Người ta có thể học được
nhiều việc bằng cách thử giải quyết những vấn đề khó khăn. Sự giải quyết nhiều
vấn đề lý thú căn cứ trên một nguyên tắc quan trọng là sự lý luận hay suy gẫm.
Vấn đề quan trọng nhứt
trong mọi vấn đề bí hiểm của cuộc đời là sự bí mật về con người. Con người là
ai? Y từ đâu đến và sẽ đi về đâu? Để giải đáp vấn đề này, chúng ta có thể áp dụng
một phương pháp khoa học giản dị như sau: Chúng ta đưa cho một người kia sáu
cái diêm quẹt và bảo y hãy sắp thành bốn hình tam giác đều cạnh với nhau
(triangles équilatéraux.) Người ấy lần mò sắp đặt các diêm quẹt một hồi lâu...
Sau cùng y đành chịu thua và bỏ cuộc vì không
sao sắp được. Bài toán đố bí hiểm này chỉ có thể giải quyết được nếu người ấy bỏ
cái ý nghĩ sắp các diêm quẹt theo hai chiều đo (chiều dài và ngang) trên một mặt
bàn bằng phẳng, mà hãy thêm vào một chiều đo thứ ba (3ème dimension), tức là
chiều sâu, và sắp thành một khối Kim Tự Tháp (Pyramide).
Vấn đề bí hiểm của đời người
đại khái cũng giống như cái trò chơi kể trên. Chúng ta chỉ cần thêm vào một bề
đo thứ ba, tức là yếu tố thời gian, và chúng ta sẽ có thể hiểu được nguồn gốc
và tương lai của con người.
Người ta thường cho rằng đời
người chỉ là cái kiếp sống của thể xác, kể từ khi bắt đầu sinh ra cho đến khi
chết là hết. Nhưng nếu người ta có thể chứng minh một cách khoa học rằng con
người không phải là cái thể xác vật chất, mà cũng là một linh hồn; linh hồn ấy
đã từng sống trước khi y sinh ra và sẽ tiếp tục tồn tại sau khi y chết, thì sự
khám phá đó sẽ làm đảo lộn tất cả khoa tâm lý học hiện nay. Điều đó chẳng khác
nào như một cái ống thăm dò mà người ta cắm xuống tận những lớp sâu trong lòng
Trái Đất để tìm mỏ dầu. Khoa Tâm Lý Học hiện đại ví như một cái lỗ sâu có năm
phân để trồng một củ hành, so với một cái giếng dầu lửa bề sâu ba ngàn thước tượng
trưng cho bề đo vừa nói trên.
Trong thời gian gần đây,
các nhà tâm lý học đã nghiên cứu tỉ mỉ về cá tính của con người, và nhờ sự
nghiên cứu công phu đó, người ta đã có nhiều sự áp dụng thực tế vào các vấn đề
lao động, hướng nghiệp, công tác xã hội... Tuy thế những sự phát minh đó cũng
chỉ biết một cách rất nông cạn về con người.
Nếu người ta áp dụng thuyết
Luân Hồi, thì đó là một ngọn đèn pha sáng rực soi vào những hang ngách tối tăm,
sâu thẳm của vấn đề bí hiểm này. Nhờ đó, người ta có thể nhận thấy rõ bằng cách
nào được cấu tạo nên những tánh tình, cử chỉ, thái độ, đức tánh, vận mạng cùng
thân thế hiện nay của một người.
Chúng ta có thể dùng một
thí dụ khác: đời người có thể ví như một khối nước đá ngâm dưới nước; chín phần
chìm xuống nước chỉ có một phần nổi lên trên. Thuyết Luân Hồi tiết lộ cho ta thấy
chín phần khối nước đá chìm dưới mặt nước, còn khoa tâm lý học hiện nay chỉ
nghiên cứu một cách vất vả mệt nhọc về một phần nhỏ bé nổi lên trên, mà ta có
thể nhìn thấy!
Những tập hồ sơ của Cayce
còn đưa ra nhiều thí dụ về bề đo "Thời gian" kể trên, và về cách mà
nó giải thích cá tính hiện nay của một người. Trong một cuộc soi kiếp, ông
Cayce có nói về một người lính Gaulois bị tướng La Mã Annibal bắt làm tù binh
và bắt làm nô lệ chèo thuyền ở giữa biển. Người tù binh này bị các tướng da đen
ngược đãi và sau cùng, y bị một tên da đen đánh chết. Việc này xảy ra đã từ ba
kiếp về trước, nhưng lòng căm thù uất hận về hành động tàn ác này đã ăn sâu vào
tiềm thức của y trải qua 22 thế kỷ. Trong kiếp này, y làm nghề nông nghiệp và
trồng tỉa ở tiểu bang Alabama, Hoa Kỳ.
Suốt cả đời, y luôn luôn
có một lòng thù ghét sâu đậm đối với dân da đen; thậm chí, y lập nên một Hội bảo
vệ chủ quyền của người da trắng. Đó là một thí dụ điển hình về việc người ta giữ
nguyên vẹn cá tính từ kiếp này sang kiếp khác. Người ta có thể tìm thấy rất nhiều
trường hợp như thế trong các tập hồ sơ Cayce.
Một nhà viết báo biểu lộ
trong nhiều năm một tinh thần chống Do Thái rất mãnh liệt. Cuộc soi kiếp cho biết
rằng thái độ ấy được truy nguyên ra từ một kiếp trước ở xứ Palestine, trong kiếp
đó, y thuộc về giáo phái Samaritains, phái này thường có những cuộc xung đột dữ
dội với người Do Thái ở nước láng giềng.
Một người đàn bà 38 tuổi, độc thân, đã có nhiều
mối tình duyên trong đời, nhưng không chịu kết hôn với một người nào vì bà ta
có một lòng nghi kỵ rất thâm sâu đối với đàn ông. Sự dè dặt và nghi kỵ này
do bởi ở một kiếp trước bà ta đã từng đau khổ vì bị chồng bỏ để đi tùng chinh
trong trận Thánh Chiến.
Một người phụ nữ nọ có một
tinh thần tôn giáo rất rộng rãi khoan dung, được biết rằng cô có đức tính này
là nhờ bởi kiếp trước có tham dự cuộc Thánh Chiến, và đã từng sống chung với người Hồi
Giáo. Trong khi tiếp xúc với những người thuộc một tôn giáo khác hẳn, lần đầu
tiên cô đã nhận thức được rằng những người "Ngoại đạo" cũng biểu lộ
những đức tính tốt như can đảm, nhân từ, khoan hậu, và lòng sùng tín thiêng
liêng. Điều này đem đến cho cô một ấn tượng mạnh mẻ sâu xa đến nỗi nó đã làm
cho cô có một ý thức rõ rệt và bền bỉ về đức tính khoan dung đối với người thuộc
tôn giáo khác hơn mình.
Trái lại, một nhà chuyên
môn quảng cáo nọ có óc hoài nghi và không có tín ngưỡng tôn giáo, kiếp trước
cũng là một chiến sĩ trong trận Thánh Chiến. Nhưng y cảm thấy có sự khác biệt
giữa sự Thuyết Giáo và Hành Đạo trong số những người mà y đã gặp, đến nỗi trong
kiếp này y vẫn còn giữ một sự nghi ngờ rất lớn đối với những sự biểu lộ tôn
giáo về hình thức bên ngoài.
Những thí dụ kể trên gồm
ba thái độ khác nhau: Thái độ về vấn đề chủng tộc, đối với người khác phái và đối với vấn đề tôn giáo, mà nguyên
nhân là do bởi ở một kiếp trước. Lẽ tự nhiên trong mỗi trường hợp, đương sự phải
gặp những hoàn cảnh địa phương thuận tiện để gây cho y sự phản ứng về các vấn đề
đó. Người căm thù dân da đen sinh ra ở miền Nam Hoa Kỳ năm 1853 là thời kỳ mà
những phong tục và truyền thống ở xứ này là những hoàn cảnh thuận tiện để gây
cho y cái ý niệm kỳ thị chủng tộc da đen.
Vấn đề ảnh hưởng của hoàn
cảnh địa phương cũng được nêu ra trong những trường hợp khác như đã kể trên, hoặc
trong nhiều trường hợp tương tự. Sự kiện rằng có nhiều người cũng ở vào những
hoàn cảnh địa phương giống như nhau, nhưng lại có sự phản ứng khác hẳn, dường như
chỉ rằng sự phản ứng đó có một nguyên nhân sâu xa hơn là do những hoàn cảnh
sinh hoạt ở kiếp này.
Các nhà chữa bịnh tâm thần
đều đồng thanh cho rằng những thái độ tinh thần của con người vốn từ trong tiềm
thức biểu lộ ra ngoài. Nguyên tắc Luân Hồi chỉ nới rộng lĩnh vực tìm thức để gồm
luôn cả những kinh nghiệm của những kiếp trước. Cũng như trong những trường hợp
bệnh tật của xác thể, người ta đã truy nguyên lý do của mỗi chứng bịnh ở những
kiếp trước là do bởi yếu tố thời gian. Đó là nói về những thái độ cử chỉ của
con người đối với một vài vấn đề nhất định. Những thái độ đó, cũng như những
khuynh hướng, đố kỵ, ưa thích ... đều gồm lại làm thành phần cá tính của một
người. Những bản năng tự tồn, bản năng sinh sản ... đều hỗn hợp một cách chặt
chẽ với tất cả những điều ham muốn khác của đời sống con người. Tuy nhiên,
ngoài ra những sự nhu cầu căn bản chung của nhân loại, còn có những điều thích
thú say mê và hứng khởi đặc biệt, biểu lộ một cách khác biệt nhau rất xa ở một
số người. Thí dụ:
Trong một gia đình có năm
người con, một đứa thích âm nhạc, một đứa thích máy móc, một đứa thiên về hội
hoạ, một đứa thích sưu tầm các loài bướm; đứa sau cùng chơi bời du đãng và phá
phách làng xóm.
Sự giải thích thông thường
của khoa học tâm lý về sự khác biệt giữa những khả năng và tính chất kể trên: Một
là do sự di truyền và hai là do những yếu tố tâm lý phân giải (psychanalyse)
tùy thuộc nơi vị trí của một người trong gia đình và những kinh nghiệm riêng mà
y thâu nhập được.
Những tập hồ sơ của Cayce
chứa đựng những thí dụ dưới đây về những khuynh hướng đặc biệt của một số người,
được truy nguyên ra từ nhiều kiếp trước.
Một vị nha y sinh trưởng ở
thành phố New York, mặc dầu rất hài lòng về chức nghiệp và đời sống ở thành thị, nhưng thỉnh
thoảng lại thấy muốn sống ở ngoài đồng ruộng hoặc trên bờ sông với một khẩu súng
đi săn và một cần câu; và cắm trại một mình với một chiếc lều dựng lên giữa bãi
sa mạc. Sự thích thú sống gần với thiên nhiên này vốn không phù hợp với tâm
tính của một người quen sống ở thị thành, nhứt là gia đình của y đã từng sống ở
thành thị trải qua nhiều thế kỷ. Điều này chỉ có thể giải thích được bằng thuyết
Luân Hồi. Cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng trong một tiền kiếp, y là một
người Đan Mạch di cư sang Bắc Mỹ trong thời kỳ khai thác thuộc địa. Y sống ở
New Jersey, trong một vùng có nhiều đầm đìa, hồ ao, sông rạch; y sống với nghề
săn bắt, gài bẫy thú rừng, và buôn bán các loại thú. Cuộc đời hoạt động chốn bụi
rừng, đầm lạch, sông ngòi, đã đem cho y một sự thích thú đặc biệt vẫn còn tồn tại
đến ngày nay, tuy rằng điều ấy còn phải lệ thuộc vào đời sống hành nghề nha sĩ
của y trong kiếp này.
Có nhiều người cảm thấy
yêu mến nồng nàn một xứ hay một vùng địa phương xa lạ. Những cuộc soi kiếp truy
nguyên ra sự hấp dẫn này ở một kiếp trước của đương sự, trong kiếp đó y đã từng
trải qua một thời kỳ sung sướng và hạnh phúc ở xứ ấy. Thí dụ: Một người đàn bà nọ kinh doanh buôn bán lớn ở
vùng bờ biển phía đông xứ Hoa Kỳ, luôn luôn vẫn có ý muốn di cư xuống ở miền
Tây Nam xứ ấy. Sau cùng bà ta di cư thật và hiện nay bà làm chủ một khách sạn lớn
ở tại New Mexico. Cuộc soi kiếp cho biết bà đã từng sống trong hai tiền kiếp ở
vùng này, và lòng trìu mến của bà đối xử ấy vẫn còn tồn tại trong những
thế kỷ trung gian.
Có bốn người kia, một người
cảm thấy yêu mến những vùng hải đảo miền Nam Thái Bình Dương, một người muốn sống
ở tiểu bang New Orleans, một người yêu mến xứ Ấn Độ và một người lại thích ở xứ
Trung Hoa. Những cuộc soi kiếp cho biết rằng trong kiếp trước, họ đã từng sống ở
các xứ ấy, và đó là lý do của sự hấp dẫn nói
trên.
Sự thích thú về một môn
nghệ thuật hay một nghề nghiệp nào cũng là do ở những kinh nghiệm trong các tiền
kiếp. Một thiếu phụ kia yêu thích đến say mê môn khiêu vũ và kịch nghệ Hy Lạp,
được biết rằng đó là do kinh nghiệm trong một kiếp trước của y ở Hy Lạp, trong
thời kỳ những môn nghệ thuật này phát triển đến cực điểm. Sự thích thú của một
thanh niên nọ về hiện tượng thần giao cách cảm được truy nguyên ra từ một kiếp
trước ở châu Atlantide, trong kiếp trước y đã dạy môn tâm lý học và chuyển di
tư tưởng.
Cũng do một kinh nghiệm cũ
về nghề hoa tiêu về giám đốc ngành vận chuyển ở châu Atlantide, mà một thiếu nữ
nọ cảm thấy rất thích thú về môn lái máy bay và môn kỹ thuật hàng không trong
kiếp này. Một người đàn bà nọ ham thích làm việc công
tác xã hội phụng sự các trẻ em tật nguyền khốn khổ, được cho biết rằng kiếp trước
y đã từng sống ở xứ Palestine, tại đây y chịu ảnh hưởng giáo lý của đức Jesus
và bắt đầu hiến dâng cuộc đời để săn sóc cứu chữa những kẻ tàn tật và bịnh hoạn.
Một vị kỹ sư nọ đảm nhiệm một cơ quan nghiên cứu, và đã từng làm việc nhiều năm trong
phong trào phát triển ngành kỹ thuật, kiếp trước vốn là một người Atlante
chuyên coi về ngành Quản trị Khoa học trong xứ ở châu Atlantide.
Sự tái diễn những kinh
nghiệm và khả năng đặc biệt từ những tiền kiếp, dường như càng biểu lộ rõ rệt
trong cuộc đời của những nhân vật tên tuổi. Chúng tôi không căn cứ điều này
trên những cuộc soi kiếp của ông Cayce, mà căn cứ trên tiểu sử của những nhân vật
ấy.
Thí dụ như trường hợp của
ông Heinrich Schliemann, nhà khảo cổ Đức đã khám phá ra những di tích cổ của
thành phố Troie bị chôn vùi dưới mặt đất, và nhờ đó đã xác nhận tánh cách lịch
sử của thiên Anh Hùng Ca "Iliade" của Homère. Ông là con của một vị mục
sư nghèo, giảng đạo tại miền Bắc nước Đức nhưng trong lúc thiếu thời ông đã say
mê "Iliade", ông nhất định học tiếng Hy Lạp và truy tầm nơi diễn tả sự
tích của thiên Anh Hùng Ca bất hủ này.
Trong ba mươi lăm năm, ông
Schiemann cố gắng dành dụm một số tiền để giúp ông thực hiện công trình khảo cổ
này. Ông trở nên một nhà sinh ngữ học ưu tú, nhưng ông lại thích nhất môn sinh
ngữ Hy Lạp và tất cả những gì thuộc về xứ ngàn năm vạn vật này. Về sau, ông
dùng những cách hành văn Hy Lạp trong khi nói chuyện và nhà chép tiểu sử của
ông thuật lại rằng trong dịp làm lễ rửa tội cho con trai ông, ông đặt quyển Anh
Hùng Ca của Homère trên đầu con ông và ngâm vang lên những câu thơ bất hủ trong
đó trước khi giao nó cho vị linh mục làm phép rửa tội! Điều này chỉ là một
trong những cử chỉ lố lăng khác, nó phản ảnh một lòng hâm mộ hâm mộ và say mê nồng
nhiệt nền văn hóa cổ xưa của xứ Hy Lạp. Một sự say mê nồng nhiệt như thế có thể
hiểu được nếu chúng ta thấy rằng đó chỉ là do ký ức của linh hồn muốn nhắc nhở
và sống lại thời kỳ hạnh phúc đã qua trong dĩ vãng.
Một thí dụ khác cũng rất
lý thú là trường hợp của nhà văn Lafcadio Hearn. Ông sinh ra trên một hòn đảo ở
gần Hy Lạp, cha ông là người Ái Nhĩ Lan, mẹ ông là người Hy Lạp. Ông đi phiêu
lưu giang hồ từ Hy Lạp sang Anh quốc, Mỹ quốc, đảo Guadeloupe, Martinique, và
sau cùng ông đã tìm thấy "Quê hương tinh thần" của ông ở xứ Phù Tang
tại đây ông cưới vợ Nhật, đổi tên Nhật, và dạy học ở một trường Nhật. Sự hiểu
biết sâu xa về tâm hồn của người Nhật bổn, tài năng lạ lùng của ông trong sự diễn
đạt cái tinh hoa của nước Nhật cho thế giới Âu Tây và diễn đạt tư tưởng Âu Tây
cho người Nhật, không làm cho ta ngạc nhiên nếu ta thấy rằng đó chỉ là do những
kinh nghiệm cũ của ông ta trong một tiền kiếp ở Nhật Bản.
Trường hợp của ông
T.E.Lawrence là một thí dụ khác nữa. Ông ta rất đặc biệt khôn khéo trong việc
tiếp xúc với người Ả Rập và đã sống chung với họ như một người Ả
Rập. Ông không hề cảm thấy thoải mái dễ chịu ở tại quê hương xứ sở hay trong
gia đình ông ở Anh quốc. Ông chán nản mọi sự học ở nhà trường, trừ ra lớp học lịch
sử cuộc Thánh Chiến (Croisades), và việc nghiên cứu các tòa lâu đài cùng thành lũy thời Trung Cổ.
Sự thành công đặc biệt của
ông trong vai trò tướng soái chỉ huy quân đội Ả Rập có thể hiểu được như là kết
quả của một giai đoạn phiêu lưu ở kiếp trước hồi thời Trung Cổ, trong kiếp đó
chính ông ta là người Ả Rập và là một chiến thuật gia, nhưng không đạt được mục
đích trước khi ông ta từ trần.
Những khuynh hướng đặc biệt
kể trên không phải chỉ có những nhân vật tên tuổi của lịch sử mà thôi; mỗi người
đều có thể nhận thấy ít nhiều khuynh hướng đó ở chính những bạn bè thân quyến của
mình.
Những nét riêng hay đặc điểm
về cá tính, cũng như những thích thú và cử chỉ cùng thái độ đặc biệt của một
người là những yếu tố quan trọng trong việc phân tách tâm lý, và những tập hồ
sơ của Cayce đã nêu ra những trường hợp vô cùng lý thú về sự truy nguyên ra những
kiếp trước.
Bà vợ của một nhà triệu
phú nọ ở miền Tây Hoa Kỳ có một tính chất rất độc tài và chuyên chế. Cuộc soi
kiếp cho biết nguyên nhân là vì bởi kiếp trước, y đã từng làm giáo sư ở tiểu
bang Ohio, và trong những kiếp trước nữa, y đã từng nắm giữ những chức vụ cao ở
Palestine và ở Ấn Độ.
Một thanh niên nọ từ thuở
nhỏ đã tỏ ra có tính rất hay tranh luận đôi co, và có thể lý luận mọi sự một
cách rất hùng hồn và xác đáng. Nguyên nhân là trong một kiếp trước, y đã từng
làm một luật gia và một luật gia và một kiếp trước nữa, y đã làm quan Tòa ở xứ
Ba Tư.
Một người đàn bà nọ có khuynh hướng trầm lặng
và thần bí. Trong kiếp trước, bà ấy đã từng cầm đầu một tu viện kín, vào hồi đầu
thế kỷ mười chín.
Một thanh niên nọ con nhà
giàu có lớn, nhưng lại có tật chè chén say sưa quá độ đến nỗi gây sự thất vọng
và đau khổ cho một gia đình trưởng giả.
Thói say sưa này được truy nguyên ra do sự chơi bời phóng túng trong kiếp trước,
hồi thời kỳ thiên hạ đổ xô nhau đi tìm vàng ở California. Người ta thấy hằng
trăm trường hợp tương tự trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce.
Khoa tâm lý học hiện đại
cho rằng sự khác biệt giữa những người nhân loại được định đoạt trước hết bởi sự
di truyền của cha mẹ và sau đó bởi ảnh hưởng của hoàn cảnh chung quanh. Tuy
nhiên, theo quan niệm về thuyết Luân Hồi thì chính sự di truyền và ảnh hưởng của
hoàn cảnh cũng là những kết quả báo ứng của những nguyên nhân gây ra từ những
kiếp trước, và bởi đó mọi đức tánh của linh hồn đều là do cái công phu đào tạo của từng cá nhân chứ không
phải do cha mẹ truyền lại.
Đức Phật có nói:
"Hành động là kết quả của tư tưởng." Những gì mà chúng ta làm hiện nay
là kết quả của những điều ta đã suy ngẫm từ trước. Trong Phật giáo, thuyết Luân
Hồi là một giáo lý căn bản; đức Phật dạy rằng những đức tính của con người bây
giờ là kết quả của những tư tưởng và hành động của y trong những kiếp trước.
Có nhiều người, tuy chấp
nhận Nhân Quả, nhưng lại quan niệm luật ấy dưới khía cạnh trừng phạt và đau khổ. Ta nên nhớ rằng danh từ
Karma chỉ có nghĩa là hành động, và đó là một danh từ trung lập. Mọi sự
vật trong vũ trụ đều có hai phương diện Âm và Dương, và Nghiệp Quả (Karma) cũng
không ngoài cái thông lệ đó. Lẽ tất nhiên, một hành động có thể tốt hay xấu, vị
kỷ hay vị tha. Nếu cách hành động cư xử của một người là tốt, thì không có gì
ngăn trở y cứ tiếp tục làm những điều phải và tốt lành do cái đà tiến hoá tự nhiên của con người.
Điều đó có thể gọi là Nguyên Tắc Liên Tục của nghiệp quả. Trái lại, nếu một người
có những hành động xấu xa hung dữ độc ác, thì nghiệp quả đó phải được sửa chữa
bằng luật Quả Báo; điều này gọi là Nguyên Tắc Thừa Trừ.
Do Nguyên Tắc Thừa Trừ, tức
là do bởi mãnh lực tạo thế quân bình của Luật Nhân Quả, chúng ta được dìu dắt
trở lại con đường chính, là con đường tự tu tiến và cải thiện lấy mình. Còn do
Nguyên Tắc Liên Tục, chúng ta cứ từ từ tiến bước một cách đều đặn, không gián
đoạn trên con đường chính, tức là con đường Tiến hóa đưa đến mục đích giải
thoát vậy.
xem tiếp: * CHƯƠNG 9 - Những Hạng Người Khác Nhau
xem tiếp: * CHƯƠNG 9 - Những Hạng Người Khác Nhau
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...