn nhân cũng như trong tất cả mọi vấn đề khác, luôn luôn vẫn có quyền tự do ý
chí và tự do chọn lựa. Dầu cho giữa hai người có một sợi dây duyên nghiệp nó biểu
lộ bằng một sự hấp dẫn mãnh liệt, sự phối hợp của họ trong lúc hiện tại không
phải luôn luôn là cần thiết hoặc nên khuyến khích. Dưới đây là hai cuộc vấn đáp
ngắn để diễn tả sự việc kể trên:
1. - Hỏi: Tôi có nên kết
hôn với anh chàng trai trẻ đang tỏ tình với tôi lúc này chăng?
Đáp: Hai người vốn có
duyên nghiệp với nhau từ trước. Nhưng tốt hơn cô đừng nên làm hôn phối với y.
2.- Hỏi: Cuộc hôn nhân của
tôi với F.S. Có thể giúp cho sự phát triển chung của chúng tôi chăng?
Đáp: Có thể được, nhưng
chúng tôi thấy rằng có nhiều người khác mà cô có thể phối hợp để cùng nhau phát
triển một cách điều hòa và phát triển hơn nữa. Đó là những người mà kiếp trước
cô đã có tạo nghiệp duyên từ hồi thời kỳ văn minh cổ Ai Cập. Dầu sao, sự chọn lựa
phải là ở tự nơi cô. Thật ra, cô có một món nợ nghiệp duyên với F.S. Mà cô cần
phải trả cho dứt, nhưng phương tiện dở nhứt là kết hôn với y!
Khi mà ông Cayce ngăn cản
một cuộc hôn nhân, dầu cho trong những trường hợp hai người có dây duyên nghiệp
với nhau, người ta có thể giải thích bằng nhiều cách. Trước hết, có thể rằng
trong kiếp này những người ấy cần phải học những bài học kinh nghiệm khác, quan
trọng hơn là sự liên hệ giữa vợ chồng. Cũng có thể rằng một người, hoặc cả hai,
đều chưa đủ chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với vấn đề hôn nhân. Hoặc cũng có thể
rằng cuộc hôn nhân trù liệu là một hành phạt quá nặng nề đối với sự lỗi lầm trước
kia của đương sự. Và sau cùng, cũng có thể rằng hai người trong cảnh xa nhau, sẽ
học bài tâm linh đó một cách hữu hiệu hơn là trong sự sum họp vợ chồng.
Những cuộc soi kiếp thường
không nói rõ lý do vì sao trong mỗi trường hợp, đương sự nên đi đến hôn nhân
hay là không nên. Dẫu cho trong những trường hợp mà hôn nhân được coi như một
giải pháp tốt đẹp, ông Cayce cũng để cho đương sự hãy tự quyết định lấy. Ông ít
khi nào đưa ra một quyết định thế cho người trong cuộc. Thái độ căn bản đó đã
hiện rõ ràng trong trường hợp dưới đây của một cặp uyên ương đến hỏi ý kiến ông
về việc họ có nên kết hôn với nhau chăng? Cuộc soi kiếp cho biết rằng họ đã
cùng nhau trải qua hai lần kinh nghiệm về việc vợ chồng, một lần ở Ba Tư và một
lần ở Ai Cập. Đó là cái lý do của sự hấp dẫn mãnh liệt nó thu hút hai người lại
với nhau trong kiếp này. Về cuộc hôn nhân của họ, cuộc soi kiếp không nói dứt
khoát, mà cho biết rằng: "Nếu giữa hai người có một sự hòa hợp về lý tưởng
và mục đích, thì hôn nhân có thể là một kinh nghiệm tốt đẹp."
Người thiếu nữ hỏi ông câu
này: "Mỗi người trong chúng tôi có thể kết hôn với một người nào khác mà
có hạnh phúc nhiều hơn hay là nếu hai chúng tôi kết hôn với nhau chăng?"
Ông Cayce đáp: "Nếu cô hỏi như thế, tôi có thể trả lời bằng cách đưa ra
cho cô danh sách của hai mươi lăm hay ba mươi người khác. Còn đi đến hôn nhân
hay không, thì đó là vấn đề mà cô hãy tự giải quyết lấy."
Trong vài trường hợp, lời
khuyên được đưa ra một cách dứt khoát như sau:
Hỏi: Tôi có nên lập gia
đình với người đàn ông đã làm lễ đính hôn với tôi
chăng?
Đáp: Không nên!
Tuy nhiên, trong phần nhiều
trường hợp, cuộc soi kiếp vẫn để cho đương sự được hoàn toàn tự do lựa chọn.
Nhưng đồng thời, ông Cayce cũng đưa ra những tiêu chuẩn để dìu dắt đương sự
trong việc chọn lựa đó. Một người đàn ông hỏi: "Cô M.L. Có thể là
người vợ hiền và xứng đôi với tôi chăng?" Ông Cayce đáp: "Điều đó phải
tự ông quyết định, chớ không phải tôi! Ngoài ra sự thích hợp với nhau về phần
trí não và thể chất, giữa hai người có sự hòa hợp về khía cạnh tâm linh hay không?
Hai người có cùng chung một lý tưởng một mục đích hay không? Nếu không, thì này
ông bạn hỡi... Hãy coi chừng?"
Trong thí dụ sau đây, một
người đàn bà hỏi rằng trong bốn người đàn ông muốn thành hôn với cô, cô
nên chọn lựa người nào? Cuộc soi kiếp cho biết: "Điều đó tùy ở nơi lý tưởng
mà cô theo đuổi. Mỗi người trong số bốn người đã có liên hệ với cô trong quá khứ,
có người thì giúp đỡ nhưng có người lại làm chướng ngại cho bà. Nếu tôi khuyên
cô nên tránh người nọ, hoặc nên chọn người kia, thì tức là đặt cô ở vào một vị trí sai lầm, và
cũng đặt luôn cả những người kia ở cái vị trí đó nữa. Chính cô phải lựa chọn lấy,
và cái tiêu chuẩn phải là hướng về một cuộc đời phụng sự. Cô hãy nhớ rằng tất cả
mọi người đều tự do."
Căn cứ vào những tài liệu
kể trên, người ta có thể suy diễn ra cái nguyên tắc chọn lựa người bạn trăm năm
của mình. Người ta có thể nói rằng phần nhiều những cuộc hôn nhân đều căn cứ
trên sắc đẹp và sự hấp dẫn của thể xác. Theo quan điểm những cuộc soi của ông
Cayce, thì sự hấp dẫn về phần trí tuệ và sự hòa hợp tinh thần. Một cuộc hôn
nhân có hạnh phúc phải căn cứ trên cái nền tảng tam giác đó, cũng như trên ba
cái chân vạc vững chắc. Nếu một trong ba khía cạnh đó bị thiếu sót, thì cuộc
hôn nhân ấy bị què hết một chân! Lý tưởng của một người phải tương xứng, hoặc
ít nhất là xấp xỉ bằng nhau với cái lý tưởng của người bạn trăm năm, trên mỗi
phần của ba phương diện nói trên; nếu không thì nguy cơ sụp đổ và thất bại chua
cay đang rình rập hầu kề một bên. Kết hôn một cách vội vàng cẩu thả, không suy
nghĩ chín chắn về những điều quan trọng kể trên, tức là tự chuốc lấy điều tai họa,
khó khăn trắc trở vậy.
Khi chúng ta cảm thấy một
sự hấp dẫn mãnh liệt đối với một người khác phái, chúng ta hãy cẩn thận đề
phòng. Cẩn thận tức là phải nhìn thấy xa để khỏi tưởng lầm rằng một sự hấp dẫn
thể chất và dục tình sẽ trở nên một cuộc hôn nhân hạnh phúc, và coi chừng kẻo lại
vô tình mà châm lửa vào cái ngòi thuốc súng của một tình trạng quả báo sắp sửa
nổ bùng!
xem tiếp: * CHƯƠNG 13 - Những Thiếu Phụ Cô Đơn
xem tiếp: * CHƯƠNG 13 - Những Thiếu Phụ Cô Đơn
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...