Ngày nay, nhiều người đã
quen thuộc với cái tên của bác sĩ Freud và danh từ tiềm thức. Tuy nhiên, nhiều
người không biết rằng bác sĩ Freud đã khám phá ra tiềm thức trong khi ông theo
đuổi những cuộc sưu tầm về giấc ngủ thôi miên. Vì những người ngủ mê trong giấc
thôi miên có thể nhớ lại những sự việc xảy ra từ thuở nhỏ mà họ đã hoàn toàn
quên hẳn trong lúc bình thường, nên ông Freud mới đưa ra giả thuyết rằng trạng
thái tiềm thức là một kho ký ức giữ gìn những tài liệu cũ mà người ta không thể
nhớ lại bằng cách nào khác.
Về sau, ông Freud bỏ không
dùng khoa thôi miên như một kỹ thuật chữa bịnh nữa, vì trong nhiều trường hợp,
nó không được hoàn mỹ, và ông tiếp tục thí nghiệm những phương pháp khác để
thám hiểm những vực sâu thẳm của tiềm thức. Tuy thế, người ta cũng đã coi khoa
thôi miên như là nguồn gốc của khoa phân tâm học (psychanalyse).
Trong lĩnh vực tâm lý theo
thuyết Luân Hồi, khoa thôi miên có thể có một vai trò tương tự. Thần Nhãn của
ông Cayce dường như chỉ rằng một người trong giấc thôi miên có thể khám phá những
kiếp trước của những người khác. Một sự kiện quan trọng hơn nữa là dường như một
người trong giấc thôi miên cũng có thể nhìn thấy và sống lại những tiền kiếp của
chính mình.
Những kinh nghiệm thụt lùi
về quá khứ trong giấc thôi miên chỉ rằng trong tiềm thức của một người, được giữ
gìn ký ức của tất cả mọi việc đã xảy ra từ khi y mới sinh. Một người trong giấc
thôi miên, thụt lùi về dĩ vãng đến năm y lên mười tuổi, khi người ta truyền lệnh
cho y viết tên của y, thì y viết với tuồng chữ của tuổi thơ ấu hồi y lên mười.
Khi y thụt lùi về năm lên sáu tuổi y viết với tuồng chữ còn non nớt hơn nữa;
khi y thụt lùi lại năm lên ba, y cầm viết chì vẽ nguệch ngoạc vài nét không có
ý nghĩa gì cả. Hiện tượng thụt lùi về quá khứ trong giấc thôi miên kể trên thường
được thí nghiệm trong những lớp giảng về khoa tâm lý ở trường Đại Học, và những
sinh viên tâm lý học đã quen thuộc với hiện tượng ấy.
Nhà bác học Pháp De Rochas
hồi thế kỷ mười chín tuyên bố rằng với những kỹ thuật thụt lùi về dĩ vãng như
đã kể trên, ông có thể nhớ lại những kỷ niệm đã qua trong quá khứ. Quyển sách của
ông nhan đề "Những Kiếp Sống Liên Tục" (Les Vies Successives) không
được coi như một quyển sách khoa học, nhưng có lẽ một ngày kia nó sẽ được hoan
nghênh như một công trình tiền phong trên địa hạt tâm lý về thuyết Luân Hồi. Những
quái trạng tâm lý được xem xét bằng hiện tượng Thần Nhãn của ông Cayce, giải
thích tánh chất của trí nhớ và tiềm thức, và có vẻ xác nhận rằng tiềm thức con
người thật ra còn thâm sâu hơn là những điều mà các nhà phân tâm học có thể hiểu.
Một trong những quái trạng tâm lý lạ lùng nhất là sự sợ hãi. Những nhà phân tâm
học định nghĩa điều này như là sự sợ hãi quá độ, mà nguồn gốc là do bởi nhiều
tình trạng phức tạp gây nên. Sự sợ hãi dị thường này làm cho con người sinh
lòng thù nghịch, gây hấn, hoặc cảm thấy mình có tội lỗi rất nặng nề. Những xúc
cảm ẩn tàng này về sau biểu lộ dưới hình thức một sự sợ hãi vô lý và bất thường
đối với một vài sự vật ở ngoại cảnh, thí dụ như sợ giông mưa, sấm sét, sợ dao,
sợ nước ... Có nhiều trường hợp; những kinh sợ đó được truy nguyên từ một việc
xảy ra trong một kiếp trước, làm cho y bị đau khổ hay thiệt mạng.
Một thí dụ lý thú là trường
hợp của một người đàn bà từ thuở thiếu thời đã sợ những
gian phòng kín. Ngồi trong rạp hát, cô phải chọn một chỗ ngồi gần chỗ cửa đi
ra. Ngồi trên xe buýt, nếu xe chật chỗ và quá đông người, cô bước xuống đợi
chuyến xe khác. Trong những khi đi nghỉ hè, đi chơi ở miền núi, cô rất sợ chui
vào những hang, động, hầm hố hay bất cứ chỗ nào bốn bể kín mít, không có ngõ
ra. Người trong gia đình không ai hiểu lý do của thái độ lạ lùng này, vì không
ai có thể nhớ lại hồi thuở nhỏ đã xảy ra việc gì làm cho cô có sự sợ sệt như vậy.
Cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng trong một kiếp trước, cô chui vào một
cái hang, thình lình hang sụp lở, bị đè bẹp dưới đống đá, sỏi, cát vụn,
và chết ngộp. Ký ức về cái chết rùng rợn này ngày nay vẫn còn in sâu trong tiềm
thức của cô.
Một thí dụ khác là trường
hợp của một người đàn bà nọ có hai điều kinh sợ: Sợ
dao bén và sợ những loài thú có lông, nhứt là những loài thú nhà. Cô nổi cơn hoảng
loạn mỗi khi có một vật bén nhọn ở gần bên mình hay khi thấy ai xử dụng gươm
dao... Cuộc soi kiếp cho biết trong một kiếp trước ở Ba Tư, người đàn bà này bị giết vì một lưỡi gươm
trong lúc chạy loạn. Còn việc sợ thú có lông thì khó hiểu hơn, vì trong gia
đình, người nào cũng có nuôi chó hay nuôi mèo, người anh của cô lại thích nuôi
thú. Nhưng mỗi khi cô nhìn thấy con chó hay con mèo thì giựt mình kinh sợ như
người gặp phải rắn độc. Hơn nữa, cô không khi nào mặc áo choàng bằng da thú, hoặc
cổ áo may bằng lông thú. Những nhà tâm lý học có thể tìm căn nguyên sự sợ sệt của
cô trong những sự giao tế với người trong gia đình, thí dụ như lòng ganh ghét đố
kỵ đối với người anh ưa nuôi thú chẳng hạn, và giải đáp vấn đề ấy như là sự biểu
lộ lòng căm thù nghịch của cô. Tuy nhiên, những cuộc soi kiếp truy nguyên sự sợ
sệt này từ một kiếp trước ở châu Atlantide, khi đó cô đã trải qua một kinh nghiệm
khủng khiếp về những loài vật có hình thù ghê rợn. Cuộc soi kiếp cũng đã giải
thích nhiều quái tượng sợ hãi khác và truy nguyên ra từ những kiếp trước. Sự sợ
hãi bóng tối của một người nọ được giải thích rằng trong kiếp trước, y là một
chính trị gia phạm tội dưới thời Louis 16 và bị giam cầm trong một đài cao ở Pháp cho đến khi chết bỏ
xác trong ngục tối. Một người nữa sợ dao bén; đến lúc truy nguyên ra thì được biết
rằng kiếp trước y đã trải qua một kinh nghiệm rùng rợn trong một phòng tra tấn ở
Pháp, và đã bị tra khảo bằng những thứ hình
cụ khủng khiếp, gồm cả sự tra tấn bằng hình cụ bánh xe (rouet). Một người nọ có
những cơn hoảng sợ bất thần, dường như y cảm thấy rằng ngày tận thế sắp đến! Cuộc
soi kiếp truy nguyên sự sợ sệt này ở một kiếp trước, vào thời kỳ một phần châu
Atlantide bị sụp lở chìm xuống đáy biển. Trong khi đó y đang ngồi một mình trên
một ngọn đồi cao để xem sách, thình lình cơn động đất làm rung chuyển trọn cả
vùng chung quanh như trời long đất lở và y nhìn thấy nước biển dâng lên bốn
phía chung quanh ngọn đồi của y.
Một người đàn bà kia sợ thú dữ một cách lạ
thường. Kiếp trước ở La Mã, người chồng bị tội và bị bắt buộc phải đấu sức với
loài thú dữ trong võ trường.
Hai người kia sợ nước một
cách rất vô lý. Truy nguyên ra thì được biết rằng kiếp trước họ đi tắm sông, bị
dòng nước xoáy cuốn đi và bị chết đuối. Một người nữa cũng sợ nước, được biết rằng
quái trạng này là do bởi trong tiền kiếp hồi thời đế quốc La Mã, y đã bị đắm
tàu chết đuối trong một cơn bão nổi lên ở giữa biển.
Khi chúng ta xét kỹ những
trường hợp này theo quan điểm tâm lý thông thường, chúng ta có thể tự hỏi rằng
phải chăng tất cả những thí dụ trên đây cũng có thể được giải thích một cách thỏa
đáng bằng cách tìm ra một nguyên nhân trong kiếp hiện tại. Thí dụ, người đàn bà sợ ngồi trong phòng kín, có
thể đã bị nhốt trong một phòng tối lúc lên bốn tuổi, nhưng ngày nay cô đã quên
mất việc đó. Do sự khêu gợi trong giấc thôi miên, người ta có thể đào xới việc ấy trong ký ức đã lãng
quên từ lâu và nhà tâm lý học có thể căn cứ trên tài liệu đó mà hiểu những vấn
đề xúc động thường gây nên các chứng bịnh loạn thần kinh. Nhiều người đã có
kinh nghiệm cùng một loại giống như trên, nhưng lại không có sự sợ hãi một các
vô lý. Như vậy tại sao có người lại có sự thụ cảm đặc biệt đó? Nếu tất cả những
người đã trải qua những cơn xúc động tình cảm đều đâm ra sợ ngồi trong phòng
kín, thì trên thế gian, người thuộc về hạng này sẽ nhiều đến nỗi người ta phải
đóng cửa tất cả phòng điện thoại, buồng ngủ, những gian phòng độc chiếc, và vài
loại hộp đêm, như là những nơi hăm dọa sự
thăng bằng của tâm hồn, trí não và sức khỏe công cộng.
Trong tập hồ sơ Cayce, vấn
đề này được giải đáp như sau:
Sự kiện rằng một đứa trẻ tỏ
ra thụ cảm hơn một đứa trẻ khác trong một tình trạng xúc động tâm lý nhất định,
có thể là do kinh nghiệm ở một kiếp trước. Hoàn cảnh tạo ra trong kiếp này là
cái phương tiện làm thức động trở lại cái ấn tượng kinh khủng đã bị vùi lấp
trong ký ức. Theo thuyết Luân Hồi, chúng ta thấy rằng tiềm thức cũng ví như một
cái hộp có hai đáy, nó vốn thâm sâu hơn là người ta tưởng trong lúc bình thường.
Vài nhà tâm lý học, nhứt là Carl Jung, cảm thấy rằng những lớp sâu thẳm trong
tiềm thức cần được nêu ra để giải thích những quái trạng về tâm lý mà người ta
không thể giải thích được bằng cách nào khác.
Theo quan điểm của ông
Cayce, mỗi người đều có những ký ức tiềm tàng đột khởi từ một quá khứ xa xăm,
do những kinh nghiệm của y đã trải qua trong những tiền kiếp. Tất cả những sự sợ
hãi, thù ghét, thương yêu và những tình cảm vô ý thức của y đều là thành phần của
một cái sản nghiệp tinh thần mà y tự để lại cho mình, chẳng khác nào như người
ta tích trữ của cải ngày hôm nay để dùng lại cho một ngày về sau. Con người văn
minh tân tiến ngày hôm nay đã từng là một người dã man mọi rợ trải qua nhiều kiếp
trong dĩ vãng, và bởi đó, thật là một điều tự nhiên nếu y vẫn còn một vài thú
tính mà y chưa tinh luyện và loại trừ. Trong cái dĩ vãng xa xăm đó, chính y đã
từng trải qua những điều sợ hãi khủng khiếp trong rừng rậm, và những sự tàn nhẫn
độc ác của loài người. Vậy thì thật là một điều tự nhiên nếu ngày nay, thỉnh
thoảng y vẫn cảm thấy những cơn sợ hãi bất thường, vô lý, và những nỗi lo âu
phiền muộn vô căn cứ. Chính y đã từng thương yêu, ghét bỏ hay đố kỵ nhiều người
khác mà y tiếp xúc trong dĩ vãng: Vậy thì là lẽ tự nhiên nếu ngày nay y cũng lại
cảm thấy đối với chính những người đó, đã cùng đầu thai lại trong kiếp này những
mối thiện cảm, thương yêu hay thù hận, ghét bỏ một cách vô lý và không thể giải
thích được lý do.
Những ký ức thuộc về kiếp
trước có thể biểu lộ trong kiếp này bằng những phương tiện khác hơn là những sự
sợ hãi hay những quái trạng tâm lý. Ông Cayce đã căn cứ trên thuyết Luân Hồi để
giải thích hiện tượng về những giấc mộng tái diễn trở lại nhiều lần. Một thí dụ
lạ lùng về vấn đề này là của một người đàn bà đưa ra câu hỏi sau đây: "Tại
sao hồi thuở nhỏ tôi thường nằm mộng thấy cảnh tận thế, với những luồng mây đen
bao phủ và tiêu diệt cõi thế gian?" Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce trả lời
rằng trong một kiếp trước ở châu Atlantide, người đàn bà ấy đã làm nghề giáo sĩ và y
sĩ, và đã chứng kiến một trong những vụ
thiên tai kinh khủng làm sụp đổ châu này dưới lòng biển sâu. Cái ấn tượng rùng
rợn đó vẫn còn in sâu trong tâm hồn cô đến nỗi nó thường xuất hiện trở lại
trong giấc ngủ trong kiếp này.
Một trường hợp lý thú khác
là của một em gái nhỏ bốn tuổi, thường làm cho mẹ nó lo âu vì mỗi đêm nó đều giựt mình tỉnh giấc, khóc
la bai hãi một cách vô cùng sợ sệt. Em nhỏ này đầy đủ sức khỏe và không có bịnh
tật chi. Mẹ nó bèn viết thơ cho ông Cayce để xin ông giải thích về quái trạng của
đứa bé. Cuộc soi kiếp cho biết kiếp trước em chết bất đắc kỳ tử trong trong trận
Thế Chiến Thứ Hai ở Pháp. Nhưng chỉ trong chín tháng sau, em đã đầu thai trở lại
trong một gia đình ở Bắc Mỹ. Trong khoảng trung gian ngắn ngủi giữa hai kiếp sống,
những kỷ niệm rùng rợn về chiến tranh binh lửa vẫn chưa xóa mờ trong ký ức của
em và thường xuất hiện trong giấc ngủ.
Những trường hợp kể trên
không khỏi làm cho chúng ta lại nêu ra câu hỏi về vấn đề trí nhớ. Nhiều người
phản đối thuyết Luân Hồi thường đưa ra lập luận này, là nếu có Luân Hồi thì tại
sao chúng ta không nhớ lại những kiếp trước? Điều này mới nghe qua thì dường
như lạ lùng, nhưng thật ra nó không lạ gì lắm, nếu chúng ta cũng không nhớ được
hết những việc gì đã xảy ra trong đời chúng ta lúc còn thơ ấu hay trong thuở
thiếu thời. Trí nhớ của con người là một cái gì rất mỏng manh, tế nhị, và những
sự việc trôi qua trong đời chúng ta chẳng khác nào như nước chảy giữa dòng, cho
nên khi nói rằng ta không nhớ một việc gì, không có nghĩa là việc ấy không có xảy
ra.
Nếu chúng ta hỏi một người
bạn câu này: "Anh đã làm gì vào đúng 10 giờ 26 phút buổi sớm mai ngày 19
tháng 4 năm 1939?" Chúng ta có thể đem hết cả gia tài để đánh cuộc rằng y
không thể nhớ từng chi tiết rõ ràng như y đã làm gì vào ngày hôm đó, y mặc y phục
như thế nào, nói những chuyện gì, với ai... Việc y không nhớ rõ các việc đã xảy
ra trong một ngày giờ nhất định trong đời của y, không có nghĩa là y đã không
trải qua những giờ phút đó.
Bởi đó, sự phản đối thuyết
Luân Hồi bằng những lập luận nói trên không thể đứng vững. Trước hết sự lãng
quên là một hiện tượng rất thông thường và rất tự nhiên của con người. Sau nữa,
trí nhớ có một tính chất rất đặc biệt là rất chóng quên phần chi tiết, mà chỉ
giữ lại cái nguyên tắc đại cương.
Thí dụ: Mỗi người có học
thức đều có thể nói rằng 7 lần 7 là 49, và 12 lần 12 là 144. Y không nhớ rằng y
đã trải qua những giờ mệt nhọc vất vả trong lớp học hồi thuở thiếu thời để làm
những bài toán đó, nhưng khả năng suy tính và sự thông hiểu toán pháp hãy còn tồn
tại trong trí óc của y.
Những sự hiểu biết khác của
con người cũng được giải thích bằng cách đó, chẳng hạn như sự cẩn thận đề phòng
khi ta đứng gần lửa, sự dè dặt và sợ chó khi bước vào nhà người lạ; khả năng về
âm nhạc, khiêu vũ, hay sự thông hiểu, khéo léo của ta về bất cứ một ngành nào.
Việc chúng ta biết đi biết đứng chứng tỏ rằng có một thời kỳ chúng ta đã tập đứng,
tập đi, nhưng trong một vạn người, không có đến một người nhớ rõ những sự cố gắng
vất vả khó khăn mà y đã làm từ thuở ấu thơ để có thể đi đứng tự nhiên được như
bây giờ. Như vậy, sự lãng quên về phần chi tiết vẫn không làm mất đi trí nhớ về
phần nguyên tắc, và tất cả những khả năng và đức tính của con người trên phương
diện luân lý, trí tuệ, đạo đức tâm linh, đều là sự tổng hợp tất cả những kinh
nghiệm mà y đã trải qua trong những tiền kiếp, mà ngày nay đã quên mất những
chi tiết.
Lý luận thứ hai mà người
ta dùng để phản đối thuyết Luân Hồi lại càng tế nhị hơn. Họ cho rằng thật không
phải lẽ mà bắt buộc một cá nhân phải chịu trách nhiệm về những hành động mà một
cá nhân khác đã làm. Họ cho rằng quả báo và sự trừng phạt chỉ có một ý nghĩa là
khi nào kẻ phạm tội có ý thức được và nhìn nhận tội lỗi của y. Sự trả lời của
Đaọ gia về lập luận này căn cứ trên điều mà họ gọi sự liên quan giữa cá tính và
linh hồn.
Linh hồn bất diệt ví như một
tài tử ở ngoài vòng sân khấu, có thể nhớ rõ quá khứ, nhưng khi chuyển kiếp làm
người, chẳng khác nào như người tài tử đóng một vai trò nhất định, thì sự mầu
nhiệm của luật Thiên Nhiên khiến cho y không nhớ điều gì cả ngoài ra phần
nguyên tắc đại cương của những kinh nghiệm mà y đã thâu thập được trong các kiếp
trước. Ví như anh tài tử khi ngồi tại nhà có thể nhớ rõ tất cả những lớp lang của
vở kịch Phụng Nghi Đình mà y đã đóng, nhưng trên sân khấu, khi y đóng một vai
trò nhất định, chẳng hạn như vai Lữ Bố, thì y chỉ biết có một vai trò đó mà
thôi chứ y không thể nghĩ đến vai trò khác. Cũng y như thế, linh hồn người chứa
đựng ký ức của tất cả mọi sự đã xảy đến cho y trong những vai trò của các nhân
vật mà y đã từng đóng ở các tiền kiếp. Lúc bình thường thì cá tính riêng biệt của
y không nhớ được những kỷ niệm đó ngoại trừ khi nào y dùng những phương pháp đặc
biệt và bất thường để rút lấy những kỷ niệm đó trong cái kho ký ức vô tận của
linh hồn.
Lập luận chống thuyết Luân
Hồi kể trên cho rằng thật là không phải lẽ và trái với luân lý nếu một người bị
trả quả và đau khổ vì những hành động mà có lẽ
y đã làm trong kiếp trước, nhưng ngày nay y đã quên mất, không còn nhớ gì nữa.
Lập luận này không thể đứng vững, cũng chẳng khác nào như lý luận cho rằng việc
một người lớn bị đau khổ vì những sự xung đột vô ý thức của y từ thuở ấu thơ,
cũng không hạp với luân lý.
Sự lãng quên, nó che khuất
dĩ vãng và chỉ cho chúng ta thấy có một phần hiện tại ngắn ngủi, là một điều cần
thiết và che chở đối với chúng ta. Ngoài ra những thí dụ về việc sợ hãi vô lý
và những giấc mộng tái diễn nhiều lần, người ta còn thấy trong những tập hồ sơ
Cayce những quái trạng tâm lý khác nữa. Thí dụ như những ảo ảnh ẩn hiện chập chờn,
trong nhiều trường hợp thường được truy nguyên từ những ký ức bất thường thuộc
về kiếp trước. Có một trường hợp, cuộc soi kiếp cho biết rằng những trung tâm
bí yếu trong thân người, tiếng Phạn gọi là Chakra (Luân Xa), tình cờ khai mở,
làm cho luồng Xà hỏa (Kundalini) đi xuyên qua những Luân Xa và gây nên những ảo
ảnh hay ảo giác. (Luồng xà hỏa Kundalini là một mãnh lực thần bí trong cơ thể
con người nằm trong đốt cuối cùng của bộ xương sống và có liên quan trực tiếp đến
bộ phận sinh dục và năng lực sáng tạo trong châu thân.)
Những cuộc soi kiếp của
ông Cayce cho biết trong nhiều trường hợp, một sự rối loạn thần kinh có nhiều
nguyên nhân hoàn toàn thuộc về thể chất, và đã được chữa khỏi một cách mầu nhiệm
bằng các phương tiện sinh lý. Chúng ta đã thấy trong Chương 2, trường hợp của
cô thiếu nữ được chữa khỏi bịnh loạn trí nhờ nhổ một cái răng cấm mọc ngược. Một
thí dụ hiển nhiên khác là trường hợp của một người thư ký bưu điện bỗng nhiên đổi
tánh một cách lạ thường và thình lình trở nên gây gỗ, buồn bực và hung bạo. Gia
đình khuyên y đi khán bịnh và vào nằm bịnh viện để điều trị. Các bác sĩ tuyên bố
rằng y bị chứng khủng hoảng thần kinh, và người ta bèn để y nằm riêng buồng
kín. Vợ y yêu cầu ông Cayce dành cho y một cuộc khán nghiệm bằng Thần Nhãn. Cuộc
khán nghiệm cho biết y đã bị té ngã nặng từ nhiều năm về trước, chạm mạnh vào
xương hông làm đau tủy xương sống, và điều này đã phản ứng toàn bộ Thần
Kinh Hệ. Ông Cayce khuyên y hãy điều trị bằng phương pháp nắn xương và trị bằng
điện. Gia đình y nghe theo lời. Trong sáu tuần lễ, bịnh nhân đã bình phục trở lại
như thường, và người ta để cho y tự do trở về nhà. Tuy nhiên, trong nhiều trường
hợp loạn trí, cuộc khán nghiệm cho biết rằng bịnh nhân bị tà ma nhập xác ám ảnh.
Xưa nay người ta vẫn tin rằng một vài chứng bịnh loạn thần kinh nguyên nhân là
vì ma nhập. Những người đọc bộ Thánh Kinh đều biết rõ chuyện đấng Christ đã đuổi
tà ma ra khỏi xác của một người điên, và những người Gia Tô giáo đều quen thuộc
với vấn đề các vị Cố đạo Gia Tô vẫn tiếp tục thực hành những phép đuổi tà
(exorcisme). Vấn đề này tự nhiên là hoàn toàn xa lạ đối với khoa Tâm lý học hiện
đại, và những nhà chữa bịnh thần kinh ngày nay coi nó như một điều dị đoan đã lỗi
thời.
Để chữa bịnh tà, ông Cayce
thường dùng phép điều trị bằng điện, và khuyên bịnh nhân nên cầu nguyện, và
tham thiền quán tưởng. Trong một trường hợp, người bịnh được chữa khỏi trong
vài tháng, chấm dứt sự ám ảnh của những giọng nói thì thầm bên lỗ tai y, làm
cho y sợ hãi đến phát bịnh. Trường hợp này là do quả báo gây nên: Trong kiếp
trước bịnh nhân đã dùng tà thuật để ám hại kẻ khác.
xem tiếp: * CHƯƠNG 12 - Quả Báo Đối Với Hôn Nhân
xem tiếp: * CHƯƠNG 12 - Quả Báo Đối Với Hôn Nhân
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...