Chương
36: Tìm minh chủ, Trần Văn Kỷ làm thơ. -
Vì đại nghĩa, Nguyễn Huệ ra Bắc.
Nói
về Nguyễn Hữu Chỉnh về đến tư dinh, thủ hạ Nguyễn Viết Tuyển hỏi Chỉnh rằng:
-
Tướng quân những muốn mượn tay quân Tây Sơn mà về đất Bắc. Nay Nguyễn Huệ đã lấy
xong Thuận Hoá nhưng không tiến quân khỏi sông Linh Giang thì làm sao ta về Bắc
được?
Chỉnh
trầm ngâm đáp:
-
Ngày mai ta sẽ khuyên Nguyễn Huệ mượn tiếng phò Lê diệt Trịnh. Nếu Nguyễn Huệ
nghe lời ta nghĩ là ta đã bắn một mũi tên trúng hai mục đích đó.
Tuyển
hỏi:
-
Thế nào là một mũi tên trúng hai đích?
Chỉnh
đáp:
-
Nguyễn Nhạc chí nhỏ, tài sơ nhưng quyền hành lớn. Nguyễn Huệ chí cả tài cao mà
lại ở dưới quyền Nguyễn Nhạc. Nguyễn Huệ nghe lệnh Nguyễn Nhạc nhưng trong lòng
ắt là bất phục. Nguyễn Nhạc dùng Nguyễn Huệ tránh sao khỏi nghi ngờ. Nay nếu
Nguyễn Huệ nghe lời ta mượn tiếng phò Lê diệt Trịnh đem quân ra Bắc. Diệt Trịnh
rồi Huệ rút quân về tất phải cử người ở lại Bắc Hà để phò Lê. Người ấy không phải
là ta thì còn ai cho hợp lý hợp tình hơn nào. Ấy là một mục đích.
Viết
Tuyển hỏi:
- Ấy
thật là diệu kế. Còn mục đích thứ hai là gì?
Chỉnh
không đáp mà hỏi lại Tuyển:
-
Theo ngươi trong thiên hạ ngày nay ai là kẻ anh hùng?
Tuyển
đáp ngày:
-
Theo tôi Nguyễn Huệ thật là bậc anh hùng trong thiên hạ.
Chỉnh
nói:
-
Nguyễn Huệ đánh Nam dẹp Bắc chước quỷ mưu thần đạp đổ nhà Nguyễn ở Đàng Trong,
bốn lần vào Gia Định đánh Nguyễn Phúc Ánh không còn manh giáp, trong một đêm
tiêu diệt năm vạn quân Xiêm La thật đáng mặt anh hùng. Nhưng đoán anh hùng từ
lúc hàn vi mới là thức giả. Vậy ta muốn hỏi ngươi ai chưa nên sự nghiệp mà đáng
mặt anh hùng, sánh cùng Nguyễn Huệ?
Tuyển
đáp:
-
Tôi là người hèn mọn chẳng thấy việc cao xa. Xin tướng quân chỉ dạy.
Chỉnh
trầm ngâm nói:
-
Nếu Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc tất Nguyễn Nhạc vốn sẵn đã nghi ngờ sẽ bắt tội
kháng lệnh, dù nghĩ tình ruột thịt cũng tước mất binh quyền. Ấy là ta không
đánh mà trừ được Nguyễn Huệ. Chẳng phải là địch thứ hai sao?
Nguyễn
Viết Tuyển vòng tay bái nói:
-
Hùng tài của tướng quân thật đã sánh cùng Nguyễn Huệ.
Nguyễn
Hữu Chỉnh cười lớn rằng:
-
Sau khi Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc thì trong thiên hạ chỉ còn lại một mình ta
là đáng anh hùng.
Rồi
Chỉnh đến gặp riêng Nguyễn Huệ nói:
-
Nay Chúa công kéo quân đến đây chỉ đánh một trận gom châu Thuận Hoá uy danh lừng
lẫy. Chúa công nên thừa lúc thế quân như chẻ tre đem quân Bắc tiến cho non sông
quy về một mối, xoá bỏ ranh giới Linh Giang mà hai nhà Trịnh - Nguyễn đã dựng
nên suốt hai trăm năm này. Ấy chẳng phải là công nghiệp chưa từng có hay sao?
Nguyễn
Huệ điềm nhiên hỏi:
-
Từ ngày vua Lê Thái Tổ dựng nước đến nay đã ba trăm năm lòng người đời đời nhớ
ơn, đến như họ Trịnh hung tàn còn không dám truất bỏ. Nay ta lấy lý gì để kéo
quân vào đất ấy được?
Chỉnh
đáp:
-
Họ Trịnh bao đời nay hiếp đáp vua Lê, thiên hạ đều bất bình. Vả lại quân nhà Trịnh
thêm nạn kiêu binh muôn dân hờn oán, nếu Chúa công dùng chiếc bài phò Lê diệt
Trịnh thì nhân dân Bắc Hà ai là chẳng theo.
Huệ
nói:
-
Ta hỏi thế là để thử tài ông mà thôi. Tám năm trước đã biết trước sẽ có ngày
đem quân Bắc tiến diệt Trịnh phò Lê, nên ta mới khuyên Hoàng huynh lên ngôi
Hoàng đế. Nếu lúc ấy Hoàng huynh nghe lời ta thì hôm nay ta ra Thăng Long phò
Lê diệt Trịnh đường đường chính chính đóng quân ở Bắc Hà thống nhất giang sơn dựng
đời thịnh trị. Ngặt nỗi Hoàng huynh ta nay đã xưng đế hiệu lập riêng một nước nếu
muốn thống nhất sơn hà chỉ có cách phế bỏ nhà Lê, bằng không phải kéo quân về
trả nước cho họ. Nếu vậy ta đem quân ra Bắc được lợi lộc gì?
Chỉnh
đáp:
-
Thánh nhân dựng nghiệp chỉ nói về nghĩa, không kể về lợi. Nay Hoàng thượng lên
ngôi là mất nghĩa để thống nhất giang sơn thì Chúa công phải tự lập mà dựng nên
nghiệp lớn. Nay Chúa công để quân ra Bắc diệt Trịnh phò Lê lại cứu dân khỏi ách
họ Trịnh ấy là được nghĩa. Vua Lê nhu nhược, trăm họ mến đức nhưng bá quan lại
chẳng sợ uy làm gì mà nước không sinh loạn. Thừa lúc nước loạn Chúa công cử người
ở lại mượn tiếng phò Lê định yên cõi Bắc rồi sẽ tuỳ thời mà liệu việc, cũng
chưa hẳn là không lợi cho nghiệp đế về sau.
Huệ
cười hỏi:
-
Lời ông cũng phải, vậy theo ông sau khi ta rút quân về ai có thể ở lại định yên
cõi Bắc?
Chỉnh
giả vờ hỏi lại rằng:
-
Dưới trướng chúa công nhiều tướng giỏi chẳng biết người sẽ chọn ai.
Huệ
đáp:
-
Việc này chỉ có ông là làm được mà thôi.
Chỉnh
thất sắc nói:
-
Tôi bất tài dám đâu nhận trọng trách ấy.
Huệ
vờ nói lảng sang chuyện khác rằng:
-
Ta chỉ vâng lệnh Hoàng huynh đánh Thuận Hoá. Nếu đem quân ra Bắc e mang tội
kháng lệnh thì sao?
Chỉnh
đáp:
-
Binh pháp có câu: "Tướng ngoài biên ải không cần phải nhất nhất tuân lệnh
của vua".
Huệ
ngẫm nghĩ hồi lâu rồi bảo:
-
Những điều ông nói đều đúng, riêng việc này ta cần suy nghĩ lại. Và có một điều
ta cấm ông không được gọi ta bằng hai tiếng "Chúa công"!
Hữu
Chỉnh đáp:
-
Hai tiếng Chúa công tôi vô tình thốt ra bằng lòng kính phục. Bởi chí Hoàng thượng
không bằng chí của tướng quân, xin tướng quân tha tội. Tự hậu không còn dám hồ
đồ như thế nữa.
Nói
rồi Nguyễn Hữu Chỉnh cáo lui.
Nguyễn
Hữu Chỉnh về rồi, Nguyễn Huệ cứ đi đi lại lại trong phòng, hết ngồi lại đứng,
không ngớt thở dài, suốt đêm chẳng tài nào ngủ được.
Hôm
sau Huệ đem theo vài người hậu cận ra khỏi thành đến cầu Trường Tiền bắc ngang
sông Hương ngắm dòng nước chảy suy nghĩ đăm chiêu. Trên mặt sông phẳng lặng vài
chiếc thuyền con chở than đi bán nhẹ nhàng lướt sóng. Bỗng trong những chiếc
thuyền ấy cất lên giọng ca trong trẻo rằng:
Vả
bấy lâu thần nịnh Chúa hôn, gương bình trị lòng trời ắt muốn!
Sao
gặp hội binh kiêu dân oán, sửa kỷ cương tài cả chẳng ra?
Huệ
giật mình bảo quân:
-
Hãy mau gọi những chiếc thuyền ấy lại cho ta!
Quân
chưa kịp gọi thì những chiếc thuyền ấy đã qua khỏi khúc quanh mất hút.
Nguyễn
Huệ liền vội vã về dinh gọi đô đốc Nguyễn Văn Tuyết lên một chiếc thuyền lớn cứ
ngược dòng Sông Hương mà đi. Gặp chiếc thuyền bán than nào Huệ cũng gọi lại hỏi
rằng:
-
Xin cho hỏi các ngươi có biết kẻ bán than nào lúc sáng ca rằng: "Vả bấy
lâu thần nịnh Chúa hôn, gương bình trị lòng trời ắt muốn!
Sao
gặp hội binh kiêu dân oán, sửa kỷ cương tài cả chẳng ra?" hay chăng?
Những
người bán than đều lắc đầu bảo: "Không biết!". Đến chiều tối người ca
hai câu phú ấy vẫn bặt tăm. Huệ thất vọng ra về. Các tướng nghe Huệ gặp điều buồn
bực liền đến vấn an. Vừa trông thấy Huệ, Trần Quang Diệu giật mình hỏi:
-
Mới không gặp một ngày sao Long Nhương mặt mày hốc hác, thần sắc xanh xao như
thế?
Huệ
đáp:
-
Ta có việc lo buồn suốt đêm trằn trọc thành ra như vậy.
-
Long Nhương có thể cho chúng tôi biết được hay chăng.
-
Việc này các ngươi không thể hiểu được đâu.
Nguyễn
Văn Tuyết vểnh râu xen vào hỏi:
-
Có phải vì tìm không gặp tên nho sinh ca ban sáng mà Long Nhương buồn bực hay
chăng. Để tôi ở tìm bắt nó về cho Long Nhương trị tội.
Huệ
gạt đi bảo:
-
Văn Tuyết chớ nói càn. Việc ta lo buồn không phải do người ca ấy. Ta muốn tìm
người ca ấy, hoạ may người này có thể giải được nỗi lo của ta!
Trần
Quang Diệu bàn rằng:
-
Người ca hai câu phú ấy ắt không phải là kẻ tầm thường, chí muốn giúp đời không
phải người ở ẩn. Ta không biết kẻ sĩ ở đâu để dùng lễ cầu hiền. Cao nhân ai lại
nhận mình là cao nhân. Dù nhận để giúp đời tránh sao khỏi thế thái hiểu lầm là
tham danh hám lợi. Theo tôi người này nhất định ở trong đoàn thuyền bán than ấy
nhưng vì tự trọng nên không thể nhận mình là người ca câu phú ấy mà thôi.
Huệ
hỏi:
-
Ta không biết chỗ ở để cầu. Hiền sĩ vì sĩ mà không thể đến. Vậy phải làm sao?
Diệu
hiến kế:
-
Những người bán than đều ở thượng lưu cầu Trường Tiền. Nay Long Nhương cứ đem một
chiếc thuyền chặn ở cầu Trường Tiền rồi cứ làm như vậy... như vậy... người ấy tất
phải ra.
Nguyễn
Huệ khen rằng:
- Ấy
thật là diệu kế.
Nguyễn
Huệ thân hành đem vài chiếc thuyền đến cầu Trường Tiền, sai Trần Quang Diệu đón
phường bán than ở thượng lưu xuống, nói:
-
Ta sẽ ra đầu đề, nếu trong các ngươi có ai làm được một bài thơ phú thì ta sẽ
cho qua cầu bán than bằng không thì phải quay về.
Phường
bán than năn nỉ rằng:
-
Chúng tôi nghèo hèn ít học chỉ biết chèo thuyền bán than, không biết làm thơ
phú. Nếu tướng quân không cho qua chắc phải chết đói.
Trần
Quang Diệu nhất định bảo quân chặn lại không cho đi. Đến chiều cũng chẳng có ai
chịu làm thơ phú cả. Nguyễn Văn Tuyết bực dọc nói lớn rằng:
-
Thu phục võ tướng thì dễ, cầu kẻ sĩ sao mà khó thế?
Lúc
ấy có một chiếc thuyền bán than cũng vừa chèo đến. Người mới đến thân mình đen
đủi bụi than, nhưng đôi mắt sáng quắc, toát lên vẻ ung dung tự tại. Người ấy
nói với Trần Quang Diệu rằng:
-
Tôi dốt nát nhưng trong nhà đã hết gạo nên đánh liều múa rìu qua mắt thợ. Nếu
không hay xin tướng quân tha tội.
Trần
Quang Diệu mừng thầm nhưng vờ nạt:
-
Phải đọc thơ phú bằng tiếng Nam ta, không đọc bằng tiếng Hán. Đọc hay cho qua,
đọc dở đuổi về.
Người
ấy nói:
-
Xin tướng quân ra đề.
Nguyễn
Huệ xen vào ôn tồn bảo:
-
Ai cũng muốn qua cầu bán than. Vậy ra đầu đề là qua cầu bán than.
Người
ấy ứng khẩu đọc ngay một bài thơ Nôm rằng:
"Thương
người lạnh, ta bán than.
Lòng
nhân đã mỏi, con mang cho đầy.
Neo
thuyền đậu dưới cầu này.
Nhân
tình thế thái đổ đầy hai vai.
Thuyền
ta xuôi ngược sông dài.
Đời
như dòng nước chảy hoài ngàn năm!
Nhen
khó cháy chẳng mua lầm.
Lửa
lòng nguội tắt lạnh căm đó mà.
Than
hầm chẳng phải than hoa.
Dẫu
cùng nhơ nhớp như gà tranh ăn!
Hồn
tương tư, cánh chim Bằng.
Trời
cao đổi gió, ngậm trăng no sầu.
Than
đen vẽ sóng bạc đầu.
Thì
thôi lỡ nhịp qua cầu mà chi?
Đời
như nước gánh về đi.
Cầm
bằng ném ngọc lưu ly đáy hồ!
…
Người
ấy đọc xong, Nguyễn Huệ tấm tắc khen:
-
Hay! Quả nhiên là xuất khẩu thành thơ. Chẳng phải anh hùng thì không thể làm được
bài thơ này. Oán thán thay! Mà hùng tráng thay! Giọng điệu này ắt hẳn phải là kẻ
anh hùng lỡ vận.
Nói
rồi Nguyễn Huệ liền mời người ấy lên thuyền hỏi:
-
Chẳng hay tiên sinh cao danh là gì. Quê quán ở đâu?
Người
ấy đáp:
-
Tôi tên Trần Văn Kỷ.
Nguyễn
Huệ mừng quá ngắt lời Trần Văn Kỷ rằng:
-
Lúc lâm chung thầy tôi có dặn, ngày sau tiến quân đến Phú Xuân phải mời cho được
Trần tiên sinh ra giúp rập. Tôi nghe lời ấy nên vừa đến đã sai quân đến làng
Văn Trình tìm kiếm, nhưng tiên sinh đã dời nhà đi, hỏi thăm không ai biết. Nay
được diện kiến dung nhan thật là duyên hạnh ngộ.
Văn
Kỷ hợi:
-
Thầy của tướng quân có phải là quân sư Trương Văn Hiến chăng?.
-
Trương Văn Hiến chính là thầy tôi đó.
Văn
Kỷ nói:
-
Tôi đối với Trương tiên sinh là hàng hậu bối. Lúc Trương tiên sinh còn ở Phú
Xuân vẫn thường cùng tôi luận bàn thế sự, khinh Chúa tôi nhà Nguyễn mà chẳng ra
ứng thi. Nay nghe Trương tiên sinh mất sớm thật thương tiếc vô cùng. Còn phần
tôi về sau họ Trịnh vào chiếm Phú Xuân, tôi ra thi đỗ Giải Nguyên. Nhưng sau thấy
Chúa Trịnh ở ngoài chẳng khác nào Chúa Nguyễn ở trong, lại thêm trấn thủ Phạm
Ngô Cầu ngu si, tàn ác, tham lam nên tôi từ quan lui về ở ẩn. Lòng vẫn hằng
mong được gặp minh quân đem chút tài hèn ra giúp dân giúp nước.
Huệ
hỏi Văn Kỷ:
-
Có phải hôm trước tiên sinh ca hai câu phú rằng: "Vả bấy lâu thần nịnh
Chúa hôn, gương bình trị lòng trời ắt muốn!
Sao
gặp hội binh kiêu dân oán, sửa kỷ cương tài cả chẳng ra?" đó chăng?
Văn
Kỷ nói phải. Huệ lại hỏi:
-
Tiên sinh ca hai câu phú ấy là có ý gì?
Văn
Kỷ ngạc nhiên hỏi lại Huệ rằng:
-
Thế chẳng phải tướng quân sắp sửa đem quân Bắc tiến mượn tiếng phò Lê diệt Trịnh
thống nhất sơn hà đó sao, mà còn hỏi tôi những lời ấy?
Huệ
giật mình đáp:
-
Đúng là tôi sẽ đem quân Bắc tiến... Nhưng không được. Phải! Phải thống nhất sơn
hà. Nhưng e rằng không được!
Trần
Văn Kỷ cười lớn rằng:
-
Tướng quân ngôn ngữ bất nhất tất tâm thần bất định. Tướng quân ở trong tình thế
phải chọn một trong hai.
Huệ
hỏi:
-
Thế nào là chọn một trong hai?
Văn
Kỷ đáp:
-
Nếu chọn nước chọn dân, phải phụ anh, phụ Chúa. Hoặc ngược lại. Ấy là chọn một
trong hai vậy.
Huệ
kinh ngạc nói:
-
Sinh tôi là cha mẹ, hiểu tôi có hai người, xưa là Trương quân sư thầy tôi, nay
là Trần tiên sinh vậy! Đó chính là điều mà mấy hôm nay tôi mất ăn mất ngủ. Theo
tiên sinh nếu tôi kéo quân ra Bắc diệt Trịnh phò Lê thống nhất sơn hà, Hoàng
huynh tôi không thể bỏ qua tội kháng lệnh cho tôi sao?
Văn
Kỷ đáp:
-
Kháng lệnh là cái cớ, không phải tội của tướng quân.
Huệ
hỏi:
-
Vậy thế nào là tội?
Văn
Kỷ đáp:
-
Tội tướng quân là tài cao chí lớn hơn vua.
Huệ
lại hỏi;
-
Dám hỏi sao tiên sinh lại nghĩ rằng chí Hoàng huynh không lớn?
Trần
Văn Kỷ cười lớn một hồi, rồi đáp:
-
Người đời sau bình luận về thời Hán - Sở tranh hùng rằng: Lưu Bang không có tài
trị nước bằng Tiêu Hà, không có tài quân sự bằng Hàn Tín, không có tài chính trị
bằng Trương Lương, vậy tại sao ba người này đều thần phục Lưu Bang? Bởi Tiêu Hà
chỉ lập chí làm thừa tướng, Hàn Tín chỉ lập chí làm nguyên soái, Trương Lương chỉ
lập chí báo thù cho nước Hàn không có ai lập chí làm vua như Lưu Bang cả. Ấy là
chuyện xưa ở nước Tàu. Còn chuyện nước ta ngày nay chí thống nhất sơn hà là chí
lớn, chí làm vua lại là chí nhỏ. Năm ấy Thái Đức Hoàng thượng lên ngôi là chỉ
nghĩ đến việc lấy đất họ Nguyễn ở Đàng Trong mà lập riêng một nước. Nếu nghĩ đến
việc thống nhất sơn hà ắt biết có ngày phải diệt Trịnh phò Lê thì không được
lên ngôi vua mới là thượng sách. Xem thế mới biết chí của Thái Đức Hoàng thượng
là chí nhỏ vậy.
Nguyễn
Huệ trầm ngâm nói:
-
Trần tiên sinh lập luận rất sâu sắc, thật có mắt tinh đời. Nay nếu ta muốn thống
nhất sơn hà phải đem quân Bắc tiến. Vậy đối với Hoàng huynh ta nên thế nào?
Văn
Kỷ đáp:
-
Tướng quân ra Bắc lần này phải mượn tiếng phò Lê diệt Trịnh. Diệt Trịnh xong
thì phải kéo quân về, trả nước cho vua Lê, vì nước của tướng quân là nước của
vua Thái Đức ở Đàng Trong. Khi tướng quân kéo quân về, Hoàng thượng sẽ mượn cớ
kháng lệnh mà bắt tội, ít nhất cũng tước hết binh quyền của tướng quân. Vậy muốn
thống nhất sơn hà, tướng quân chỉ còn một cách là bất tuân thành chỉ, ở lại Phú
Xuân không được về Quy Nhơn phục mệnh.
Huệ
buồn rầu hỏi:
-
Vậy là ta phải mang tiếng phản Chúa phụ anh.
Trần
Văn Kỷ đáp:
-
Nếu bây giờ tướng quân sợ tội kháng lệnh, thay vì kéo quân ra Bắc lại quay về
Quy Nhơn thì chẳng bao giờ còn có cơ hội thống nhất sơn hà, định yên xã tắc, dựng
đời thịnh trị. Đó là ý của tôi, tuỳ tướng quân quyết định.
Nguyễn
Huệ ứa nước mắt nói:
-
Nếu về Quy Nhơn thì xót thương lê dân ở Bắc Hà, đem quân Bắc tiến thì mắc tội với
anh. Anh ta thay cha nuôi dạy ta từ nhỏ, nay phải phụ anh lòng ta sao nỡ.
Trần
Văn Kỷ vòng tay nói:
-
Dù không đem quân ra Bắc cũng xin tướng quân hãy vì dân trong nước vua Thái Đức.
Tôi xin phép cáo từ.
Nguyễn
Huệ ngạc nhiên hỏi:
-
Mới gặp nhau chưa thoả lòng cầu hiền, sao tiên sinh định bỏ tôi mà đi.
Trần
Văn Kỷ đáp:
-
Tướng quân kéo binh về Quy Nhơn thì những điều tôi vừa nói với tướng quân nếu
Hoàng thượng nghe được ắt cái đầu tôi không còn trên cổ. Nên tôi xin được về
cùng non nước, đi trong gió mây mà tránh tai hoạ vậy.
Huệ
nắm tay Văn Kỷ nói:
-
Xin tiên sinh chớ vội. Tôi đã quyết định rồi, sẽ đem quân Bắc tiến.
Hôm
sau Nguyễn Huệ họp các tướng nói:
-
Nay ta định đem quân Bắc tiến, mượn tiếng phò Lê cứu dân lành thoát tay họ Trịnh
bạo tàn. Nhưng ngặt nỗi nếu về Quy Nhơn xin lệnh và lương thực của Hoàng huynh
e Hoàng huynh không cho đi. Nếu không đủ lương thực sao đánh được Bắc Hà. Các
tướng có kế gì chăng?
Nguyễn
Văn Lộc hỏi:
-
Thành Phú Xuân ta vừa chiếm được lương thực dồi dào, sao Long Nhương lại bảo là
không có lương?
Huệ
buồn rầu đáp:
-
Chúa tôi họ Trịnh hà khắc để lương dân đói rách lầm than. Mấy năm gần đây thêm
thiên tai hạn hán mất mùa dân tình càng thêm điêu đứng. Nay ta vừa lấy đất Thuận
Hoá, liền mở kho lương phát cho dân nghèo, nên hiện nay lương thực ở thành Phú
Xuân chỉ đủ để dự trữ cho dân đến mùa thu hoạch không thể dùng vào việc quân. Ấy
là nỗi lo của ta.
Nghe
Nguyễn Huệ nói định đánh Bắc Hà, Nguyễn Hữu Chỉnh mừng lắm liền rút từ tay áo
ra một tấm bản đồ. Giở bản đồ trên bàn, Hữu Chỉnh nói:
-
Đây là bản đồ đất Bắc, nếu ta đem thuỷ quân vào cửa Ba Lạt theo sông Nhị Hà
đánh lấy Vị Hoàng thì có thể giải quyết việc quân lương.
Huệ
hỏi:
-
Tại sao đánh lấy Vị Hoàng thì có thể giải quyết việc quân lương?
Chỉnh
đáp:
-
Vì ở Vị Hoàng có một kho lương thực. Kho này chứa thóc của các trấn Thuận Hoá,
Nghệ An, Thanh Hoá cả trăm vạn hộc. Nhưng nếu ta đem thuỷ quân đánh lấy Vị
Hoàng là đơn độc vào sâu trong đất địch e rằng mạo hiểm.
Nguyễn
Huệ mừng rỡ nói:
-
Có quân lương ta chẳng lo gì nữa. Còn việc đánh lấy Vị Hoàng có gì là mạo hiểm.
Hữu
Chỉnh hỏi:
-
Từ sông Linh Giang trở ra phải qua hai thành Nghệ An, Thanh Hoá, đường xa hàng
mấy trăm dặm mới đến Vị Hoàng. Nếu Bùi Thế Toại ở Nghệ An chặn được bộ binh ta
rồi quân ở Thanh Hoá do Tạ Danh Thuỳ tiến ra và quân ở Thăng Long tiến vào đánh
quân ta ở Vị Hoàng, thì lúc ấy ta lưỡng đầu thọ địch sao bảo là không mạo hiểm.
Huệ
cười bảo:
-
Quân ở Nghệ An thiên binh thiên tướng gì mà có thể ngăn được bộ binh ta. Còn việc
vào sâu đất địch ư? Ta bốn lần vào Gia Định, từ ải Vân Phong phải qua Bình Thuận,
Trấn Biên, Sài Côn, Phiên Trấn mới đến Trường Đồn đường xa hàng ngàn dặm đều từ
trong lòng địch. Vậy mà ta vẫn sai tướng trước đem thuỷ quân đánh lấy Trường Đồn
chặn đường lui quân của giặc. Nay đánh lấy Vị Hoàng ở Bắc Hà, so với việc đánh
lấy Trường Đồn ở Nam Hà ngày xưa có đáng gì mà bảo là mạo hiểm. Việc này ông Chỉnh
chớ lo. Nay ta phong Hữu Chỉnh chức Hữu quân tiên phong đem tám ngàn quân và
tám chục đại thuyền tiến đánh Vị Hoàng, chiếm kho lương. Ta sẽ cho Đô đốc Nguyễn
Văn Lộc và Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết là hai tướng giỏi thuỷ binh của ta theo trợ
giúp. Ba người hãy cùng nhau bàn bạc việc quân, nếu gặp giặc cứ để Tuyết, Lộc
đi đầu không ngại gì cả.
Rồi
quay sang Nguyễn Văn Lộc, Huệ hỏi:
-
Từ Phú Xuân đến Vị Hoàng phải hết mấy ngày đường?
Lộc
đáp:
-
Nay đang là tháng năm, gió Đông Nam thổi mạnh, đi đến nơi nhiều nhất là năm
ngày đường.
Huệ
liền bảo:
-
Ta cho đạo quân của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc năm ngày
lương. Đến nơi đánh thắng giặc lấy lương mà ăn.
Hữu
Chỉnh thất kinh hỏi:
-
Việc quân thắng bại là thường. Nay Long Nhương chỉ cấp lương đủ dùng trên đường
đi, ngộ nhỡ không thắng giặc là Long Nhương đem chúng tôi và chỗ chết hay sao?
Nguyễn
Huệ lại cười bảo:
-
Quân dưới quyền của ta trải qua hàng trăm trận đánh Nam dẹp Bắc chỉ có thắng chẳng
biết thua. Vả lại Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc đều là tâm phúc của ta. Ta
lại đem tâm phúc của ta vào chỗ chết hay sao mà ông phỏng ngại. Nếu Hữu Chỉnh
không đi thì Tuyết và Lộc lập tức xuất quân.
Nguyễn
Hữu Chỉnh vội vàng nói:
-
Quân ta thiện chiến tiến binh thần tốc như vậy tôi còn ngại gì mà chẳng đi.
Nguyễn
Huệ gọi Trần Quang Diệu bảo:
-
Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân hãy lãnh năm ngàn tinh binh theo đường thượng đạo
đánh lấy Nghệ An.
Trần
Văn Kỷ hỏi:
-
Quân của Ninh Tốn ở Cát Doanh và Phái vị hầu ở Động Hải đã rút về hợp cùng Bùi
Thế Toại trấn thủ Nghệ An. Quân Trịnh ở Nghệ An hai vạn người, tướng quân Trần
Quang Diệu chỉ có năm ngàn quân làm sao thắng giặc?
Nguyễn
Huệ cười đáp:
-
Trần tiên sinh chưa biết đó thôi. Nguyên Trần Quang Diệu đã từng tay không đánh
cọp giữa rừng mở đường Thượng đạo. Quân ta hạ thành Phú Xuân trong một đêm
chính là nhờ Trần Quang Diệu theo đường Thượng đạo từ hướng Tây đánh xuống. Từ ấy
trong quân thường gọi Diệu là Thượng đạo tướng quân Trần Quang Diệu đó.
Nói
xong Nguyễn Huệ lại gọi Nguyễn Lữ bảo:
-
Tiết chế Nguyễn Lữ! Em lãnh ba ngàn quân ở lại giữ thành Phú Xuân. Tứ sư đệ tướng
quân hợp cùng Vũ Văn Nhậm, Vũ Văn Dũng, Võ Đình Tú đang đóng giữ luỹ Trường Dục
đem quân Bắc tiến. Các tướng hãy lãnh lấy lệnh bài!
Nguyễn
Lữ, Nguyễn Hữu Chỉnh, Trần Quang Diệu đều bước ra lãnh lệnh. Nguyễn Văn Tuyết vểnh
râu hỏi:
-
Bọn võ tướng chúng tôi đều lãnh lệnh cầm gươm lên ngựa ra trước trận tiền. Vậy
còn Trần tiên sinh sẽ làm gì?
Trần
Văn Kỷ cười đáp:
-
Đâu phải chỉ biết cầm gươm mới là đánh giặc. Ngày xưa vua Lê Thái Tổ khởi binh
đánh giặc Minh xâm lược, Ức trai Nguyễn Trãi dùng một ngòi bút mà thắng Vương
Thông ở thành Thăng Long, đuổi giặc Minh ra ngoài bờ cõi, rồi Nguyễn Trãi lại
dùng văn tài của mình cứu đất nước khỏi nạn binh đao do quân Minh định kế trả
thù, ấy chẳng phải chiến công của người cầm bút hay sao?
Nguyễn
Văn Tuyết lại hỏi:
-
Việc này tôi có biết. Còn Trần tiên sinh đã cầm bút đánh giặc được hay chưa?
Trần
Văn Kỷ lấy từ trong ngực ra một tờ thư trao cho Nguyễn Huệ, Kỷ nói:
-
Đây là tờ hịch phò Lê diệt Trịnh tôi đã sao xong, trình tướng quân duyệt lãm!
Nguyễn
Huệ tiếp tờ hịch xem, đến một đoạn Huệ thích thú đọc lớn lên rằng:
Vả
bấy lâu thần nịnh Chúa hôn, gương bình trị lòng trời ắt muốn!
Sao
gặp hội binh kiêu dân oán, sửa kỷ cương tài cả chẳng ra?
Hai
câu phú này là tiên sinh đã ca trên dòng sông Hương đây mà.
Trần
Văn Kỷ nói:
-
Thưa phải.
Nguyễn
Huệ lại đọc tiếp rằng:
"Chước
vạn toàn đã tạc đá Hoành Sơn.
Bình
tức khắc lại giương buồm Bắc Hải.
Sang
sông Mạnh phất cờ Chu Vũ, ra tay sửa chính dẹp tà.
Vào
đất Quan hét ngựa Hán Hoàng, quyết chí lấy nhân trừ bạo.
Truyền
lệnh ta các tướng đánh đến đâu phải truyền hịch này cho muôn dân đến đó.
Nguyễn
Huệ lại gọi quân vào trao thư và dặn:
-
Ngươi mau đem thư của ta về Quy Nhơn trao cho Hoàng thượng hay, ta đem
quân Bắc tiến.
Nói
rồi Nguyễn Huệ xăm xăm bước ra ngoài chính điện. Các tướng lấy làm lạ liền vội
vã bắt đầu theo. Ra ngoài Nguyễn Huệ quay mặt về hướng thành Quy Nhơn lạy ba lạy
nhủ thầm rằng: Nếu Hoàng huynh có bắt tội, nếu em Huệ này phụ lòng Hoàng huynh
cũng bởi vì quốc gia dân tộc phải làm điều bất đắc dĩ mà thôi!
Lạy
rồi Huệ đứng lên rưng rưng hai giọt lệ bảo các tướng rằng:
-
Các tướng ai lo việc nấy. Truyền lệnh ta lập tức xuất binh!
xem tiếp: * Chương 37: Giận lời khích tướng, Ngô Văn Sở bắt tướng. - Lầm kế bất trung, Lý Trần Quán chết trung.
xem tiếp: * Chương 37: Giận lời khích tướng, Ngô Văn Sở bắt tướng. - Lầm kế bất trung, Lý Trần Quán chết trung.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...