TRÔI NỔI VỚI TÌNH

Trong một buổi mạn đàm về giáo lý, có một đạo hữu tuổi đang là sinh viên ngành kỹ sư điện tại đại học MSU đưa ra một câu hỏi rất hay:

-  Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: “Nhất thiết duy tâm tạo” nghĩa là mọi sự việc đều do tâm tạo tác, do tâm biến hiện. Tôi cảm nhận được điều đó, nhưng thắc mắc của tôi là: nếu thiên đàng hay địa ngục đều do tâm tạo thì tại sao chúng ta chẳng tạo ra thiên đường mà cứ tạo dựng ra cảnh địa ngục để chịu khổ đau?

Một đạo hữu trung niên, được coi như trưởng tràng của nhóm Phật học tại đấy đã đáp rằng:

-    Biết là một chuyện nhưng ít ai thực hiện được cái biết của mình. Ví như ai cũng biết cõi Cực lạc là an vui. Địa ngục là thống khổ nhưng đâu có ai cũng thẳng đường đến chỗ an vui? Vì tham sân si sai khiến, người ta sẵn sàng gây tạo ác nghiệp để nhận lấy hậu quả khổ đau. Chúng ta là kẻ phàm phu thường bị nghiệp lực chi phối nên không còn tự tại. Vì không còn tự tại nên không thể tùy tâm biến hiện được.
     
Câu trả lời ngắn gọn rõ ràng hình như chưa hài lòng người bạn trẻ. Nhưng vì sự giới hạn của thời gian cũng như sự giới hạn về kiến thức Phật học của cả nhóm, chúng tôi đều nhận thấy không thể đi sâu vào vần đề này.
     
Vài tháng sau, tôi được dịp chứng kiến một câu chuyện tình của đôi thanh niên nam nữ. Câu chuyện này có thể dùng để trả lời thắc mắc của người bạn trẻ tuổi đã nêu câu hỏi, tuy ngây thơ mà rất thực tế trên. Tôi xin mạn phép hai nhân vật chính trong chuyện (dĩ nhiên đã được đổi tên) để được kể ra đây, không phải nhằm mục đích chỉ trích phê bình hay mua vui cho độc giả mà chính là để giúp cho các đạo hữu có dịp thấy rõ nghiệp lực đã lôi cuốn con người như thế nào. Như người chiến sĩ ra trận phải biết người biết ta thì mới có thể chiến đấu dằng dai với nội tâm cũng phải biết “Phật cao nhất xích, ma cao nhất trượng” để cẩn thận hơn, không vội vàng khinh địch trong khi công phu, đạo lực của mình vốn còn non kém.
    
.... Hai người gặp nhau trong tiệc cưới. Chuyện tình cũng vậy, cái thưở ban đầu vô cùng đẹp đẽ nên thơ. Càng nên thơ hơn khi nàng làm phù dâu cho cô bạn gái, chàng làm phù rể cho anh bạn thân.
     
Tuổi đôi mươi là tuổi sẵn sàng để yêu: Dung đã yêu Văn ngay buổi đầu gặp gỡ. Anh chàng thư sinh có đôi mắt buồn vời vợi xa xăm ấy như có sức gì thu hút Dung rất mạnh mẽ. Phần Văn thì “thông minh vốn sẵn tính trời” nên chàng rất nhạy bén trong tình yêu. Bạn bè cấp đôi Văn và Dung trong tiệc cưới, Văn thấy vui vui “cô ấy cũng xinh”, Văn nghĩ thầm như vậy.
     
Chỉ vài tuần sau đó, Văn và Dung đã trở thành đôi tình nhân. Ở xứ Mỹ này tình yêu thường đốt giai đoạn nhưng riêng về trường hợp của hai người, họ cũng có lý do riêng. Văn vượt biên sang Mỹ chỉ một mình, dù được ông bố nuôi người Mỹ thương yêu rất mực, Văn cũng thấy thiếu tình gia đình, trong đó có hình ảnh dịu dàng của người mẹ và sự vui tươi nhí nhảnh của đàn em. Nay được Dung săn sóc thương yêu, Văn cảm thấy ấm áp cả cõi lòng. Còn Dung vốn đã mồ côi cha từ nhỏ, sống với mẹ thì lại khắc khẩu. Hễ mở miệng ra thì bị rầy bị mắng, tình chị em lại chẳng ra chi. Bởi vậy, Dung rất khao khát một tấm chân tình để làm nơi nương tựa tình cảm.
    
Từ khi hai đàng thố lộ được tâm tư, tình yêu nồng nhiệt bắt đầu. Hầu như ngày nào họ cũng gặp nhau sau giờ tan học. Thế rồi hoặc chui vào quán cà phê, hoặc vào rạp cine cho đến mờ mịt tối họ mới chịu ra về. Sự đi chơi quá độ của hai người làm cho gia đình hai bên đều lo lắng.
     
Ông bố Mỹ của Văn đêm nào cũng thức chờ Văn về. Ông nhắc nhở chuyện học hành, tương lai của Văn.

-     Năm thứ nhất ở đại học, con phải cố gắng nhiều để tạo căn bản cho những năm về sau. Bài vở giáo sư kêu làm, mặc du họ không xét nhưng nếu con không lo làm, con sẽ không thể làm được các bài kiểm tra trong lớp.
     
Ban đầu Văn còn chịu ngồi nán lại năm, ba phút nghe ông nói, nhưng sau đó thì chàng phớt tỉnh Ăng-lê. Tội nghiệp ông bố già, ông thương Văn thiệt tình như con đẻ nên lắm khi ông phải điêu đứng khổ sở vì Văn, vì lo cho tương lai của chàng. Thấy Văn cố tình lánh mặt, ông đổi chiến thuật, viết kể những kỷ niệm ngày nào bố con vui vẻ thân thiết với nhau cùng lo tính tương lai. Ông nhắc có lần Văn nói với ông “Con muốn sau này sẽ học tới tiến sĩ”, và ông đã trở lời: “Cha không tiếc gì với con hết, cả gia tài nầy là của con; con muốn học tới đâu, cha lo tới đó”.
     
Tội nghiệp những bức thư không tem, chỉ có cái đầu tiên là được Văn mở ra, còn bao nhiêu đều bị vứt bừa trong xó tủ. Đối với Văn, lúc này, chỉ có tình yêu là quan trọng. Tánh Văn rất nhạy cảm, Văn tự thấy mình sinh ra là để yêu, để “sống thác vì tình”. Chỉ có tình yêu thôi, mọi thứ khác đều không đáng kể. Đôi khi, Văn cũng chợt nghĩ nhớ về Việt Nam, nơi phố chợ vùng ngoại ô Sàigon đó có hình ảnh mẹ già, đàn em thơ đang đặt cả tin tưởng và hy vọng vào Văn. Gia đình đang mong chờ ngày Văn tốt nghiệp Đại học để có đủ điều kiện hoàn tất thủ tục bảo lãnh. Mẹ dẫn các em đi vượt biên bị bắt mấy lần. Văn viết thư về nói với mẹ rán chờ: “Năm ba năm nữa thôi, khi con ra trường sẽ có việc làm thì hồ sơ bảo lãnh của mẹ được hoàn tất”.
     
Sức Văn học rất khá nhưng từ khi “hồn lỡ sa vào đôi mắt em” thì chuyện học hành bị chểnh mảng sa sút rõ rệt. Văn tự bào chữa: “Sự học còn dài, cứ từ từ rồi cũng xong”.
     
Văn đã thế, dĩ nhiên Dung cũng chẳng khá gì hơn. Thông thường ở tuổi Dung, người ta đã vào đại học trong khi Dung lẹt đẹt ở lớp 11. Mất căn bản lại thiếu siêng năng nên Dung rất nản học. Bây giờ có tình nhân, Dung rất hăng hái bỏ lớp để đi chơi với chàng, thật là sung sướng, thật là thú vị. Trường thông báo về nhà, mẹ và cậu vô cùng tức giận. Dung bị kiểm soát chặt chẽ hơn, điều đó làm Dung bực bội “Mình đã 20 tuổi đầu, mà cứ xem mình như con nít. Ở xứ này, 18 là có quyền ra riêng đâu ai cản được”.
     
Ý nghĩ thoát ly manh nha trong đầu khiến Dung trở nên bướng bỉnh, đôi khi hỗn láo với mẹ. Mẹ Dung vốn nóng tính, bà không chịu nổi thái độ của Dung tơi bời. Thế là Dung cảm thấy mình bị bạc đãi , bị chèn ép. Ở nhà, hễ chị mở miệng ra xin cái mẹ cũng  cho, em xin cái gì chi, mẹ cũng chìu; chỉ có Dung là người chịu thiệt thòi như con ghẻ. Dung nghĩ: “chỉ có Văn thương mình thôi, ước gì hai đứa được sống bên nhau”.

¯    ¯
¯
      
Thuận vừa nhận được cú điện thoại ngắn của Văn: “Anh đến đây gấp, em cần anh. Bạn gái của em vừa uống thuốc ngủ tự tử”.
     
Thuận là huynh trưởng Gia đình Phật tử, đã tốt nghiệp Kỹ sư, hiện đang tiếp tục bằng cao học. Thuận quen biết Văn từ trại tị nạn ở Bidong, lúc hai người cùng chung sinh hoạt Phật sự. Thuận là người có lòng hào hiệp, sống có lý tưởng, thích giúp đỡ kẻ khác mà không cần suy nghĩ đắn đo. Cũng vì không kịp suy nghĩ cân nhắc trước khi hành động mà lắm khi Thuận vướng vào những chuyện bực mình, cũng như “ách giữa đàng mang vào vướng cổ” vậy.
     
Lần này, nghe tiếng kêu cứu của Văn, Thuận cảm thấy nóng lòng vì trong thâm tâm, Thuận xem Văn như người em ruột. Mà dù không thân thiết đi nữa, Thuận cũng tự thấy có bổn phận phải cứu giúp khi có người cần đến mình. Không chần chờ một phút giây, Thuận phóng xe sáu tiếng đồng hồ không nghỉ ngơi để sớm gặp Văn xem sự việc xảy ra thế nào?
     
Khi Thuận đến nơi thì thấy Văn đang ngồi bó gối nơi góc nhà. Gặp Thuận, Văn mừng quýnh:

-    Anh cứu tụi em nghe anh!

Thuận đáp, có một chút gì như tự hào trong lời nói:

-    Tao xuống đây là mày hiểu rồi! Đầu đuôi ra sao mày kể tao nghe coi!
    
Văn đứng lên:

-      Để em rót nước anh uống rồi em kể hết cho anh nghe.

-     Còn “ông già” đâu? Tao muốn chào ổng!

-  Ổng mới đi dạo vòng vòng chung quanh cư xá, ổng đau tim, bác sĩ bảo mỗi ngày phải đi bộ một tiếng đồng hồ.

Sẵn dịp, Thuận nó luôn:

- Ổng thương mày như con ruột, mày phải làm sao cho ổng vui mới xứng đáng với tấm lòng của ổng. Nhất là người đau tim, phải tránh những chuyện lo buồn.
     
Uống xong ly nước trà nóng, Thuận bật lửa châm điếu thuốc rồi ngả người ra ghế dài cho đỡ mỏi. Chặp sau, Thuận hỏi:

-      Tình trạng Dung bây giờ thế nào?

-      Sau khi được cứu tỉnh,Dung đã về nhà nhưng còn yếu lắm.

-     Tại sao nó lại làm chuyện rồ dại đó

Văn cúi đầu:

-    Gia đình đối xử khắt khe với Dung quá! Dung bị cấm đoán đủ điều, bị bạc đãi như con ghẻ nên không chịu nổi.

-      Nó bị cấm những gì?
   
Hơi bị lúng túng, Văn ngẫm nghĩ một chút rồi mới nói:

-    Dung lớn rồi, đâu còn bé bỏng gì mà cậu và má Dung bắt phải đi thưa về trình, không được đi chơi, không được có bạn trai. Em với Dung đâu phải chuyện qua đường, chúng em tính chuyện cưới đàng hoàng mà gia đình cũng cấm đoán.

-     Tao muốn gặp Dung để biết rõ hơn, mày thấy có tiện không?
     
Văn chưa kịp trả lời thì có tiếng chuông điện thoại reo. Văn nghe xong, có vẻ hấp tấp:

-   Anh đi theo em ngay, Dung lại uống thuốc lần nữa, may mà người nhà ngăn kịp. Dung đòi gặp em. Có anh theo, em đỡ ngại hơn.
     
Lúc Thuận và Văn bước vào cửa nhà Dung, hai người chùn bước trước những khuôn mặt vừa đau khổ, vừa gay gắt của bao nhiêu người trong nhà. Văn gật đầu chào, không ai đáp lại. Thuận tiến tới bắt tay người đàn ông trong phòng. Thuận đoán là cậu của Dung rồi tự giới thiệu:

-     Thưa cậu, tôi là Thuận, anh bà con của Văn.

-      Chào anh!

Trên lầu có tiếng la, rồi tiếng ho, tiếng ụa mửa.

Má Dung nói:

-    Khổ quá, nó lại làm nư nữa rồi, con với cái! Thôi mời hai cậu lên gặp nó.

Khôn chằn chờ, Văn phóng lên trước:

-      Em Dung!
     
Dung đang nằm thở dốc, nghe tiếng gọi của tình nhân vội vàng ngồi chàng dậy; ngã vào đôi cánh tay của Văn. Hai người im lặng thật lâu. Lúc sau, Dung mới thấy sự hiện diện của Thuận. Dung mếu máo:

-    Anh Thuận, em không muốn ở đây nữa, anh cứu em. Anh cho em lên ở nhà anh để đi học nghe!

-       Gia đình em đây mà đòi bỏ đi đâu?

-      Ở đây em khó thở quá, thà chết còn sướng hơn.

-      Chết như vậy không giải quyết được gì cả; hễ so nghiệp thì phải rán trả.

Biết Thuận đã đứng về phe mình. Văn tiếp luôn:

-      Hay là anh cho Dung lên ở tạm nhà anh một vài tháng cho nguôi ngoai.

Thấy Thuận im lặng, Văn nháy mắt cho Dung:

-     Vậy em sửa soạn đồ đạc, ngày mai theo ảnh luôn.

Dung mừng húm:

-   Anh Thuận ơi, anh thương tụi em thì thương cho trót. Anh cho Văn theo luôn nghe, Văn đổi lên đó học, sẵn kèm Toán và Anh văn cho em luôn. Em không thể xa Văn được anh ơi!
     
Ngay lúc đó, má Dung bước vào phòng, bà có vẻ tức giận lắm.

-       Xin lỗi cậu là ai mà tới đây đòi dẫn con gái tôi đi?

-    Tôi không có ý định đó. Con bà đòi đi ra khỏi nhà, chẳng lẽ bỏ nó lang thang ngoài đường thân gái bơ vơ sao? Nhà tôi, tôi có quyền cho ai ở thì cho. Con bà trên 18 tuổi rồi, đối với pháp luật, nó có quyền muốn ở đâu thì ở.

Bị đuối lý, bà tức lắm, vôi kêu người em lên:

-     Cậu Tư, cậu lên đây mà coi nè!
    
Người đàn ông bước vào phòng, đôi mắt sáng quắc của ông đảo qua một vòng và ông hiểu ngay tự sự.

Ông nói:

-      Thôi mời tất cả xuống phòng khách nói chuyện!

Sau khi mọi người đều an ngồi, ông cất tiếng hỏi:

-     Gia đình tôi đang có chuyện bối rối, tôi không biết cậu và Văn có hảo ý gì giúp đỡ chúng tôi?
     
Câu hỏi quá khéo, Thuận chưa biết trả lời ra sao thì ông tiếp luôn:

-     Con dại cái mang. Chúng tôi khổ sở vì dạy con không nổi. Ở xứ này đa số trẻ em hư hỏng chỉ vì hiểu lầm hai chữ “tự do”. Chuyện tình cảm giữa Văn và Dung thật ra chúng tôi không cấm đoán nhưng chúng tôi phải chịu thiệt thòi, khổ thân. Chúng tôi chỉ yêu cầu hai đứa lo học hành tới nơi tới chốn, nhứt là Văn, người con trai phải nên sự nghiệp trước khi tính chuyện hôn nhân.
     
Vướng vào chuyện vợ con quá sớm, nó sẽ bỏ dở chuyện học hành, đời tụi nó sẽ chẳng ra gì. Vậy mà hai đứa không chịu nghe, cứ lén lút bỏ học đi chơi hoài. Nhiều khi đi với nhau khuya lơ khuya lắc mới về. Tiếng lành đồn gần, tiếng dữ đồn xa. Gia đình chúng tôi xấu hổ vì bị mang tai tiếng quá nhiều. Giờ lại xảy ra chuyện này nữa.

Thuận nói, có vẻ bào chữa:

-  Giáo dục là cần thiết nhưng phương pháp giáo dục càng quan trọng hơn. Đôi khi những biện pháp mềm dẻo lại có hiệu quả hơn sự cứng rắn.

Cậu Tư gật gù:

-     Tôi cũng đồng ý như thế, nhưng con Dung thì cứng đầu còn chị tôi nóng tánh thành ra trong nhà có chuyện lục đục hoài.

-       Hiện giờ Dung có ý định bỏ nhà ra đi rất mãnh liệt......

Má Dung nổi nóng:

-      Hứ! nó muốn đi đâu thì kệ xác nó, hư lỡ cho hư luôn. Khôn nhờ dại chịu.

Cậu Tư ôn tồn hơn:

-   Chị để yên tôi tính cho! Anh Thuận nè, nếu con Dung xin ở tạm nhà anh vài tháng, anh nghĩ sao?

Thuận đáp không do dự:

-  Tôi ít khi từ chối khi có người cần tôi giúp đỡ. Trường hợp của Dung, tôi nghĩ là nếu tôi cho Dung tá túc, tôi sẽ cứu được một mạng người.
     
Cậu Tư hơi nhếch mép như để dấu nụ cười khi nghe Thuận dùng từ quá lớn lao: “Cứu một mạng người”. Đối với cậu, đây chỉ là trò làm nư của cô cháu gái lậm tiểu thuyết tình cảm quá nhiều.
     
Tuy nhiên cũng cần thời gian vài tháng cho tình hình lắng dịu lại.

-    Cho tới bây giờ, tôi vẫn nghĩ Văn là người tốt, còn anh là anh họ của Văn, tư cách lại đàng hoàng nên tôi tin tưởng anh. Tôi gửi cháu Dung lên anh vài ba tháng, nhờ anh khuyên giải, khi nào nó biết suy nghĩ phải trái anh cho nó về gia đình, tôi sẽ không quên ơn anh.

Thuận nhìn đồng hồ rồi nói:

-   Xin cậu đừng nói đến chuyện ơn nghĩa. Gặp chuyện phải là tôi không từ nan. Giờ tôi phải về nghĩ sớm, sáng mai tôi sẽ đi khoảng 10 giờ.
     
Thuận và Văn trở về nhà cũng khá khuya. Ông Richard hãy còn thức. Ông nằm dài trên chiếc ghế sofa, mắt nhìn tivi mà tâm hồn để tận đâu. Mấy tháng nay ông đau khổ vì sự biến đổi của Văn. Từ một đứa con hiền lành, hiếu thảo, biết lo cho tương lai, đột nhiên Văn trở nên bướng bỉnh, cứng đầu cứng cổ. Văn không còn nể nang ông chút nào. Văn kình chống ông mỗi khi ông nhắc nhở chuyện học hành hoặc nói tới Dung. Lần nào Văn cũng nói những lời này:

-   Tôi lớn rồi, tôi phải có đời sống riêng. Tôi có quyền tự do riêng của tôi. Tôi muốn tự lập để khỏi lệ thuộc vào ai cả.
     
Những đêm Văn đi chơi khuya, ông thức trắng để chờ. Thấy vậy, Văn tỏ ra bực bội, lại phản ứng bằng cách đi nhiều hơn nữa.
     
Ông Richard vốn là người giàu tình cảm và sống nhiều với nội tâm. Ông không lập gia đình nên bao nhiêu tình thương ông đổ dồn cho Văn, đứa con nuôi mà ông yêu mến vô cùng. Nay Văn trở chứng như vậy khiến ông nặng mang những nỗi buồn phiền làm bịnh tim tái phát. Ông không biết mình sống chết ngày nào nên ông làm tờ di chúc ghi tên Văn là người thừa hưởng tất cả tài sản của ông. Ông đưa Văn xem tờ di chúc, những mong Văn hiểu rõ tấm lòng của ông và hồi tâm thức tỉnh cho ông được ấm tình phụ tử. Nhưng Văn vẫn dửng dưng như không.
     
Nỗi buồn biết tỏ cùng ai? Càng âm thầm đau khổ, trái tim bệnh hoạn càng héo hơn. Ông không muốn kể lể cái xấu của Văn cho bất cứ ai vì ông sợ danh dự của Văn bị sứt mẻ, ảnh hưởng không tốt cho tương lai Văn sau này.
     
Giờ gặp lại Thuận ông rất vui. Ông biết Thuận là người tốt, học hành đàng hoàng, lại là người có thể khuyên nhủ Văn. Nhưng ông chưa kịp nói chi với Thuận thì Văn đã vào đề ngay:

-   Thưa ba, con đã nhiều lần bày tỏ ý định tự lập với ba. Nay sẵn dịp đầu khóa học, lại có anh Thuận xuống đây, xin ba cho con chuyển trường xuống học chung với ảnh. Như vậy hợp với nguyện vọng của con hơn, con muốn tự do cho thân con.
     
Thuận rất ngạc nhiên khi nghe Văn đòi chuyển trường. Văn đang học ngành Dược. Trường của Thuận lại chuyên về ngành Kỹ sư mà! Thuận khéo léo cản ngăn:

-    Văn nên suy nghĩ kỹ. Văn đã học qua nửa năm ngành Dược rồi, nếu sang trường anh, Văn chỉ có thể học một năm rưỡi nữa rồi lại phải chuyển trường khác đó!

-     Chuyển đi đâu cũng được, em cần thoát ly.
     
Ông Richard muốn chỉ cho Văn thấy thực tế khó khăn đang chờ đợi, ông nghiêm nghị nói:

-   Con đừng tưởng hễ muốn đi đâu thì đi. Nếu con cãi lời cha, cha không hỗ trợ cho con về tài chánh đâu.

Thuận thêm vào:

-   Anh cũng không đủ sức nữa. Anh còn đi học, làm trợ giáo trong trường đồng lương ít ỏi, anh không thể gánh vác nhiều, em hiểu chớ?

Văn vẫn khăng khăng:

-  Em biết. Bước đầu em vay tiền ngân hàng để đống tiền học, sau đó em kiếm việc vừa học vừa làm. Hồi đó anh chỉ một thân đơn độc mà anh học được, em cũng sẽ làm được như anh.

Tới lúc ông bố không còn nhịn được nữa, ông nói:

-    Thôi kệ, nó muốn đi đâu thì đi!

Nói xong ông bỏ vào phòng ngay.
      
Đó là câu nói lẫy nhưng Văn lại dựa vào đấy như là sự cho phép. Thế là Văn hăng hái lo sửa soạn hành lý, giấy tờ.... 
     
Thuận ngủ được một giấc ngắn thì nghe có tiếng nói chuyện xì xào, mở mắt ra, anh thấy hai cô cậu Văn Dung đã sẵn sàng trong tư thế ra đi.
     
Thuận lờ mờ thấy câu chuyện này có vẻ gì như sắp đặt sẵn nhưng vốn yếu lòng, Thuận không thể cương quyết từ chối trước sự năn nỉ tha thiết của hai người. Thuận tự nhủ: “Mình đã hứa cho Dung tá túc vài tháng thì sau đó mình sẽ bảo nó về”.
     
Nhưng sự thực lại không như thế! Văn và Dung đột nhiên được ở chung một nhà, như lửa gặp rơm, như mèo thấy mỡ. Họ xoắn lấy nhau không rời một bước. Ban đầu, Thuận đem luân lý Á đông ra nhắc nhở hai người về chuyện nam nữ, Văn miễn cưỡng nghe theo nhưng sau đó thì Văn có đủ cách để qua mặt Thuận và cuối cùng Thuận đành chịu thua khi thấy Văn mặc nhiên ở chung phòng với Dung.
     
Ông bố già nhớ con, lọ mọ lên thăm để hỏi han chuyện học hành. Ông lụm cụm mang theo những món ăn mà Văn thích, sợ con thiếu thốn không tiền mua. Được biết Văn học ban ngày, ban đêm làm bồi bàn tới khuya lơ khuya lắc, ông càng sốt ruộc hơn. Nhưng đến khi gặp lại Văn, ông thấy Văn dửng dưng quá, lại còn làm ra vẻ lạnh lùng khiến ông đau khổ hết sức. Mới nửa năm trước đây, cha con còn vui vẻ khắng khít như hình với bóng mà bây giờ Văn xem ông như người dưng sao? Sự thắc mắc được giải đáp ngay khi ông quan sát cách sinh hoạt trong nhà.
     
Nhà chỉ có một phòng ngủ. Văn – Dung chiếm trọn còn Thuận thì ngủ tại phòng khách. Dù là người Mỹ nhưng vốn xuất thân từ gia đình nề nếp và làm nghề giáo suốt cả đời nên ông không thể nào chấp nhận sự sống chung lén lút như vậy. Ông không nói lời gì trách Thuận sao quá dễ dãi nhưng sự im lặng của ông cũng là một hình thức phản đối. Ông lái xe về liền ngay chiều hôm ấy.
     
Hôm sau, cậu của Dung điện thoại cho Thuận ngay, ông nói:

-   Tôi gửi gắm cháu Dung cho anh vài tháng để nhờ anh giúp nó hồi tâm nhưng tôi không ngờ cũng cho Văn đi theo luôn. Ở đây, người ta đồn rùm beng; nào là Dung bỏ nhà theo trai, nào là Dung mang bầu không dám về nhà v.v...cháu tôi hư đốn sẵn, tôi không đổ lỗi cho anh, nhưng nếu anh giải quyết vấn đề khéo léo hơn, thì có lẽ gia đình tôi đã không bị tai tiếng nhiều đến thế. Bây giờ chuyện đã lỡ rồi, anh làm ơn khuyên con Dung trở về với gia đình ngay. Tôi không muốn nó sa lầy thêm nữa.....
     
Thật đúng là làm ơn mắc oán! Đây chẳng biết là lần thứ mấy trong đời, Thuận gặp phải chuyện rắc rối xảy ra cho anh chỉ vì lòng Từ bi thực hiện không đúng chỗ. Thuận thích giúp người, nhưng vì thiếu sáng suốt nên hoặc là anh bị lợi dụng, hoặc là anh gây những hậu quả ngoài ý muốn. Thuận vẫn biết Từ bi mà thiếu trí tuệ thì dễ rơi vào sự sai lầm tai hại, nhưng anh không hiểu trước một vấn đề, giải quyết như thế nào là đúng, thế nào là sai? Cùng làm một việc mà khi thì anh thấy mình đúng, khi thì anh thấy mình sai. Như vậy là sao? Anh đâm ra lúng túng.
     
Chuyện Văn và Dung, bây giờ anh mới thấy mình đã sai lầm. Tự trách mình yếu đuối, anh bắt buộc mình phải có thái độ cương quyết hơn.
     
Tối hôm đó, anh mời hai cô cậu ra để nói chuyện quan trọng.

Nghiêm giọng, Thuận nói:

-      Trước đây, anh hứa với cậu Tư của Dung là cho Dung ở tạm vài tháng để khuyên giải em. Ba tháng đã trôi qua rồi, anh thấy bây giờ là lúc Dung nên trở về nhà. Cậu Tư vừa mới điện thoại cho anh kêu Dung về.

Dung tỏ vẻ hốt hoảng:

-      Em không dám về đâu. Hễ đi là đi luôn, trở về má em đánh chết.

-   Em nói thế không được. Hùm dữ còn không nỡ ăn thịt con mà. Cậu Tư kêu em về là cậu đã mở đường cho em rồi đó. Con gái không nên bỏ nhà đi lang bang, em hãy về nhà lo học hành, chờ đợi Văn bốn năm nữa, Văn học xong, trở thành Dược sĩ sẽ đi cưới hỏi em đàng hoàng. Chừng đó chẳng những gia đình được nở mày nở mặt mà tương lai và hạnh phúc lại bảo đảm vững vàng.

Dung buồn bã nhìn Văn rồi hỏi:

-     Còn Văn thì sao?

-     Văn vẫn có thể ở lại đây để học.

Văn phản đối ngay:

-      Dung đâu thì em đó, chúng em không thể xa nhau!

Thuận bực dọc hỏi:

-  Tụi em khắng khít thương yêu nhau như vậy mà không đứa nào lo cho tương lai của người mình yêu hết. Tại sao Dung không nghĩ tới tương lai sáng sủa của Văn, nếu Văn chú tâm lo học hành không vướng vào chuyện yêu đương trai gái? Còn Văn thương Dung mà sao không nghĩ tới danh dự của Dung và gia đình nó? Chỉ cần giữ tình yêu trong sạch, lo học hành và chờ đợi ngày thành hôn. Chuyện dễ dàng như vậy mà hai đứa bây không làm được sao? Con đường sáng sủa trước mặt, được mọi người khuyến khích hoan nghênh mà không chịu đi, cứ đòi rẽ vào ngõ hẹp, vào bóng tối si mê, thật là rồ dại.

Rồi Thuận quyết định dứt khoát:

-     Nếu tụi bây không nghe lời tao thì tao dọn ra, để nhà này cho tụi bây ở. Từ đây, tao kể như không còn trách nhiệm, không còn anh em gì với hai người nữa. Đời ai nấy lo. Gánh chuyện thiên hạ hoài mệt quá!
     
Văn và Dung thấy Thuận giận dữ bèn im lặng rút lui vô phòng. Đó là cách né tránh của hai người mỗi khi Thuận đề cập đến vấn đề của cả hai.
     
Lần này, Thuận nhất quyết không để vấn đề bị trôi qua nữa. Anh làm thủ tục trả nhà, chuẩn bị dọn ra.

Thấy thế, Văn trấn an Dung:

-      Em đừng sợ, anh sẽ đi làm thêm để nuôi em.

-      Anh nuôi anh còn chưa nổi, làm sao nuôi em được?

-       Người ta sống được, mình sống được! Cùng qua anh sẽ nghỉ học.
     
Hai tiếng “nghỉ học” tác động mạnh vào tâm trí Dung. Văn nghỉ học để đi làm, hai đứa được sống bên nhau trong cảnh “túp lều tranh”, hai trái tim vàng.
     
Nhưng rồi sẽ ra sao? Câu hỏi đó là đầu tiên xoáy mạnh vào tâm thức Dung khiến cô nghĩ ngợi, đăm chiêu.... Nhìn sự sôi nổi, si dại của Văn, Dung chợt thấy Văn còn trẻ con quá! Không thể được, không thể nhắm mắt bước liều như Văn; mọi người thân yêu chung quanh mình đều có lý. Dung lẩm bẩm lại câu nói của anh Thuận như để tự nhắc nhở mình: “Con đường sáng sủa trước mặt, được mọi người khuyến khích mà không chịu đi.....”
     
Hai ngày sau, Dung điện thoại về nhà, nhờ cậu lên đón về.

Nhìn Dung sửa soạn hành lý, Văn buồn rũ rượi:

-     Em có biết em làm như vậy khiến anh đau lòng lắm không?
     
Dung không trả lời. Sự cương quyết làm cô thấy mình lớn thêm lên.
     
Rồi ngay tiễn biệt đến. Văn tránh mặt vì không dám gặp cậu Tư và vì không dám nhìn cảnh Dung bỏ mình ra đi. Chiều tối trở về, Văn buồn rã rời, kéo bia ra uống, hết lon này đến lon kia.
     
Hôm sau, Văn ngã bệnh, sốt li bì, mê man, phải vào bệnh viện cấp cứu mới tỉnh lại. Thuận e ngại quá vội điện thoại kêu ông già lên gấp.
     
Ông bố già nhìn con gầy yếu xanh xao trên giường bệnh mà xót ruột, xót lòng. Ông cầm tay con, âu yếm như thưở nào Văn còn bé bỏng:

-      Con hãy trở về với cha, cha thương con

Văn im lặng gật đầu.
     
Thuận không biết Văn chịu trở về với ông bố già vì Văn cảm động trước tấm tình phụ tử hay là Dung đã trở về đấy nên Văn phải chạy theo như một kẻ cuồng si?

Thuận chợt nhớ lại lời dạy của Thầy mình:

-     Ở đời có năm thứ tai hại trói buộc con người gọi là ngũ dục lạc. Đó là tiền bạc, danh vọng, sắc đẹp, ăn và ngủ (tài, sắc, danh, thực, thùy). Vướng vào một trong năm thứ đó, con người mất tự do vì không làm chủ được bản thân và trở thành mê muội khó lòng tu tập được.

Thuận nghĩ tiếp:

-                     Quả thật vậy, Văn vướng vào vòng tình ái (sắc) nên trở thành một người khác hẳn. Bị tình ái lôi cuốn, Văn dám làm mọi chuyện quấy, dám phụ cả mọi người chung quanh, phụ cả tương lai mình và quên hẳn sự chờ đợi mỏi mòn của cha mẹ và các em nơi quê nhà. Văn không còn là Văn của ngày nào! Văn luôn luôn biện minh rằng: “Tôi lớn rồi, tôi phải được tự do sống cuộc đời của tôi, xin đừng ai ngăn can”.
     
Tự do chạy theo dục vọng của mình, đó có phải thực sự là tự do không? Hay chỉ là hình thức của sự yếu hèn và nô lệ? Trong thâm tâm, hẳn Văn phải hiểu rằng mọi người chung quanh đều khuyên những điều đúng đắn, hợp lý nhưng tại sao Văn không làm theo được? Sự lôi cuốn của ái tình mạnh mẽ quá khiến Văn không còn sáng suốt, lý trí không thể khế hợp cùng lý nghĩa của việc mình làm. Sự cuốn hút của nghiệp lực, của ma vương đưa con người vào tội lỗi và khổ đau.
     
Bởi vậy nên kinh Địa tạng nói rằng: “chỉ có nghiệp lực chiêu cảm mới đưa con người vào địa ngục mà thôi”. Thật thế, nếu Văn sáng suốt hơn, biết dùng ý chí để thắng nghiệp lực của ái tình thì Văn đâu chuốc lấy tai hại và khổ đau.
     
Suy rộng ra, nếu ai cũng thấy được sự cám dỗ của ngũ dục lạc thì tự mình làm chủ lấy mình; lúc đó sự tu tập không còn chi trở ngại, dù sống trong cảnh nào cũng thấy an vui đầy đủ, vì tâm bình thì thế giới bình. Giữ được tâm bình thường không sóng gió, không có sự não loạn của vọng thức là sống với chân tâm, là tự mình tạo ra cảnh giới cực lạc an vui; còn ngược lại, sống với vọng tâm đầy tham ái, si mê, sân hận là tự chuốc lấy phiền não, tự mở cửa địa ngục để bước vào mà không hay. An vui hay đau khổ, giải thoát hay trói buộc, quả thật đều do một tâm này tạo ra vậy.
     
Xét người rồi ngẫm lại mình. Thuận tự hỏi: “Từ khi thọ Bồ tát giới đến nay, do sự phát tâm thực hiện Bồ tát hạnh, mình có vướng vào danh tướng của Bồ tát không? Nếu vướng vào danh Bồ tát thì không thể gọi là Bồ tát, bởi vì còn vướng mắc là còn si mê, còn chưa giác ngộ, đâu thể gọi là Bồ đề Tát Đỏa (hữu tình giác ngộ) được?
     
Tự mình còn vướng vào danh, còn chạy theo danh, còn chưa giác ngộ thì đâu thể có đầy đủ trí tuệ để cứu giúp người? Bây giờ Thuận cũng tự thức tỉnh và sám hối lỗi lầm, quyết lìa ngôn thuyết (không nói nhiều) và ly danh tướng (xa rời hình danh sắc tướng).

Thuận lẩm bẩm đọc bài kệ trong kinh Kim cang:
Nhược dĩ sắc kiến ngã,
Dĩ âm thanh cầu ngã.
Thị nhân hành tà đạo,
Bất năng kiến Như lai.
Tạm dịch:
Nếu lấy sắc thấy ta,
Dùng âm thanh cầu ta,
Người ấy hành đạo tà,
Không thể thấy Như Lai.

2/96
Diệu Nga

HẾT
Xem lại NỖI KHỔ NIỀM ĐAU....