Những lúc cuộc đời có nhiều bão tố cũng
là lúc ta sẽ nhận ra được nhiều thứ trong kiếp này.
Cuộc đời thì không nói trước được gì.
Chúng ta không thể chia sẻ với người khác được những điều mà chúng ta chưa từng
trải qua, phải có trải nghiệm rồi thì chúng ta mới có chất liệu.
Sâu thẳm bên trong mỗi người luôn có một
cái tâm trong sáng, và cái tâm trong sáng này luôn luôn hướng thiện. Khi nơi xuất
phát từ tình yêu thương thì chúng ta tin rằng chúng ta sẽ có đủ sức mạnh để vượt
qua mọi khổ đau.
Khi đã ở đáy của vực thẳm
thì con người ta chỉ có thể tiến lên chứ không thể rớt xuống, vì đã ở đáy rồi
thì còn gì đâu mà rơi xuống được nữa. Bởi thế, đau khổ đến tột cùng cũng là cơ
hội cho chúng ta thể hiện sự mạnh mẽ để tiến lên phía trước.
Đôi khi ở trong tột cùng của
sự đau khổ thì con người ta lại làm nên những kiệt tác.
Nhạc sĩ thiên tài Beethoven
đã sáng tác những bản nhạc giao hưởng bất hủ khi bị điếc.
Thất bại và đau khổ
chưa chắc đã là điều xấu. Hãy cố gắng lên!
Người họa sĩ Behrman trong truyện ngắn
“Chiếc lá cuối cùng” (của O. Henry) đã vẽ bức tranh kiệt tác “Chiếc lá cuối
cùng” rồi chết đi trong bệnh tật.
Xin bỏ chút thời gian để tìm thấy năng
lượng nơi chiếc lá ấy.....
* * * *
- Ta có thể nói cơ hội sống của cô ấy chỉ
còn lại một phần mười, - ông nói khi lắc nhiệt kế để thuỷ ngân hạ xuống.
- Nhưng cái phần đó còn phụ thuộc vào việc
cô ấy có muốn sống nữa hay không. Cái kiểu con người cứ sắp hàng bên cạnh ông
chủ nhà hòm như thế thì thuốc men cũng chẳng có nghĩa lí gì. Cô bạn bé nhỏ của
cô đã nghĩ rằng mình sẽ không bình phục nữa. Cô ấy có điều gì vướng mắc trong đầu
không?
- Bạn ấy - bạn ấy mong ước có ngày vẽ được
vịnh Naples, - Sue đáp.
- Vẽ ư? Hừ! Cô ấy không có điều gì đáng
để bận tâm gấp bội lần hơn ư? - một chàng trai, chẳng hạn?
- Một chàng trai à? - Sue nói, cao giọng
như thể tiếng đàn chợt buông dây. - Một người đàn ông thì tốt ư? Nhưng, không,
thưa bác sỹ, không có chuyện đó đâu.
- À, vậy ra chỉ tại yếu thôi, - bác sỹ
nói. - Tôi sẽ cố hết sức chữa chạy bằng tất cả vốn liếng y học của mình. Nhưng
một khi bệnh nhận bắt đầu tính có bao nhiêu xe dự tang lễ của mình thì tôi phải
trừ đi năm mươi phần trăm công hiệu cứu chữa của thuốc men. Nếu cô có thể làm
cho cô ấy hỏi về những mốt mới mùa đông, tay áo chẳng hạn, thì tôi chắc trong
mười phần cô ấy đã khá lên hai thay vì một như bây giờ.
Sau khi bác sĩ ra về, Sue vào phòng làm
việc, khóc ướt đẫm cả chiếc khăn Nhật. Rồi cô bình tĩnh mang bảng vẽ vào phòng
Johnsy, miệng huýt sáo một điệu nhạc Jazz. Johnsy nằm, quay mặt về phía cửa sổ,
tấm chăn trên người hầu như không gợn vết nhăn nào. Sue ngừng huýt sáo bởi tưởng
bạn đã ngủ. Cô dựng bảng vẽ và bắt đầu vẽ bức minh họa cho câu chuyện tạp chí bằng
bút sắt thì cô nghe có tiếng thì thầm lặp đi lặp lại nhiều lần. Cô bước vội đến
bên giường. Mắt Johnsy mở to. Cô đang nhìn ra cửa sổ và đếm - đếm lùi lại. - Mười
hai, - cô đếm, ngừng một lát, - "mười một", rồi "mười",
"chín"; rồi gần như cùng một lúc "tám" và "bảy".
Sue lo lắng nhìn ra ngoài của sổ. Ðếm cài gì ở ngoài đó? Trong tầm mắt chỉ có một
cái sân trơ trụi, ảm đạm và bức tường trống trơn của ngôi nhà gạch cách chừng
sáu mét. Một dây trường xuân già, rất già, gốc cong queo và mục nát, leo đến giữa
bức tường gạch. Hơi thở lạnh lẽo của mùa thu đã bứt lá của nó ra khỏi thân cho
đến lúc chỉ còn trơ đám cành cây gần trụi hết lá bám vào những viên gạch nẻ sứt.
- Cái gì vậy hả bạn? - Sue hỏi.
- Sáu, - Johnsy nói như thể là tiếng thì
thào. - Giờ thì chúng rụng nhanh hơn. Ba hôm trước phải gần cả trăm. Nó làm đầu
mình phát đau lên khi đếm. Nhưng bây giờ thì dễ rồi. Một chiếc nữa đã đi. Giờ
chỉ còn năm.
- Năm cái gì hả bạn? Nói cho Sudie của bạn
biết đi.
- Những chiếc lá. Trên cây trường xuân.
Khi chiếc cuối cùng rơi, chắc mình cũng ra đi. Mình biết điều đó đã ba ngày
nay. Bác sĩ không nói gì với bạn sao?
- Ồ, mình không nghe những chuyện nhảm
nhí như vậy đâu, - Sue trách với vẻ ân cần quả quyết. - Mấy chiếc lá trường
xuân già đó thì có liên quan gì đến việc bạn bình phục kia chứ? Tại bạn quá yêu
các dây leo ấy, thế đấy, bạn hư quá. Ðừng có nói dại nữa! À, sáng nay bác sỹ bảo
mình rằng cơ hội bình phục nhanh của bạn là - để mình nhớ chính xác lời ông ấy
- ông nói cơ hội chiếm đến chín phần mười! À, đấy là cơ hội gần chắc chắn như
khi chúng ta đi ô tô hay đi bộ vượt qua một tòa nhà mới ở New York. Bây giờ hãy
cố ăn tí cháo và để Sudie quay lại với bức vẽ, có thế thì bạn ấy mới có thể bán
cho người biên tập rồi mua rượu vang port cho cô bé ốm yếu của bạn và lườn lợn
cho cái bụng háu ăn của bạn ấy.
- Bạn không cần phải mua rượu vang nữa
đâu, - Johnsy nói, mắt vẫn nhìn ra ngoài cửa sổ. - Một chiếc nữa rơi rồi.
Không, mình không muốn ăn cháo tí nào. Chỉ còn bốn chiếc lá. Mình muốn xem chiếc
cuối cùng rụng trước khi trời tối. Rồi mình cũng sẽ đi theo.
- Bạn Johnsy yêu quý ơi, - Sue cúi người
xuống nói, - bạn có hứa với mình là sẽ nhắm mắt và không nhìn ra ngoài cửa sổ
cho đến khi mình làm xong việc không? Mình phải nộp mấy bức này vào ngày mai.
Mình cần ánh sáng, nếu không thì mình đã buông rèm xuống.
- Bạn không thể vẽ ở phòng khác sao? -
Johnsy hờ hững hỏi.
- Mình thích ở đây, bên bạn, - Sue đáp.
- Hơn nữa mình không muốn bạn cứ dán mắt vào những chiếc lá trường xuân ngớ ngẩn
ấy. - Khi nào bạn xong thì báo ngay cho mình nhé, - Johnsy nói, nhắm mắt lại và
nằm im, tái nhợt như một pho tượng đổ, - bởi vì mình mình muốn xem chiếc lá cuối
cùng rụng. Mình mệt mỏi vì chờ đợi. Mình rã rời vì suy nghĩ. Mình muốn tháo
tung mọi thứ ràng buộc và dong buồm lướt đi, lướt đi tựa như một trong những
chiếc lá mòn mỏi đáng thương kia.
- Hãy cố ngủ đi, - Sue nói. - Mình phải
mời ông lão Behrman lên làm mẫu bức người thợ mỏ già khắc khổ. Mình sẽ đi một
chốc thôi. Ðừng cố di chuyển cho đến khi mình quay lại.
Sue tìm thấy lão Behrman nồng nặc mùi rượu
dâu nặng trong cái hang mờ tối của lão bên dưới. Trong góc phòng, một tấm vải
trống, căng sẵn trên giá, vẫn đợi suốt hai mươi lăm năm nay chờ nét vẽ đầu tiên
của bức kiệt tác. Cô kể cho lão nghe ý nghĩ lạ lùng của Johnsy và cái cách bạn ấy
thực sự đuối đi, sắp lìa tung như một chiếc lá bay xa khi sự níu giữ mỏng manh
của bạn ấy với thế giới này ngày một yếu hơn. Lão Behrman, đôi mắt đỏ ngấn lệ,
oang oang biểu lộ sự khinh thường và công kích của mình trước chuyện tưởng tượng
ngu ngốc như thế.
- Chà! Trên thế gian này còn có người ngốc
đến độ muốn chết vì những chiếc lá lìa xa cái dây leo dớ dẩn kia ư? Ta chưa bao
giờ nghe chuyện nào như thế cả. Không, ta sẽ không ngồi làm mẫu lão già đần độn
khắc khổ ù lì của cô đâu. Sao cô lại để cái chuyện ngu ngốc ấy chui vào óc của
cô ta? Ôi, tội nghiệp thay cho Johnsy bé bỏng.
- Bạn ấy ốm yếu lắm, - Sue nói, - và sốt
đã làm đầu óc bạn ấy đâm bệnh hoạn, đầy rẫy những ý tưởng hoang đường. Thôi được,
bác Behrman à, nếu bác không ngồi mẫu cho cháu thì cũng chẳng sao. Nhưng cháu
nghĩ bác là một lão già cục cằn, ba hoa, lọm khọm.
- Cô đúng là đồ đàn bà! - lão Behrman
hét lên. - Ai bảo ta không ngồi mẫu? Ði nào. Ta đi cùng cô. Ta đã nói suốt nửa
tiếng đồng hồ rằng ta sẽ làm mẫu rồi cơ mà. Lạy Chúa! Ðây không phải là nơi để
một người tử tế như cô Johnsy nằm dưỡng bệnh. Hôm nào đó ta sẽ vẽ kiệt tác đó
và tất cả chúng ta sẽ giã từ chốn này. Lạy Chúa! Ðúng đấy. Johnsy đang ngủ khi
hai người lên gác. Sue kéo rèm xuống che kín cửa sổ rồi ra hiệu cho lão Behrman
sang phòng bên. Ở đấy, họ lo lắng nhìn ra cửa sổ, về phía cây trường xuân. Rồi
hai người im lặng nhìn nhau một lát. Một cơn mưa lạnh, dai dẳng lẫn với tuyết
đang rơi. Vận chiếc sơ mi xanh cũ, Behrman ngồi trên cái ấm lật úp, giả làm hòn
đá trong tư thế người thợ mỏ khắc khổ.
Sáng hôm sau, Sue thức giấc sau khi chợp
mắt được một tiếng đồng hồ, cô bắt gặp đôi mắt mở to, vô cảm của Johnsy nhìn
trân trân vào tấm rèm xanh nơi cửa sổ. - Kéo hộ nó lên đi; mình muốn nhìn, - cô
thì thào giục. Sue miễn cưỡng nghe lời. Nhưng, kìa! Sau một đêm mưa quật, gió mạnh
lồng lộng không ngớt, trên bức tường gạch kia chiếc lá trường xuân vẫn đứng
nương vào vách. Ðấy là chiếc lá cuối cùng. Vẫn xanh thẫm nơi gần cuống lá,
nhung quanh rìa đã ngả màu vàng sẫm và hư hoại; chiếc lá vững chãi bám chắc vào
cành cây cách mặt đất chừng sáu mét.
- Ðấy là chiếc lá cuối cùng, - Johnsy
nói. - Mình tưởng chắc nó đã rơi đêm qua rồi. Mình nghe tiếng gió. Hôm nay chắc
nó sẽ rơi và lúc ấy mình cũng sẽ chết.
- Bạn yêu quý, - Sue nói, mặt hốc hác
cúi xuống gối, - nếu bạn không nghĩ về bản thân thì hãy nghĩ đến mình. Mình biết
làm gì bây giờ? Nhưng Johnsy không trả lời. Trên cõi đời này, cái cô độc nhất
là một linh hồn đang chuẩn bị sẵn sàng để đi xa trên hành trình bí ẩn của nó. Ý
nghĩ đó dường như chế ngự cô mạnh hơn khi từng tí, sợi dây ràng buộc cô với
tình bạn, với thế gian này đang chùng ra. Ngày trôi qua và ngay đến khi trong
ánh hoàng hôn họ vẫn còn thấy chiếc lá trường xuân cô đơn bám chặt lấy thân cây
tựa trên bờ vách. Và rồi khi bóng đêm tràn đến, gió bắc lại lồng lên trong lúc
mưa vẫn nặng hạt quật vào cửa sổ, rơi xuống từ mái hiên thấp kiểu Hà Lan. Lúc trời
vừa hửng sáng, Johnsy tàn nhẫn yêu cầu kéo rèm lên. Chiếc lá trường xuân vẫn
còn đó. Johnsy nằm nhìn nó hồi lâu. Lát sau cô gọi nhẹ Sue, đang nấu cháo gà
cho cô trên cái bếp ga.
- Mình đúng là đồ tệ thật, Sudie à, -
Johnsy nói. - Cái điều đã khiến chiếc lá cuối cùng kia nằm đấy đã cho mình thấy
mình là kẻ nhẫn tâm như thế nào. Muốn chết là tội lỗi. Bây giờ bạn cho mình xin
một tí cháo, ít sữa có pha tí rượng vang, và... khoan đã, đưa cho mình chiếc
gương tay trước rồi sắp mấy cái gối quanh mình, mình sẽ ngồi dậy xem bạn nấu. Một
giờ sau cô nói:
- Sudie à, hôm nào đó mình hi vọng sẽ vẽ
vịnh Naples. Buổi chiều bác sỹ đến, khi ông về, Sue kiếm cớ để theo ra hành
lang.
- Thoát rồi, - bác sỹ nắm bàn tay gầy guộc
run run của Sue và nói. - Bằng tài chăm sóc khéo léo, cô đã chiến thắng. Bây giờ
tôi phải đi thăm một ca khác ở dưới lầu. Behrman, tên ông ấy... tôi chắc đó là
một nghệ sĩ. Cũng bị viêm phổi. Ông ấy đã già yếu mà bệnh tình thì lại nguy kịch.
Không còn hi vọng, nhưng hôm nay ông ấy sẽ nhập viện để được chăm sóc kỹ càng
hơn. Hôm sau bác sỹ bảo Sue:
- Cô ấy đã qua cơn hiểm nghèo. Cô đã thắng.
Bây giờ chỉ cần bồi dưỡng và chăm sóc chu đáo, thế thôi. Chiều hôm ấy Sue đến
bên giường, nơi Johsy đang nằm bình thản đan nhì nhằng chiếc khăn choàng len
xanh thẫm và choàng tay ôm lấy người Johnsy với cả đống gối.
- Mình có chuyện kể đây, chuột bạch này,
- cô nói. - Hôm nay, bác Behrman mất vì viêm phổi ở bệnh viện. Bác chỉ ốm có
hai ngày. Sáng hôm đầu tiên, người gác cổng đã thấy bác quằn quại đau trong
phòng của bác nơi tầng trệt. Giày và quần áo bác ướt sũng, lạnh băng. Họ không
thể hình dung bác đã ở đâu vào cái đêm khủng khiếp như thế. Rồi khi họ tìm thấy
chiếc đèn lồng, hãy còn sáng và cái thang đã bị kéo khỏi chỗ của nó, mấy chiếc
bút lông vương vãi và một bảng pha mầu với xanh vàng hòa lẫn, và... nhìn ra cửa
sổ kia, bạn, chỗ chiếc lá trường xuân cuối cùng ấy. Bạn không ngạc nhiên là tại
sao nó chẳng hề rung rinh hay di chuyển khi gió thổi? Ồ, bạn thân thương ơi, đấy
là kiệt tác của bác Behrman... bác vẽ nó ở đó vào cái đêm chiếc lá cuối cùng
rơi.
O'Henry.