Chương
37: Giận lời khích tướng, Ngô Văn Sở bắt tướng. - Lầm kế bất trung, Lý Trần
Quán chết trung.
Nhắc
lại Ninh Tốn và Phái vị hầu hậu bỏ đồn Cát Doanh và Động Hải chạy về Nghệ An ra
mắt Đường trung hầu Bùi Thế Toại kể lại việc mất Thuận Hoá. Bùi Thế Toại liền
sai người hoả tốc mang thư về kinh thành Thăng Long báo cùng Đoan nam vương Trịnh
Khải. Trịnh Khải liền thiết triều hỏi bá quan văn võ bàn việc quốc gia. Trịnh
Khải hỏi:
-
Đường trung hầu Bùi Thế Toại trấn thủ Nghệ An báo tin về, quân Tây Sơn đã đánh
lấy Thuận Hoá. Tạo quận công Phạm Ngô Cầu bị bắt, Tiền đình hầu Hoàng Đình Thể
tử trận. Nay giặc Tây Sơn đã tiến đến sông Linh Giang, các quan bàn bạc xem ta
nên tiến thủ thế nào?
Trần
Công Xán trong hàng quan văn bước ra thưa:
-
Việc mất đất Thuận Hoá là điều may, Chúa thượng nên mừng chớ nên lo.
Chúa
Trịnh Khải ngạc nhiên hỏi:
-
Đất của ta mất về tay giặc sao Trần Công Xán bảo ta nên mừng là ý thế nào?
Trần
Công Xán đáp:
-
Đất Thuận Hoá trước là do Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc lấy được trong tay nhà
Nguyễn. Nơi này đường sá xa xôi, núi sông cách trở đất đai cằn cỗi chật hẹp. Mười
mấy năm nay ta chiếm đóng xứ này hao binh tổn tướng mà chẳng được lợi lộc gì.
Nay đất ấy mất, khỏi nhọc sức cho quân đi đồn trấn phương xa, ấy là điều may vậy.
Nay ta cứ lấy sông Linh Giang cứ làm ranh giới hai miền Nam - Bắc. Cõi Đàng
Trong giao cho họ Nguyễn và giặc Tây Sơn muốn làm thế nào thì làm, không can hệ
đến ta, cho nên giữ lấy đất Nghệ An trở ra là đất đai của Tiên vương mà thôi.
Chúa
Trịnh Khải lại hỏi:
-
Lời khanh cũng phải. Vậy theo khanh ta nên dùng kế sách gì giữ vững đất Nghệ
An?
Trần
Công Xán đáp:
-
Nghệ An có Đường trung hầu Bùi Thế Toại trấn đóng là đã vững như bàn thạch vậy.
Bùi Thế Toại gồm tài thao lược, đất Nghệ An lại hiểm trở. Trước thì có sông
Linh Giang làm hào, sau thì có núi Phượng Hoàng, Dũng Quyết làm luỹ. Thành Nghệ
An chắc chắn, đất hiểm, tướng tài lại không giữ vững được sao. Vả lại quân Tây
Sơn là bọn giặc mới ở núi cao thừa thời nổi loạn, nay chiếm được hết đất đai của
họ Nguyễn đã cho đó là may, làm gì có tham vọng xâm lấn nước của ta. Về việc đất
Nghệ An xin Chúa thượng chớ lo!
Nghe
Trần Công Xán nói xong, Chúa Trịnh Khải vẫn dùng dằng chưa hết lo âu. Bỗng nghe
trong hàng quan võ có tiếng hỏi lớn:
-
Lấy gì làm chắc rằng quân Tây Sơn không xâm phạm đất Nghệ An ta. Giặc đem đại
binh hai vạn đánh Phú Xuân trong một đêm, nếu chúng lại tiến đánh Nghệ An, Đường
trung hầu Bùi Thế Toại sao chống nổi giặc.
Mọi
người giật mình nhìn lại, thì ra ấy là Thái đình hầu Trịnh Tự Quyền. Chúa Trịnh
Khải hỏi Trịnh Tự Quyền rằng:
-
Theo ý khanh thì thế nào?
Quyền
đáp:
-
Đất Thuận Hoá là do Tiên vương sai Việp quận công cất bốn vạn quân vào lấy được
đã mười mấy năm nay. Nay đất của ta mất về tay giặc thì lại bảo là may. Giặc đã
lăm le ngoài biên ải thì vô cớ lại bảo rằng giặc không có tham vọng lấy đất Nghệ
An. Ấy là luận điệu của kẻ trói gà không chặt, nhác việc binh đao, xin Chúa thượng
chớ nghe theo mà hại cho xã tắc. Vả lại binh pháp có câu: "Chớ cậy rằng:
giặc không đến. Cứ cho là giặc sẽ đến ta đã có kế sách đánh chúng rồi vậy".
Nói như Trần Công Xán tiên sinh thì là chưa từng biết việc binh gia. Trong các
tướng dưới trướng Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc năm xưa còn có ai hùng tài hơn
Tiền đình hầu Hoàng Đình Thể? Vậy mà quân Tây Sơn trong một đêm đã lấy được
thành, cha con Tiền đình hầu đều bỏ mình bảo quốc. Nay Đường trung hầu Bùi Thế
Toại mật báo về kinh ý xin binh cầu viện, ta lại bảo là giặc không tham vọng lấy
đất Nghệ An chẳng chịu xuất quân. Ngộ nhỡ chúng đem quân đánh đất Nghệ thật, Trần
Công Xán tiên sinh có dám đem đầu mình bảo đảm rằng Bùi Thế Toại thắng trận hay
chăng.
Trịnh
Tự Quyền nói một hồi, Trần Công Xán không biết trả lời thế nào đánh nín thinh rồi
len lén lui ra. Chúa Trịnh Khải hỏi lại rằng:
-
Vậy theo ý Thái đình hầu nên tiến thủ thế nào?
Trịnh
Tự Quyền đáp:
-
Thần làm võ tướng giặc đến thì đánh. Thần tuy bất tài cũng xin đem quân vào đất
Nghệ An chống giặc Tây Sơn.
Trịnh
Khải cả mừng nói:
-
Lời khanh rất hợp ý ta. Nay ta phong khanh làm Bình Nam đại tướng quân, lập tức
đem binh và Nghệ An chống giặc.
Trịnh
Tự Quyền tâu:
-
Xin Chúa thượng cho thần thu xếp trong năm ngày mới xuất quân được.
Trịnh
Khải hỏi:
-
Cứu binh như cứu hoả, sao khanh không đi ngay mà phải đợi đến năm ngày.
Quyền
đáp:
-
Khải Chúa, từ ngày bọn lính tam phủ phá cung quận công Trịnh Cán đưa Chúa thượng
lên ngôi chúng cậy công coi thường phép tắc. Nay thần đã vâng mệnh Chúa thượng
nhưng không dễ gì hợp binh liền được nên xin hẹn đến năm ngày.
Trịnh
Khải than rằng:
-
Lời khanh rất phải, ta nhờ lính tam phủ mà được ngôi, nhưng lại không khiến được
chúng. Xã tắc phen này e nguy mất.
Năm
ngày sau Trịnh Tự Quyền hiệu triệu được ba vạn quân bèn vào phủ Chúa từ biệt
Chúa Trịnh lên đường. Vừa vào đến nơi nghe quân vào báo rằng:
-
Khải Chúa thượng, có trấn thủ Thanh Hoá là Thuỳ trung hầu Tạ Danh Thuỳ xin vào
ra mắt.
Trịnh
Khải ngạc nhiên nói:
-
Thuỳ trung hầu đang trấn thủ Thanh Hoá sao bỗng dưng lại bỏ về đây. Mau cho
vào!
Tạ
Danh Thuỳ vào đến dập đầu thưa:
-
Khải Chúa thượng, quân Tây Sơn đã tiến đánh chiếm kho lương ở Vị Hoàng, hiện
còn cách kinh thành hai trăm dặm.
Trịnh
Khải thất kinh hỏi:
-
Chúng đánh thế nào mà nhanh thế. Còn binh tướng các ngươi ở hai trấn Nghệ An,
Thanh Hoá thì sao?
Tạ
Danh Thuỳ đáp:
-
Hạ thần ở Thanh Hoá nghe tin Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn quân Tây Sơn đánh chiếm kho
lương ở Vị Hoàng, thần định đem binh ra lấy lại Vị Hoàng. Không ngờ Nguyễn Huệ
đem bộ binh tiến đánh Nghệ An, trấn thủ Bùi Thế Toại phải bỏ thành chạy trốn.
Nghệ An và Vị Hoàng đều mất, thần ở Thanh Hoá lưỡng đầu thọ địch phải bỏ thành
bảo toàn lực lượng theo đường bộ chạy về đây báo cùng Chúa thượng. Xin Chúa thượng
trị tội.
Trịnh
Khải liền hô quân lôi Tạ Danh Thuỳ ra chém. Trịnh Tự Quyền can rằng:
-
Tình hình như vậy, dù ai trấn thủ Thanh Hoá cũng phải thế mà thôi. Xin Chúa thượng
tha tội cho Tạ Danh Thuỳ đoái công chuộc tội. Nay giặc đã tiến đến Vị Hoàng, hạ
thần phải đem toàn quân ra lấy Nam Sơn , Chúa thượng mau sai Liễn trung hầu
Đinh Tích Nhưỡng đem thuỷ quân án ngữ trên sông Nhị Hà. Như thế may ra có thể
chặn được giặc.
Chúa
Trịnh y lời, sai Quyền và Nhưỡng dẫn quân đi ngay.
Lúc
ấy bên quân Tây Sơn hợp binh ở Vị Hoàng. Nguyễn Huệ hỏi Nguyễn Hữu Chỉnh rằng:
-
Ta nghe nói đất Bắc Hà ngàn năm văn vật, đầy rẫy anh tài. Vậy mà ta kéo binh một
hồi ra đến Vị Hoàng không thấy sự kháng cự nào đáng kể là cớ làm sao?
Hữu
Chỉnh cười đáp:
-
Nhân tài đất Bắc chỉ có một mình Chỉnh tôi mà thôi. Nay tôi đã bỏ đi, nước tất
trống không. Xin tướng quân chớ ngại.
Huệ
nửa đùa nửa thật rằng:
-
Không có ai để ngại há ra chẳng phải là ngại mỗi mình ông Chỉnh đó sao?
Chỉnh
thất sắc đáp:
-
Tôi tự biết mình tài hèn nhưng tôi nói thế là để chứng tỏ rằng Bắc Hà không có
người tài mà thôi.
Thấy
Chỉnh có vẻ lo sợ, Huệ an ủi rằng:
-
Lúc kéo quân đi đánh Vị Hoàng, ông e rằng quân ta vào sâu trong đất địch là mạo
hiểm. Giờ ông đã thấy chưa, quân ta đánh giặc đều cân nhắc kỹ, không mạo hiểm bao
giờ. Nay quân ta đã đến đây còn ngại gì mà không tiến. Nói rồi hạ lệnh tiến
đánh quân Trịnh ở Nam Sơn. Quân Tây Sơn thuỷ bộ hai đạo ào ạt tiến lên. Thuỷ
quân Tây Sơn theo sông Nhị Hà tiến đến khúc sông Lục Môn Giang thì gặp quân Trịnh.
Tướng Trịnh là Đinh Tích Nhưỡng đứng trên soái thuyền chờ chiến thuyền quân Tây
Sơn đến vừa tầm đạn sẽ nổ súng. Ngờ đâu quân Tây Sơn súng lớn bắn xa bất ngờ nổ
súng trước, đại bác Tây Sơn ầm ầm bắn tới, quân Trịnh thất kinh hồn vía quay
thuyền mà chạy về thành Thăng Long. Đinh Tích Nhưỡng không chống nổi đành phải
chạy theo. Nguyễn Huệ hô quân truy kích. Quân Tây Sơn thần tốc đuổi theo. Quân
Trịnh ở dưới sông liệu bề không chạy kịp liền bỏ thuyền lên bờ chạy về đồn quân
bộ của Trịnh Tự Quyền. Bộ binh Trịnh Tự Quyền thấy thuỷ binh Đinh Tích Nhưỡng
tan vỡ, hoảng sợ rối loạn hàng ngũ mạnh ai nấy chạy. Trịnh Tự Quyền ngăn không
nổi đành hoà trong đám loạn quân mà trốn.
Nguyễn
Huệ thừa thắng hô quân theo sông Nhị Hà thẳng tiến về thành Thăng Long. Khi thuỷ
quân tiến đến sông Thuý Ái bỗng gặp một đạo quân Trịnh gồm vài mươi chiếc thuyền
nhỏ và mấy trăm quân xông ra cản đường. Đi đầu là hai viên dũng tướng tay cầm đại
đao chém giết quân Tây Sơn rất hăng.
Quân
Tây Sơn đồng loạt bắn tên, hai viên tướng dùng đại đao gạt tên hô quân tiến lên
giáp chiến. Hai người này đao pháp tinh thông đánh quân Tây Sơn chết hàng mấy lớp.
Nguyễn Huệ đứng trên soái thuyền trông thấy ngạc nhiên hỏi Nguyễn Hữu Chỉnh rằng:
-
Ta từ Thuận Hoá kéo quân đến đây quá Nghệ An, Thanh Hoá, Vị Hoàng, Nam Sơn,
quân Trịnh đông hàng mấy vạn vừa mới giao tranh đã vỡ tan mà chạy. Nay mới gặp
mấy trăm quân của hai tướng này tinh thần chiến đấu thật là dũng mãnh thật đáng
khen thay! Hữu Chỉnh có biết hai người này chăng?
Nguyễn
Hữu Chỉnh đáp:
-
Đây là hai viên tiểu tướng đồn quân nơi bến sông Thuý Ái. Một người tên là Ngô
Cảnh Hoàng, một người tên là Mai Thế Pháp. Cả hai đều tinh thông đao pháp cả.
Nguyễn
Huệ nói:
-
Nếu đại tướng bên Trịnh cầm quân kỷ luật như hai người này thì dễ gì ta kéo
quân đến đây được - Nói xong quay lại bảo quân - Truyền lệnh ta không được bắn
súng, phải bao vây bắt sống hai người này cho ta!
Lệnh
truyền ra, quân Tây Sơn lập tức thi hành. Thấy mấy trăm quân của mình đều chết
trận cả, quân Tây Sơn lại bao vây bốn phía, Mai Thế Pháp và Ngô Cảnh Hoàng vẫn
đứng trên thuyền tả xung hữu đột. Bỗng quân Tây Sơn nới rộng vòng vây gọi lớn:
-
Hai tướng kia hãy mau đầu hàng, Long Nhương tướng quân sẽ tha cho mạng sống!
Ngô
Cảnh Hoàng và Mai Thế Pháp dựng đại đao đồng hét lớn rằng:
-
Bọn ta thà chết chẳng quy hàng.
Trên
soái thuyền Tây Sơn, Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Duy bước ra thưa cùng Nguyễn Huệ:
-
Ơn tướng quân tha mạng chưa có dịp báo đền, nay chúng tôi xin ra trận bắt Ngô Cảnh
Hoàng và Mai Thế Pháp gọi là đáp ơn tri ngộ của tướng quân.
Nói
rồi Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Duy cũng vác đao lướt thuyền ra trước trận. Nguyễn
Huỳnh Đức nhảy lên thuyền địch đánh với Ngô Cảnh Hoàng, Nguyễn Duy tranh tài
cùng Mai Thế Pháp. Hai bên đánh nhau hơn năm mươi hiệp bất phân thắng bại. Nguyễn
Huỳnh Đức và Nguyễn Duy xem chừng đuối sức vội nhảy sang thuyền mình chạy về
nói với Nguyễn Huệ:
-
Ngô Cảnh Hoàng và Mai Thế Pháp đao pháp tinh thông, sức mạnh vô cùng. Chúng tôi
không đánh lại.
Võ
Đình Tú và Phan Văn Lân cùng bước ra thưa:
-
Chúng tôi xin đi bắt tướng giặc!
Nguyễn
Huệ nhìn Ngô Văn Sở rồi bảo Võ Đình Tú và Phan Văn Lân rằng:
-
Hai người này dùng đại đao, ta phải lấy đại đao mà trị. Hai tướng đại đao của
ta là Vũ Văn Dũng và Trần Quang Diệu hiện theo quân bộ không có ở đây. Xem ra
muốn bắt sống hai tướng này ta phải thân hành mới xong. (Nguyễn Huệ nói vậy vì
sở trường cũng sử dụng đại đao).
Ngô
Văn Sở bước ra nói lớn:
-
Ngô Văn Sở tôi cũng sở trường đánh đại đao, sao không nghe Long Nhương nhắc đến,
lại chỉ nói về Vũ Văn Dũng và Trần Quang Diệu thôi.
Nói
xong không cần đợi lệnh liền vác đại đao nhảy xuống thuyền mà đi. Nguyễn Huệ liền
gọi Phan Văn Lân bảo:
-
Ta nói vậy là để khích Ngô Văn Sở. Không ngờ Ngô Văn Sở thường ngày điềm đạm,
nay vì tự ái mà nổi nóng như vậy. Phan Văn Lân mau theo ứng giúp Ngô Văn Sở, để
Văn Sở một chọi hai e có điều sơ sảy.
Phan
Văn Lân tuân lệnh cầm trường thương đi ngay. Khi Phan Văn Lân đến nơi thì Ngô
Văn Sở đã đánh rớt đao Mai Thế Pháp, Lân bèn nhảy lên thuyền bắt Mai Thế Pháp
trói lại. Ngô Cảnh Hoàng cũng bị Ngô Văn Sở bắt sống. Sở và Lân đem Mai Thế
Pháp và Ngô Cảnh Hoàng đến soái thuyền nộp cho Nguyễn Huệ. Nguyễn Huỳnh Đức
khen Ngô Văn Sở rằng:
-
Đao pháp của Ngô tướng quân thật thần sầu xưa nay hiếm thấy.
Ngô
Văn Sở vẫn còn giận Nguyễn Huệ, nói mát:
-
Ông nội tôi là Ngô Mãnh từng làm Đô thống dưới thời Võ vương Nguyễn Phúc Khoát,
đao pháp chưa từng có địch thủ. Chỉ một mình Long Nhương tướng quân chê mà
không dùng đến.
Nguyễn
Huệ cả cười rằng:
-
Hổ tướng của ta đông quá, từ ngày khởi binh đến nay ai cũng đua nhau lập được
công đầu, chỉ có Ngô Văn Sở tính tình điềm đạm không tranh quyền ra trận lập
công. Ta vẫn biết thế nên sẵn dịp này mới nói khích cho Văn Sở ra trận một mình
bắt hai tướng để tỏ rõ dũng lực của mình mà thôi. Nào ta có bảo đao pháp của Sở
thua Diệu và Dũng bao giờ. Ba tướng của ta thật đáng gọi là Tây Sơn tam đao vậy!
(Từ
ấy trong quân thường gọi Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng, Ngô Văn Sở là Tây Sơn
tam đao, lại tặng Ngô Văn Sở biệt danh là Khổn nghịch Đại tướng quân).
Lúc
ấy hai tướng Trịnh là Mai Thế Pháp và Ngô Cảnh Hoàng bị trói trên thuyền, thừa
lúc mọi người lơ đễnh, hai người bèn lao mình xuống sông tự vẫn. Các tướng Tây
Sơn bất ngờ đều ngơ ngác nhìn nhau. Nguyễn Huệ thương tiếc nói:
-
Lòng trung dũng của hai người này thật đáng phục thay!
Lúc
ấy ở thành Thăng Long, chúa Trịnh Khải nghe tin hai đạo quân thuỷ bộ của mình
đã thua trận ở trấn Nam Sơn, Khải liền lên voi dẫn quân cấm vệ ra cửa Tây Luông
đánh giặc. Quân Tây Sơn tiến đến, chúa thúc quân ra đánh, quân Trịnh lúc ấy khiếp
sợ, người này đưa mắt nhìn người kia không ai dám tiến. Đến khi nghe tiếng súng
nổ, tiếng rèo hò, tiếng trống trận của quân Tây Sơn thì quân Trịnh không còn hồn
vía nào mạnh ai nấy trốn. Các quan văn võ thảy đều trốn cả, đi theo chúa chỉ
còn vài tên hầu cận nhằm hướng Sơn Tây mà chạy. Ra khỏi thành được vài dặm tên
quân hầu nói:
-
Nay ta thua trận mà chạy còn có mấy người. Xin Chúa hãy bỏ voi và thay y phục,
kẻo những kẻ ăn ở hai lòng bán Chúa cầu vinh, nhận được Chúa rơi vào ba quân Tây
Sơn thì nguy.
Trịnh
Khải nghe lời liền bỏ voi, thay đổi y phục.
Chúa
tôi đi đến làng Giao Cốc trời đã xế chiều, ai nấy đều mệt và đói. Chúa Trịnh Khải
bảo quân:
-
Hôm trước quân Tây Sơn đánh lấy Vị Hoàng, ta đã xuống hịch cần vương sai quan
Thiên lại là Lý Trần Quán về Sơn Tây mộ quân ở tại làng này. Vậy ngươi hãy mau
đi vời Lý Trần Quán đến đây cho ta dạy việc. Ta sẽ tạm ngồi đợi ở quán nước bên
đường.
Tên
quân hầu vâng lệnh đi ngay. Lát sau Lý Trần Quán đến, thấy Chúa Trịnh, Quán
toan sụp lạy. Chúa nhảy mắt ra hiệu gọi Quán đến gần bảo:
-
Ngươi không cần phải giữ lễ như thế. Bây giờ nước mất nhà tan, vàng thau lẫn lộn
nhỡ kẻ ăn ở hai lòng biết ta là Chúa báo cho giặc thì sao? Ngươi mộ quân đã được
nhiều ít gì chưa? Hãy đưa ta đến thành Sơn Tây cùng Thạc quận công Hoàng Phụng
Cơ rồi sẽ liệu kế đánh giặc.
Lý
Trần Quán thưa rằng:
-
Có người làm chức Tuần đinh trong làng tên là Nguyễn Trang đem vài mươi tráng
binh theo thần. Thần bảo Trang phò Chúa lên Sơn Tây trước, còn thần mộ thêm
quân sẽ đến sau.
Chúa
Trịnh Khải lo lắng hỏi:
-
Người này có tin cậy được không.
Quân
đáp:
-
Nguyễn Trang vốn là học trò của thần có thể tin cậy được, xin Chúa chớ ngại.
Chúa
Trịnh Khải nghĩ thầm rằng: Ta với Trịnh Cán vốn là anh em cật ruột, vì tranh
giành ngôi báu mà còn hãm hại lẫn nhau. Tuy ta tin Lý Trần Quán, nhưng học trò
ông ấy lấy gì làm chắc là có thể tin được.
Thấy
Chúa còn do dự, Lý Trần Quán thưa:
-
Thần xin đem tính mệnh ra bảo đảm. Xin Chúa thượng an lòng.
Rồi
Lý Trần Quán quay sang Nguyễn Trang bảo:
-
Ngươi mau phò Chúa lên Tây Sơn trước. Ta có việc ở lại rồi sẽ đến sau.
Nói
xong Quán từ biệt Chúa Trịnh quay lại vào làng. Lý Trần Quán đi rồi Nguyễn
Trang sai thủ hạ dắt ngựa Chúa Trịnh Khải đi. Chúa ngạc nhiên hỏi:
-
Sao không đi về hướng Tây đến Sơn Tây mà dắt ngựa ta về hướng Đông.
Nguyễn
Trang đáp:
-
Về hướng Đông để đến kinh thành gặp quân Tây Sơn.
Chúa
kinh hãi hỏi:
-
Chúng bây toan làm phản hay sao?
Nói
xong liền rút kiếm chém bọn Nguyễn Trang. Lúc ấy Chúa Trịnh Khải đã đói và mệt
đánh không lại bị bọn Trang tuốt kiếm bắt trói lại đóng cũi khiêng đi. Mấy tên
quân theo hầu Chúa cũng đều bị giết. Một tên quân cướp được ngựa chạy vào làng
gọi Lý Trần Quán. Quán một mình một ngựa tất tả đuổi theo bọn Trang. Gặp Trang,
Quán hỏi:
-
Ta là thầy của anh, anh làm thế không sợ mang tiếng là phản sư sao. Chúa là
Chúa của thiên hạ anh không thương Chúa mà làm điều bán Chúa cầu vinh ư?
Trang
trân tráo đáp:
-
Sợ thầy không bằng sợ giặc, thương Chúa không bằng thương mình.
Nói
rồi Nguyễn Trang gọi thủ hạ giải Chúa đi. Lý Trần Quán ngăn lại khóc lóc năn nỉ
Nguyễn Trang rằng:
-
Ngươi hãy nên vì tình ta là thầy của ngươi mà tha cho Chúa một phen.
Nguyễn
Trang đáp:
-
Việc đã đến nước này, nếu tha cho Chúa, ngộ nhỡ quân Tây Sơn đến hỏi tội tôi
dung dưỡng Chúa thì tôi chỉ có chết mà thôi!
Quán
bảo:
-
Ngươi tha cho Chúa về Sơn Tây tất quân các trấn Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên
Quang, Kinh Bắc đều kéo đến phò đánh đuổi giặc đi thì ngươi sợ gì quân Tây Sơn
bắt tội?
Trang
đáp:
-
Nếu đuổi giặc Tây Sơn đi rồi Chúa lại tha tội cho tôi được sao? Tha cho Chúa đằng
nào tôi cũng chết. Chỉ có nộp Chúa cho quân Tây Sơn là tôi mới còn đường sống
mà thôi.
Quán
nổi giận mắng rằng:
-
Thằng nghịch tặc kia. Nếu ngươi nộp Chúa cho Nguyễn Huệ mà Nguyễn Huệ không
chém đầu ngươi thì hãy trở về làng Giao Cốc này đào mả ta mà đổ xuống sông đi.
Nguyễn
Trạng đỏ mặt nói:
-
Nếu không nể tình thầy dạy tôi, tôi giết chứ không tha.
Nói
rồi lệnh cho thủ hạ khiêng cũi Chúa đi liền. Lý Trần Quán chạy theo khóc với
Chúa Trịnh rằng:
-
Hạ thần ngờ là cứu Chúa, không ngờ đã giết Chúa rồi.
Chúa
Khải rơi nước mắt bảo Quán:
-
Lòng trung của khanh ta đã biết. Sống chết là bởi mệnh trời đừng tự dằn vặt
mình như thế, khanh hãy về đi. Ta là Chúa của thiên hạ đâu có thể làm nhục đến
tổ tông.
Nói
rồi rút dao ngắn trong người đâm cổ tự vẫn. Nguyễn Trang lẹ mắt giật con dao
trong tay Chúa rồi hét quân đi mau. Lý Trần Quán ngỡ Chúa đã chết liền rút dao
ngắn trong người đâm cổ chết theo.
Bọn
Nguyễn Trang dẫn chúa Trịnh Khải đến gần thành Thăng Long Chúa vẫn chưa chết.
Chúa Trịnh nghĩ thầm rằng:
-
Lúc nãy Nguyễn Trang giật mất lưỡi dao nên vết thương cạn quá. Nếu ta còn sống
gặp giặc Tây Sơn chúng làm nhục mệnh thì sao?
Nghĩ
xong liền thò ngón tay vào vết thương nơi cổ họng móc cho rộng ra. Khi Nguyễn
Trang đem Trịnh Khải đến nộp cho Nguyễn Huệ nơi phủ chúa ở kinh thành Thăng
Long thì Khải đã chết rồi. Nguyễn Huệ hỏi Trang:
-
Ngươi chỉ có mấy mươi thủ hạ sao bắt được Trịnh Khải.
Nguyễn
Trang vô tình cứ y như việc ở làng Giao Cốc mà kể. Nghe xong Huệ hỏi:
-
Vì sao ngươi lại bắt Chúa nộp cho ta?
Trang
khúm núm đáp:
-
Tướng quân kéo binh đến đây diệt Trịnh phò Lê. Thảo dân là con dân của vua Lê
nên bắt Chúa Trịnh nộp cho tướng quân.
Nguyễn
Huệ khen rằng:
-
Ngươi thật là người trung nghĩa biết vì vua vì nước. Nay ngươi đã làm một việc
tốt cho nước, và hãy về nhà mà lo phận con dân.
Nguyễn
Trang ngập ngừng thưa:
-
Xin tướng quân thưởng công cho.
Huệ
ngạc nhiên hỏi:
-
Tại sao ngươi lại bảo ta thưởng công?
Nguyễn
Trang đánh bạo hỏi lại rằng:
-
Chẳng phải tướng quân đã ra thông báo rằng: "Ai bắt Chúa Trịnh đem nộp sẽ
được thưởng công sao?
Huệ
nghiêm mặt đáp:
-
Chính ta ra thông báo như vậy.
Nguyễn
Trang mừng rỡ thưa:
-
Vậy là kẻ thảo dân tất được thưởng công.
Nguyễn
Huệ quắc mắt bảo:
-
Nếu ngươi bỏ đi mà không đòi thưởng công là nộp chúa để phò vua, ta tự khắc sẽ
gọi lại thưởng công. Giờ ngươi đòi thưởng công rõ là phường phản sư, bán chúa,
tội phải trừng, công gì mà thưởng. Võ sĩ đâu lôi ra chém.
Võ
sĩ lôi Nguyễn Trang ra ngoài. Trang mếu máo than khóc rằng:
-
Ngỡ rằng được sống làm công hầu, ngờ đâu phải chết làm quỷ không đầu. Lý Trần
Quán thầy của ta thật là cao kiến.
Chém
Nguyễn Trang xong, Nguyễn Huệ sai người theo vương lễ tống táng Trịnh Khải.
Xong
việc ấy Nguyễn Huệ gọi Nguyễn Hữu Chỉnh đến bảo:
-
Lúc mới chiếm được thành ta đã sai người sang phủ vua bảo vệ vua Lê cùng Hoàng
gia. Nay mọi việc đã tạm yên ta nên đến yết kiến vua Lê cho rõ nghĩa tôn phò.
xem tiếp: * Chương 38: Mộng bá vương Nguyễn Hữu Chỉnh làm mối. - Gặp giai nhân Nguyễn Huệ đối văn.
xem tiếp: * Chương 38: Mộng bá vương Nguyễn Hữu Chỉnh làm mối. - Gặp giai nhân Nguyễn Huệ đối văn.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...