Chương
38: Mộng bá vương Nguyễn Hữu Chỉnh làm mối. - Gặp giai nhân Nguyễn Huệ đối văn.
Hôm
sau Nguyễn Huệ và Trần Văn Kỷ theo Nguyễn Hữu Chỉnh đến điện vua Lê Hiển Tông.
Vua Lê Hiển Tông lúc ấy đã bảy mươi tuổi, già yếu lắm rồi lại thêm phần vì lâm
trọng bệnh, nghe Nguyễn Huệ đến vừa gắng gượng ngồi dậy định tiếp Huệ. Nguyễn
Huệ thi lễ xong vội vàng đỡ vua nằm xuống giường ngủ rồi nói:
-
Hạ thần đến ra mắt Bệ hạ là bổn phận con dân trong nước. Bệ hạ mình rồng bất an
cứ nằm yên nghỉ đừng vì hạ thần mà nhọc nhằn long thế. E rằng thần phải đắc tội
với vua.
Vua
Lê hỏi:
-
Ngài có phải là Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ truyền hịch phò Lê diệt Trịnh
kéo quân ra đây đó chăng?
Nguyễn
Huệ kính cẩn đáp:
-
Hạ thần là kẻ áo vải ở Tây Sơn nhân thời thế mà nổi dậy. Bệ hạ tuy không cho
cơm ăn áo mặc nhưng thân bấy lâu vẫn kính mến thành đức. Nay được thấy long
nhan thật thoả lòng mong ước. Họ Trịnh vô đạo giết chết Thái tử Lê Duy Vỹ, hiếp
đáp Bệ hạ nên trời cao mới mượn tay thần chỉ trong vòng một tháng đánh đổ xong
họ Trịnh suốt hai trăm năm bức bách Hoàng gia. Ấy là nhờ oai đức của Bệ hạ cả!
Vua
Lê xua tay bảo:
- Ấy
là võ công của tướng quân chứ quả nhân nào có tài đức gì?
Nguyễn
Huệ khiêm tốn đáp:
-
Hạ thần ra đây cốt vì nghĩa phò vua đâu dám kể công, nên trước truyền hịch tôn
phò rồi mới kéo quân đi. Quả nhiên quân Trịnh là con dân trong nước của Bệ hạ nên nghe quân của thần đến để phò vua họ bèn quăng vũ khí không dám theo họ Trịnh
chống là mệnh trời. Ấy chẳng phải là nhờ oai đức của Bệ hạ đó sao? Nay họ Trịnh
đã diệt là ý trời muốn Bệ hạ cầm cương nảy mực, khiến cho trong ấm, ngoài êm hạ
thần ở cõi xa cũng được ơn nhờ.
Vua
Lê Hiển Tông nghe Huệ nói xong liền hỏi:
-
Sao tướng quân lại nói là ở cõi xa? Chẳng phải tướng quân ở đây giúp trẫm lập lại
kỷ cương ở đất Bắc Hà sao?
Nguyễn
Huệ trầm ngâm đáp:
-
Hạ thần đến đây diệt Trịnh xong phải đem quân về Nam phục mệnh vua anh nên
không thể ở lại được!
Vua
Hiển Tông bảo:
-
Nếu tướng quân đem quân về Nam ngay là tướng quân đã hại nhà Lê ta, sao bảo là
tôn phò.
Nguyễn
Huệ hỏi:
-
Nếu ở lâu e thiên hạ bảo thần là mượn tiếng phò vua mưu đồ lấy đất nên phải kéo
quân về! Hạ thần diệt Trịnh trả nước cho nhà vua sao lại bảo là hại Bệ hạ?
Vua
Hiển Tông đáp:
-
Trẫm làm vua hẳn bốn mươi năm nay không tham gia việc triều chính, chẳng biết việc
dân sinh xã tắc. Trăm quan làm việc đều ở dưới quyền họ Trịnh. Nay họ Trịnh diệt,
bá quan đều bỏ trốn, triều đình trống rỗng, quân binh chẳng có. Nếu tướng quân
để quân về Nam, nước của quả nhân không kỷ cương pháp luật tất là sinh loạn. Ấy
chẳng phải là tướng quân đã hại trẫm rồi sao?
Vua
buồn rầu ứa nước mắt, nói tiếp:
-
Nếu con của trẫm là Thái tử Vỹ còn sống thì may ra nhân dịp này lấy lại quyền
hành của họ Lê mà định quốc an dân.
Nguyễn
Huệ cảm động thưa rằng:
-
Năm trước Tĩnh đô vương Trịnh Sâm sai Phạm Ngô Cầu vào ngục giết Thái tử. Nay
Trịnh Sâm đã bị hồn Thái tử theo báo oán mà chết. Còn Phạm Ngô Cầu bị hạ thần bắt
đem về Quy Nhơn luận tội giết Thái tử phải chịu bêu đầu. Ấy là mối thù của Thái
tử đã được rửa, oan hồn Thái tử cũng tiêu diêu miền cực lạc, xin Bệ hạ chớ quá
thương tâm. Còn việc quốc gia nếu Bệ hạ làm được điều này thì hạ thần xin ở lại
Bắc Hà giúp Bệ hạ sửa sang giềng mối, lập lại kỷ cương phép tắc, xong mới kéo
quân về.
Vua
Lê Hiển Tông liền hỏi:
-
Xin hỏi tướng quân ta phải làm điều gì tướng quân mới bằng lòng ở lại giúp cho?
Huệ
phân giải rằng:
-
Sở dĩ bá quan còn trốn tránh vì họ nghĩ hạ thần ra đây mượn tiếng tôn phò để
mưu đồ tư lợi. Nay Bệ hạ nên xuống chỉ dụ để hiệu triệu các quan, định ngày thiết
triều. Các quan có chiếu chỉ của vua ắt là phải đến, lúc ấy hạ thần sẽ đem số bộ dân binh, thuế khá điền trạch mà họ Trịnh chiếm giữ suốt hai trăm năm nay trao
về cho Bệ hạ. Ấy là Bệ hạ lấy lại quyền hành của Tiên đế từ thuở gian lao đất
Lam Sơn dấy nghĩa. Rồi trước mặt trăm quan Bệ hạ lệnh cho hạ thần trong giúp
vua lập nên đế nghiệp, ngoài cứu dân khỏi cảnh lầm than, thì hạ thần mới danh
chính ngôn thuận mà ở lại Bắc Hà, đến khi nước được yên ổn rồi sẽ quay về.
Vua
Lê cả mừng nói:
-
Lời tướng quân rất là hữu lý, việc này nào có khó gì?
Nói
xong vừa liền ngồi dậy sai người lấy bút nghiên viết chiếu chỉ hiệu triệu bá
quan, định ngày đến để thiết triều.
Nguyễn
Huệ vừa đến tư dinh nơi phủ Chúa Trịnh, Trần Văn Kỷ nói riêng với Huệ rằng:
-
Nếu vua Thái Đức không lên ngôi hoàng đế, lúc này Tây Sơn ta đã danh chính ngôn
thuận thống nhất sơn hà trong nước của vua Lê, ấy chẳng phải là công nghiệp xưa
nay chưa từng có hay sao?
Nguyễn
Huệ gạt đi bảo:
- Ấy
là chí hướng của Hoàng huynh, Trần tiên sinh đừng bàn đến nữa. Ta chỉ nên làm
những gì có thể được trong tình hình hiện tại mà thôi.
Nói
rồi liền sai quân mở kho thóc Hữu Viên phát chẩn dân nghèo, hạ lệnh chiêu an bá
tánh, quân không được mảy may xâm phạm của dân, gặp phường trộm cướp phải đem
ra trước dân mà xử.
Đến
hôm thiết triều, vua Lê Hiển Tông ngồi trên ngai vàng, quan văn kéo đến chầu được
vài mươi người, còn võ tướng thì không ai dám đến. Các đại thần gồm có Trần
Công Xán, Phan Lê Phiền, Uông Sĩ Điền đến đứng hầu ở hai bên ngai vua. Vua bảo
các quan rằng:
-
Họ Trịnh tiếng là phò Lê nhưng thực chất đã cướp quyền của nhà Lê ta suốt hai
trăm năm này, các khanh đã biết chưa? Nay Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ từ
nơi xa xôi lội suối trèo đèo đem quân đến đây diệt họ Trịnh trả nước cho ta các
khanh đã biết chưa? Nay ta tuy tuổi già sức yếu không biết sống chết lúc nào
nhưng cũng vì xã tắc mà gắng gượng ra gánh vác việc quốc gia được ngày nào hay
ngày ấy. Vậy các quan trước ở chức gì hãy về chân ấy giúp trẫm định yên xã tắc.
Trần
Công Xán bước ra hỏi dò Nguyễn Huệ rằng:
-
Ý Long Nhương tướng quân diệt Trịnh trả nước cho vua tôi, vậy sao còn chưa rút
quân về.
Chưa
vội đáp lời Xán, Huệ gọi quân mang số bộ dân vào rồi kính cẩn dâng cho vua Hiển
Tông, Huệ thưa rằng;
-
Đây là số dân quân hộ tịch xin trao về Bệ hạ. Mong Bệ hạ hãy thay trời hành đạo
đem ấm no về cho trăm họ.
Vua
run run nhận sổ xong. Huệ quay sang bảo Trần Công Xán:
-
Xin hỏi ngài có phải là Trần Công Xán người làng Yên Vĩ, Tổng Yên Cảnh, Huyện
Đông An, phủ Khoái Châu đó chăng
Xán
đáp:
-
Phải. Chính là tôi đây!
Huệ
lại hỏi:
-
Khi đạo binh tôn phò của tôi đánh lấy Vị Hoàng tôi nghe nói ngài bày mưu cho Trịnh
Khải rằng: "Quân Tây Sơn từ nơi xa kéo quân đến đây ắt là mỏi mệt cứ nhử
cho chúng vào sâu trong đất của ta rồi kéo quân đánh một trận ắt diệt được giặc".
Xin hỏi ngài điều ấy có chăng?
Nghe
Huệ nói, Phan Lê Phiền, Uông Sĩ Điền và các quan đều sợ thất sắc nghĩ rằng Nguyễn
Huệ hoạch tội để giết Trần Công Xán. Xán vẫn thản nhiên đáp:
-
Phải, người bày mưu ấy chính là tôi!
Nguyễn
Huệ cười nói:
-
Nếu ngài bày mưu ấy cho Chúa Trịnh là ngài có ba điều không rồi vậy.
Xán
hỏi lại Huệ rằng:
-
Thế nào là ba điều không?
Nguyễn
Huệ lại mỉm cười đáp:
-
Quân Tây Sơn tôi phò vua Lê diệt Trịnh, ngài lại bày mưu cho Trịnh đánh quân
phò vua, ấy là bất trung. Quân Trịnh nghe hịch tôn phò của tôi đều nhờ ơn vua
quăng gươm giáo mà không kháng cự, vả lại họ Trịnh lúc ấy tướng lười, binh
kiêu, ngài lại bảo rằng nhử giặc vào sâu rồi đánh một trận là tiêu diệt được, ấy
là bất trí. Bày mưu chúa Trịnh đánh vua Lê, nay chúa mất rồi còn mặt mũi nào mà
theo về với vua, ấy là bất nghĩa. Bất trung, bất trí, bất nghĩa là ba điều
không vậy.
Trần
Công Xán tái mặt cãi lại rằng:
-
Tướng quân truyền hịch phò Lê diệt Trịnh kéo quân đến nước tôi. Trong lúc vàng
thau lẫn lộn biết đâu là thật giả, ngộ nhỡ diệt được Trịnh rồi tướng quân không
trả nước cho vua thì sao? Vậy tôi bày mưu cho Chúa đánh tướng quân để giữ nước
cho vua sao bảo là bất trung. Nay Chúa Trịnh Khải dù đã diệt những còn dư đảng
là Trịnh Lê, Trịnh Bồng. Vả lại nay được biết tướng quân thật đã tôn phò tôi mới
phò vua mà không theo Trịnh sao bảo là bất nghĩa. Tôi bày việc quân cơ cho Chúa
là kế hay, khác nào Đức thánh Trần Hưng Đạo nhử giặc Nguyên vào sâu, chỉ vì
không có tướng tài để đánh một trận là diệt xong địch như nhà Trần thuở trước,
sao bảo là tôi bất trí.
Nghe
Trần Công Xán nói xong Nguyễn Huệ cười lớn mấy hỏi rồi hỏi:
-
Qua lời biện luận mới rõ ngài là người đại trung đại nghĩa, đại trí. Tôi thành
thật xin lỗi vậy. Vậy tôi hỏi ngài, nay nếu tôi kéo quân về Nam ngay e dư đảng
họ Trịnh kéo đến ăn hiếp vua thì tướng tài nào ra tay dẹp loạn? Bọn kiêu binh
quân Trịnh còn đang lẩn trốn ngoài thành thừa dịp này cướp bóc của dân thì lấy
ai cứu nguy trăm họ? Nếu ngài có kế hay định yên xã tắc, Huệ tôi lập tức rút
binh.
Trần
Công Xán đáp bừa rằng:
-
Ngài cứ rút quân, người nước tôi tự có kế để giữ lấy nước mình.
Nguyễn
Huệ lắc đầu nói:
-
Ngài nghi ngờ tôi không thực bụng tôn phò mà nói thế. Nhưng lời ngài là vô căn
cứ tôi không thể nghe theo. Tôi ra đây là để phò vua. Vậy việc về hay ở xin để
cho Bệ hạ định đoạt.
Lúc
này vua Hiển Tông mới bảo rằng:
-
Trần Công Xán không được nhiều lời. Nay trước mặt ba quân ta phong Nguyễn Huệ
chức Đại Nguyên soái, phù chính dực vận Uy Quốc Công, trao Nguyên soái bảo kiếm
tiền trảm hậu tấu. Nguyên soái hãy lại đóng quân giúp trẫm định quốc an dân, lập
lại các bộ, sửa sang giềng mối luân thường, chỉnh đốn kỷ cương phép tắc cho dân
ngoan biết đến vua hiền, hưởng cuộc đời thái bình thịnh trị. Ấy là nhờ Tiên đế
linh thiêng sai Nguyên soái tái tạo cho nhà Lê ta vậy. Chỉ tiếc rằng Thái tử Vỹ
không còn sống mà thôi.
Nói
xong vừa mủi lòng sa nước mắt. Nguyễn Huệ cảm động thưa:
-
Xin Bệ hạ an tâm, hạ thần xin hứa sẽ hết lòng phò vua đến khi nào người trăm họ
đều thấm nhựa thành đức mới thôi.
Nói
rồi từ biệt về dinh phủ. Dọc đường Nguyễn Huệ hỏi Trần Văn Kỷ rằng:
-
Tiên sinh nghe Trần Công Xán luận về Trung, Nghĩa, Trí thế nào?
Trần
Văn Kỷ đáp:
-
Luận về Trung, Nghĩa thì đúng, nhưng luận về Trí rõ là người bất trị nói càn.
Nguyễn
Huệ nói:
-
Các quan trong triều vua Lê lúc thiết triều không ai dám há môi mở miệng. Nghe
ta bảo là Trần Công Xán bất trung, bắt nghĩa, bất trị thì đã sợ mất mật. Chỉ có
Trần Công Xán tuy rằng bất trị nhưng là người trung liệt đáng khen.
***
Nói
về Nguyễn Hữu Chỉnh nghe Nguyễn Huệ hứa với vua Lê Hiển Tông sẽ đóng binh ở đất
Bắc định yên xã tắc rồi mới quay về, Chỉnh về đến tư dinh bồn chồn ngồi đứng
không yên. Nguyễn Viết Tuyển hỏi:
-
Việc gì mà tướng quân lại lo lắng ưu phiền như thế?
Hữu
Chỉnh thở dài đáp:
-
Ta xui Nguyễn Huệ kéo quân ra diệt Trịnh. Những tưởng diệt Trịnh xong rồi Nguyễn
Huệ sẽ kéo quân về giao binh cho ta ở lại Bắc Hà phò việc nhà Lê. Chẳng ngờ
Nguyễn Huệ không nói gì đến việc ấy cả. Ta e rằng Nguyễn Huệ hiểu được bụng ta
không thực lòng quy thuận nên vạn nhất Huệ có kéo binh về Nam cũng chẳng thể
giao binh quyền cho ta nơi đất Bắc, thì cái chí lấy ngai của chúa Trịnh dùng
sông Linh Giang chia đôi thiên hạ với quân Tây Sơn ắt chẳng thành.
Nguyễn
Viết Tuyển hỏi:
-
Vậy tướng quân phải chịu theo hầu dưới trướng Nguyễn Huệ mãi sao?
Chỉnh
đáp:
-
Đời nào ta chịu yên như thế Ta có một kế có thể khiến Nguyễn Huệ phải chịu để
cho ta mượn binh trấn thủ Bắc Hà.
Nguyễn
Viết Tuyển hỏi:
-
Kế ấy là kế gì?
Chỉnh
đáp:
- Ấy
là mỹ nhân kế!
Rồi
Chỉnh kề tai Tuyển nói nhỏ. Nghe xong Tuyển khen:
-
Hay! Mỹ nhân là của người khác lại dùng được để nên việc của ta. Thật là diệu kế.
Bàn
với Nguyễn Viết Tuyển xong, Nguyễn Hữu Chỉnh liền soạn khăn áo sang bái yết vua
Lê. Chỉnh tâu:
-
Tâu Bệ hạ, lúc ban sáng Bệ hạ phong cho Nguyễn Huệ chức Đại Nguyên soái tước Uy
Quốc Công, Nguyễn Huệ có về bảo với hạ thần rằng: Ta ra đây cốt để phò vua Lê.
Nếu không nghĩ đến công của vua Thái Tổ đã ba trăm năm dựng nước thì ta muốn
xưng đế xưng vương gì chẳng được? Nay vua lại đem cái chức Nguyên soái để phỉnh
dụ ta. Hỏi cả tước Uy Quốc Công hão ấy ta được thêm gì? Nếu không nhận thì ra
thất lễ với vua, mà nhận thì mang tiếng là người không biết gì! Tâu Bệ hạ, Nguyễn
Huệ nói vậy đó!
Vua
Lê thật thà ngỡ là thật, cả sợ hỏi Chỉnh:
-
Rồi Nguyên soái còn nói gì nữa chăng?
Chỉnh
đáp:
-
Nguyên soái đòi kéo quân về Nam bỏ mặc Bắc Hà ra sao thì ra.
Vua
Lê thất kinh nói:
-
Nếu vậy thì nước ta loạn mất. Khanh trước là tớ của trẫm vì họ Trịnh bức bách
phải bỏ nước theo vua Tây Sơn. Nay vì nghĩa cử có thể bày kế gì cho trẫm được
chăng?
Chỉnh
đáp:
-
Hạ thần đến đây là vì an nguy của Bệ hạ và xã tắc đó.
Vua
vội vàng hỏi:
-
Nói vậy nghĩa là khanh đã có kế?
Chỉnh
hiến kế rằng:
-
Hạ thần nghe nói trong các công chúa có Ngọc Hân công chúa là sắc nước hương trời.
Theo ý hạ thần Bệ hạ nên gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyên soái. Một là để tỏ
thành ý với Nguyên soái để Nguyên soái không nghĩ rằng Bệ hạ dùng chức hão mà
phỉnh dụ ông ta. Hai là lấy tinh thần lôi kéo Nguyên soái ở lại Bắc Hà giúp cho
Bệ hạ. Ngộ nhỡ trong Nam Hà có biến, Nguyên soái phải kéo quay về, Bệ hạ hãy
xin cùng Nguyên soái cho hạ thần được cầm binh ở lại trả ơn Bệ hạ cho trọn
nghĩa vua tôi khi trước. Nguyên soái khi ấy đã là rể của Bệ hạ, vì nghĩa nước
tình nhà không thể không vâng.
Vua
Lê Hiển Tông ngẫm nghĩ rồi bảo Hữu Chỉnh:
-
Lời khanh có lý. Vả lại trong các con, Ngọc Hân là người trẫm thương yêu nhất.
Nay có được một tấm chồng anh hùng hào kiệt như Nguyên soái ta cũng an tâm. Vậy
phiền khanh hãy về dò ý của Nguyên soái xem sao rồi mau báo cho trẫm hay để trẫm
khỏi lo lắng.
Vua
nói xong nằm trên giường ngự mệt nhọc ôm ngực ho khan. Nguyễn Hữu Chỉnh thấy
vua Lê trúng kế của mình bấm bụng cười thầm rồi cáo biệt ra về. Nguyễn Hữu Chỉnh
lại đến tìm gặp Nguyễn Huệ nói:
-
Vua Hiển Tông tiếng làm vua hơn bọn mấy mươi năm nhưng quyền hành đều trong tay họ
Trịnh. Nhà vua tâm sự với tôi rằng tuy đã phong chức Nguyên Soái cho Chúa công
nhưng nhà vua thanh bạch không có gì ban thưởng cho Chúa công nên trong lòng lấy
làm áy náy lắm.
Nguyễn
Huệ gạt đi bảo:
-
Ta đem binh ra đây cốt là diệt Trịnh để cứu dân. Nay đến đây mới thấy nhờ truyền
hịch phò Lê mà lòng quân Trịnh hoang mang chưa đánh đã tan khiến quân ta chiến
thắng dễ dàng. Xét lòng trăm họ có thương tiếc nhà Lê, vậy vì dân tại sao ta
không thực bụng tôn phò? Vả lại nhà vua là người nhân hậu nhu mì, bị họ Trịnh
áp chế tình cảnh thật đáng thương. Xét về nhân không nên lấn át. Vậy ta phải đến
gặp vua phân cho rõ tấm lòng kẻo vua áy náy lo âu thì ta là người đắc tội.
Nói
xong đứng dậy toan đi. Nguyễn Hữu Chỉnh ngăn lại nói:
-
Xin Chúa công chớ vội, vua Lê sai tôi đến đây dò ý Chúa công.
Huệ
ngạc nhiên hỏi:
-
Dò ý ta về việc gì?
Chỉnh
đáp:
-
Số là nhà vua có một nàng công chúa tên là Ngọc Hân sắc đẹp như tiên giáng thế
nên trong Hoàng gia thường gọi là Chúa Tiên. Chúa Tiên tính nết đoan trang, am
tường ca cầm kỳ thi hoạ. Vua nhờ tôi dò ý Chúa công, nếu không chê, vua sẽ nhận
Chúa công làm phò mã để tỏ lòng thành với Chúa công phò vua vực nước.
Nguyễn
Huệ gạt đi bảo:
-
Việc này ta thác không đảm nhận.
Chỉnh
hỏi:
-
Vì sao Chúa công lại từ chối lòng thành của nhà vua?
Huệ
đáp:
-
Ta ra đây phò Lê không được lệnh của Hoàng huynh. Dù binh pháp có câu: "Tướng
ngoài biên ải không nhất nhất phải nghe lệnh vua, nhưng Hoàng huynh có lý bắt
ta về tội kháng lệnh. Nay ta lấy vợ mà không được phép của mẹ và anh, ấy là bất
hiếu. Nếu ta làm thế tất Hoàng huynh ta vin vào tội bất hiếu càng khẳng định tội
ta kháng mệnh bất trung. Đó là một lẽ.
Hữu
Chỉnh dò hỏi:
-
Còn điều thứ hai là gì?
Huệ
trầm ngâm đáp:
-
Vua Lê vì ngại ta kéo quân về, Bắc Hà sẽ loạn nên vạn bất đắc dĩ mới gả công
chúa để lấy lòng ta. Nếu thuận ý, hoá ra ta nhận lúc người cần mà ép người sao?
Đó là hai lẽ. Vì hai lẽ đó, ta không thể thuận lòng.
Trần
Văn Kỷ xen vào nói:
-
Theo tôi việc này thật khó xử.
Huệ
nói:
-
Thế nào là khó xử.
Kỷ
đáp:
-
Chúa công đã nhận chức Nguyên soái của vua Lê, xét theo lẽ là nghĩa quân thần.
Nay vua không xuống lệnh mà hạ mình trước dò ý Chúa công, nên Chúa công không
nhận hoá ra là thất lễ với vua. Nhận cũng không được mà từ chối cũng không xong
ấy là điều khó xử.
Nguyễn
Huệ lo âu hỏi:
-
Thật khó khăn cho ta, đằng nào cũng bị mang tiếng. Theo tiên sinh nên làm thế
nào mới vẹn toàn.
Trần
Văn Kỷ đáp:
-
Tôi có kế khiến Chúa công dù chối từ cũng không thất lễ với vua.
Huệ
mừng rỡ hỏi:
-
Kế thế nào?
Kỷ
e dè đáp:
-
Xin Chúa công tha tội, tôi mới dám thưa.
Nguyễn
Huệ bảo:
-
Có kế hay xin tiên sinh cứ dạy. Đừng khách sáo giữ lễ làm chi.
Văn
Kỷ hiến kế:
-
Người Bắc Hà tự cho mình ở đất ngàn năm văn vật, xem quân Tây Sơn ta như man di
mọi rợ. Công chúa dù thông minh nhưng cũng là phận nữ nhi khuê môn bất xuất, tất
cũng nghe lời đồn đại trong Hoàng gia mà không ngoại lệ khi nghĩ về Tây Sơn ta.
Vậy Chúa công hãy đến gặp vua nói như vầy... như vầy. Khi ấy ắt công chúa sẽ chối
từ, thì Chúa công khỏi thất lễ với vua. Lời tôi ngay thật xin Chúa công tha tội.
Nguyễn
Huệ bảo:
-
Trong quân của ta có binh lính người Thượng nên những kẻ xấu thường thừa dịp bảo
quân Tây Sơn ta là quân man mọi. Việc này ta có biết, tiên sinh nào có lỗi
gì? Cám ơn tiên sinh bày diệu kế, ta phải lập tức thi hành.
Nói
rồi liền cùng Trần Văn Kỷ và Nguyễn Hữu Chỉnh khăn áo sang chầu vua Lê.
***
Nói
về vua Lê Hiển Tông, khi Nguyễn Hữu Chỉnh đi rồi vua liền gọi công chúa Ngọc
Hân đến. Vua nói:
-
Nay cha định gả con cho Nguyễn Huệ, chẳng biết ý con thế nào?
Công
chúa kính cẩn hỏi:
-
Thưa Phụ vương, việc này là do Nguyễn Huệ cầu hôn chăng?
Vua
đáp:
-
Việc này Nguyễn Huệ còn chưa biết.
Ngọc
Hân lại hỏi:
-
Vậy vì lẽ gì Phụ vương lại định gả con cho Nguyễn Huệ.
Vua
đáp:
-
Nguyễn Huệ đem quân đến đây diệt Trịnh trả nước cho nhà Lê ta. Nay nếu Nguyễn
Huệ kéo quân về Nam, nước ta ắt loạn. Nên cha định gả con cho Nguyễn Huệ là lấy
tình thật đãi người, ắt người cũng vì tình hết dạ giúp ta. Vả lại nay cha đã gần
đất xa trời, thấy con lấy được một tấm chồng anh hùng kiệt hiệt như Nguyễn Huệ
cha mới yên lòng nhắm mắt.
Ngọc
Hân thưa:
-
Nếu là bậc anh hùng hào kiệt thì Nguyễn Huệ không thể bỏ mặc Phụ vương mà kéo
quân về Nam được. Phụ vương không cần gả con để giữ người.
Vua
ngạc nhiên hỏi:
-
Vì sao con dám quả quyết như thế?
Ngọc
Hân đáp:
-
Nguyễn Huệ truyền hịch phò Lê diệt Trịnh kéo quân đến đây, nay trong lúc nước
ta còn loạn lạc chưa yên mà bỏ mặc Phụ vương thì sao khỏi mang tiếng thất tín với
thiên hạ. Nếu là bậc anh hùng hào kiệt ai lại làm điều thất tín, cần gì phải gả
con. Còn nếu Nguyễn Huệ bỏ ta mà đi trong lúc này tất là người thất tín, cũng
chỉ như phường thừa nước đục thả câu, tình gì mà phải giữ.
Vua
giật mình nói:
-
Con thật là sáng suốt. Nhưng cha đã sai Nguyễn Hữu Chỉnh đi dò ý Nguyễn Huệ, nếu
Nguyễn Huệ bằng lòng thì con cũng nên ưng thuận cho cha được yên lòng.
Ngọc
Hân an ủi rằng:
-
Xin Phụ vương an tâm, Nguyễn Huệ đem quân đến đây vẫn một lòng tôn kính Phụ
vương. Mở kho thóc họ Trịnh phát chẩn dân nghèo, quân không mảy mây xâm phạm của
dân, bắt được cướp đem ra trước dân mà xử. Một đạo binh nghiêm kỷ như thế, thì
tướng tất phải là người quang minh lỗi lạc. Nay việc đã lộ, cứ để xem ý Nguyễn
Huệ thế nào con sẽ liệu mà xử sự.
Ngọc
Hân vừa nói xong, quân canh vào báo:
-
Tâu Bệ hạ, Nguyên soái xin vào yết kiến.
Vua
bảo Ngọc Hân:
-
Con hãy tạm lánh một sau bức bình phong. Để cha tiếp Nguyễn Huệ xem ý Huệ thế
nào.
Nguyễn
Huệ, Nguyễn Hữu Chỉnh và Trần Văn Kỷ vào đến thi lễ xong Huệ thưa:
-
Tâu Bệ hạ, việc Bệ hạ nhận hạ thần làm phò mã thật thần không dám vâng lời.
Nhà
vua buồn rầu nói:
-
Nhà Lê của trẫm hai trăm năm nay ví như là tù nhân được họ Trịnh cấp gạo cho
ăn. Trẫm tiếng là vua, con gái trẫm tiếng là công chúa nhưng cảnh nhà thanh bạch
thật là hữu danh vô thực. Trẫm biết thế nên đâu dám mời Nguyên soái đến hỏi thẳng,
phải nhờ Hữu Chỉnh dò ý Nguyên soái. Chẳng ngờ Nguyên soái chê mà không thuận
ý, nhà Lê của ta thật là vô phúc vậy.
Nguyễn
Huệ thất kinh tâu:
-
Xin Bệ hạ bình tâm cho thần tỏ đôi lời. Số là hạ thần không dám nhận làm phò
mã; bởi thần ra đi vì nghĩa đối với vua đang bị họ Trịnh áp chế, vì nhân đối với
dân đang cực khổ lầm than. Ấy là một lẽ. Nay nếu kể công mà nhận thưởng chẳng
hoá ra là người giả nghĩa giả nhân ư? Ấy là hai lẽ. Còn công chúa nếu không ưng
mà vâng lời Bệ hạ phải bằng lòng thì hoá ra hạ thần là kẻ ngu phu ư. Ấy là ba lẽ!
Tâu Bệ hạ, vì ba lẽ ấy mà hạ thần không dám nhận. Xin Bệ hạ đừng nói tiếng chê
mà thần phải mang tội khi quân thất kính.
Vua
Lê vẫn dàu dàu hỏi:
-
Nói đi nói lại rốt cuộc là Nguyên soái từ chối nhân duyên chứ gì?
Nghe
vừa hỏi Huệ nghĩ thầm rằng, bây giờ có thể nói kế của Trần Văn Kỷ ra được rồi
đây, bèn nói:
-
Xin Bệ hạ cho thần được giáp mặt công chúa hỏi một câu. Nếu công chúa không chê
hạ thần mới dám nhận, để khỏi mang tiếng là ép buộc nhân duyên.
Vua
Lê cả mừng nói:
-
Việc này nào có khó gì. Quân bay mau mời Ngọc Hân công chúa đến đây.
Ngọc
Hân từ bình phong bước ra thi lễ với vua xong lại quay sang kính cẩn chào Nguyễn
Huệ. Nguyên lúc Ngọc Hân ở sau bức bình phong nghe được cuộc đối đáp của Nguyễn
Huệ với vua cha, nghe tiếng Nguyễn Huệ ngân như chuông, lời lẽ quang minh chính
đại. Đến khi thấy Nguyễn Huệ mắt phượng mày tằm, ánh nhìn như chớp, tướng mạo
phi phàm thì trong lòng sinh ra cảm phục. Còn Nguyễn Huệ thấy Ngọc Hân công
chúa tóc mây, da tuyết, mày như lá liễu, mặt nhìn tựa sóng mùa thu, dung nhan cực
kỳ diễm lệ thì nhìn mãi không thôi. Nguyễn Hữu Chỉnh thấy vậy mừng thầm nhắc
khéo Nguyễn Huệ rằng:
-
Thưa Chúa công, ấy chính là Ngọc Hân công chúa.
Nguyễn
Huệ giật mình quở Nguyễn Hữu Chỉnh rằng:
- Ở
nước ta, ngươi gọi ta là Chúa công đã đành. Đây là ở nước Hoàng thượng, và ta
đã nhận sắc phong của Hoàng thượng vậy là nghĩa tôi thần, ngươi còn gọi ta là
Chúa công sao phải!
Rồi
Huệ quay sang Ngọc Hân nói:
-
Huệ tôi từ nơi xa đến đây, nghe thiên hạ đồn rằng công chúa Ngọc Hân sắc đẹp
như tiên giáng thế nên người đời thường gọi là Chúa Tiên. Nay tôi đã thưa cùng
Hoàng thượng xin cầu hôn công chúa. Chẳng hay ý công chúa thế nào?
Ngọc
Hân cười nói:
-
Cám ơn Chúa công đã có lòng đoái hoài. Nếu Chúa công đưa ra một lễ vật, thiếp
nguyện suốt đời sửa túi nâng khăn.
Nguyễn
Huệ hỏi:
-
Tôi tuy không phải là người trong nước, nhưng nay đã nhận sắc phong của Hoàng
thượng, xin công chúa hay gọi tôi theo sắc phong, chớ gọi là Chúa công theo thủ
hạ của tôi. Công chúa muốn thách lễ cưới vật gì xin hãy nói ra.
Ngọc
Hân đáp:
-
Thiếp xin ra một vế đối, nếu Chúa công đối được ấy là Chúa công đã trao lễ vật
vậy.
Nguyễn
Huệ liền bảo:
-
Điều thứ nhất xin công chúa chớ gọi tôi là Chúa công, Điều thứ hai xin hãy ra vế
đối!
Ngọc
Hân đáp:
-
Nếu Chúa công đối được câu đối này thì thiếp sẽ không gọi là Chúa công mà gọi
là Nguyên soái theo phong của Phụ hoàng thiếp. Vậy thiếp xin đọc vế đối:
Chúa
công, Công chúa hội ngộ
Thiếp
nghe nói Chúa công chỉ hay dùng văn Nôm mà không ưa văn Hán. Vậy Chúa công hay
dùng văn Nôm mà đối lại câu văn Hán này.
Nghe
Ngọc Hân công chúa nói xong, Nguyễn Hữu Chỉnh thất kinh hồn vía than thầm rằng:
-
Cuộc nhân duyên chắc chắn lỡ làng, việc lớn của ta chẳng những bất thành. Nguyễn
Huệ không đối được bị bẽ mặt, tính mạng ta e rằng khó giữ.
Nghĩ
xong Chỉnh bèn kéo Trần Văn Kỷ ra xa hỏi nhỏ rằng:
-
Công chúa ra câu đối hiếm như thế lại còn bắt dùng văn Nôm mà đối. Nếu Chúa
công không đối được thì sao.
Trần
Văn Kỷ cười đáp:
-
Mục đích Chúa công đến đây là từ chối cuộc hôn nhân, nếu không đối được thì
càng tốt chứ sao.
Nghe
Văn Kỷ nói Chỉnh lại càng rầu rĩ.
Còn
vua Lê Hiển Tông kéo công chúa lại gần bảo:
-
Nếu con không thuận ý thì thôi việc gì phải bày trò câu đối mà hạ nhục Nguyên
soái. Con làm việc này là đã giết cha rồi đó.
Ngọc
Hân đáp:
-
Xin cha cứ an tâm, Nguyên soái không phải là người kém tài văn chương đâu.
Nói
xong Ngọc Hân quay sang hỏi Nguyễn Huệ:
-
Xin hỏi Chúa công có đối được chăng?
Bây
giờ Nguyễn Huệ mới mỉm cười đáp:
-
Bình sinh tôi chỉ tranh thắng thua nơi chiến trận, định kế mưu chém tướng đoạt
thành. Trên lĩnh vực văn chương thật là mai một. Nay công chúa đã ra vế đối bằng
văn Hán, bắt phải đối bằng văn Nôm, Huệ tôi tuy ít học nhưng để chứng tỏ văn
Nôm của người Nam ta sao không đối được cùng văn Hán của người Tàu, nên cũng
xin múa rìu qua mắt thợ.
Ngọc
Hân nói:
-
Vậy xin Chúa công hay đối đi cho.
Lúc
ấy vua Lê Hiển Tông nghĩ Nguyễn Huệ không đối được sẽ kéo quân về Nam mà sợ
toát mồ hôi hột, Nguyễn Hữu Chỉnh lo nhân duyên bất thành lại vạ đến thân, mặt
không còn hột máu, chỉ Trần Văn Kỷ là bình thản như không. Bỗng nghe Nguyễn Huệ
đáp lời Ngọc Hân rằng:
-
Công chúa ra câu đối văn Hán: "Chúa công, Công chúa hội ngộ". Tôi xin
đọc vế đối văn Nôm: "Một mai, mai một anh hùng".
Nguyễn
Huệ vừa dứt lời, Nguyễn Hữu Chỉnh mừng quá buột miệng khen:
-
Hay. Thật không còn vế đối nào hay và chỉnh hơn thế được!
Vua
Lê Hiển Tông thở phào nói lớn:
-
Nguyên soái thật là người hiếu trung gồm đủ, trí dũng có thừa, văn võ song toàn
đó. Nguyên soái đã đối được vế đối, con còn gì để nói nữa chăng?
Ngọc
Hân quỳ thưa:
-
Nguyên soái đã trao lễ vật, xin Phụ vương cho con cùng người nên nghĩa Châu Trần.
Nguyễn
Huệ cũng quỳ tâu:
-
Đội ơn Bệ hạ đoái thương. Hạ thần xin được ra về nhờ người mai mối định ngày
làm lễ tơ hồng.
Nói
rồi vua Lê, Nguyễn Huệ, Ngọc Hân và Nguyễn Hữu Chỉnh vui vẻ chia tay. Chỉ có Trần
Văn Kỷ là hãy còn thắc mắc. Về đến tư dinh, Văn Kỷ hỏi Nguyễn Huệ:
-
Chúa công định từ chối hôn nhân, sao còn đối vế đối của công chúa làm gì?
Nguyễn
Huệ đáp:
-
Lúc chưa gặp vua, mới nghe Hữu Chỉnh nói ta những tưởng vua vì bất đắc dĩ mới gả
công chúa cho ta. Nếu nhận là ép người, bất nghĩa. Giờ tận mắt thấy vua thật
lòng muốn nhận ta làm phò mã, nên chối từ hoá ra là khi quân thất lễ, nên ta phải
thuận lòng. Vả lại, ta không bất nghĩa với vua Lê mà được làm phò mã thì càng
danh chánh ngôn thuận phò vua nhà Lê, ắt có lợi cho việc tiến thoái về sau để
thống nhất sơn hà. Văn Kỷ chớ nghĩ rằng ta say đắm nhan sắc của công chúa mới
phải đối văn.
Trần
Văn Kỷ vui vẻ nói:
-
Trai anh hùng, gái thuyền quyên. Mối lương duyên này thật là do trời sắp đặt.
Đến
ngày cưới, Nguyễn Huệ dâng lễ vật cho vua Lê, rước công chúa Ngọc Hân về soái
phủ (Là phủ Chúa Trịnh lúc trước). Nhân dân ở thành Thăng Long hay tin đi xem
đông như kiến, mọi người đều tấm tắc khen rằng:
-
Công chúa con vua nước ta lại lấy em vua nước Tây Sơn. Thật trai tài gái sắc, xứng
đôi phải lứa xứ này chưa từng thấy. Phò mã ắt phải giữ nước cho cha vợ, lo gì
nước chẳng yên.
Rước
Ngọc Hân về soái phủ rồi, Nguyễn Huệ hỏi Ngọc Hân rằng:
-
Công chúa không thương thì thôi sao ra câu đối hiểm như vậy? Ngộ nhỡ tôi không
đối được hoá ra công chúa muốn làm bẽ mặt tôi ư?
Ngọc
Hân đáp:
-
Khi ra về đối này thiếp đã nghĩ trước, chỉ có anh hùng trong thiên hạ mới đối
được mà thôi. Phu quân là người anh hùng quán thế sao lại chẳng đối được câu
này.
Nguyễn
Huệ nắm tay Ngọc Hân nói:
-
Mới gặp mặt lần đầu đã đoán biết anh hùng. Ta với nàng thật là tri kỷ. Anh hùng
quán thế sánh duyên cùng tuyệt thế giai nhân, ấy chẳng phải là ý trời ư?
Nói
rồi hai người cũng dắt tay nhau vào động phòng hoa chúc.
xem tiếp: * Chương 39: Nguyễn Hữu Chỉnh thêm một lần bị đuổi khỏi nước. - Nguyễn Long Nhương phải hai phen kháng lệnh vua anh.
xem tiếp: * Chương 39: Nguyễn Hữu Chỉnh thêm một lần bị đuổi khỏi nước. - Nguyễn Long Nhương phải hai phen kháng lệnh vua anh.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...