Chương
54: Sợ Nam quân Phúc Kháng An sai sứ bảo giảng hoà. - Giận Bắc Triều, Ngô Thì
Nhậm viết thư bãi cống.
Nói
về Tôn Sĩ Nghị thua trận chạy thoát về Bắc Kinh quỳ trước triều chịu tội. Vừa
Càn Long giậm chân quát:
-
Võ sĩ! Lôi Tôn Sĩ Nghị ra chém tức thì!
Nghị
vã mồ hôi hột, đập đầu van:
-
Xin Hoàng thượng tha mạng. Chẳng phải hạ thần không hết lòng, nhưng vì quân Tây
Sơn hùng mạnh, Nguyễn Huệ chước quỷ mưu thần bất ngờ tiến đánh làm hạ thần trở
tay không kịp. Xin Hoàng thượng minh xét!
Vua
Càn Long nét mặt hầm hầm hỏi:
-
Nguyễn Huệ dùng kế gì mà ngươi gọi là chước quỷ mưu thần, để đến nỗi bốn viên đại
tướng và hai mươi vạn quân phải bỏ thây Nam quốc, làm nhục mệnh của ta?
Nghị
lau mồ hôi đáp:
-
Tâu Hoàng thượng, lúc quân ta kéo sang đưa vua Lê về nước, Nguyễn Huệ bảo quân
bộ Bắc Hà rút về cố thủ ở đường độc đạo là ải Tam Điệp. Trên đường rút, quân
Tây Sơn lại xoá hết bếp lò, vãi gạo ra đường khiến thần ngờ rằng quân Tây Sơn sợ
đến nỗi phải nhai gạo sống mà chạy...
Ngắt
lời Nghị, Càn Long quát:
-
Rồi ngươi dương dương tự đắc vào Thăng Long như chỗ không người nên chẳng đề
phòng chứ gì. Một kế mọn như thế mà cũng lầm để quân ta đại bại. Tội thật đáng
chết.
Tôn
Sĩ Nghị vội tâu:
-
Đến Thăng Long hạ thần vẫn cẩn thận cho quân đóng đồn cảnh giới chờ ăn tết xong
sẽ cất quân vào đánh Huệ. Chẳng ngờ bị trúng khổ nhục kế của Nguyễn Huệ mới
không phòng bị.
Càn
Long nghi ngờ hỏi:
-
Khổ nhục kế như thế nào.
Nghị
cố gắng giảng giải:
-
Nguyễn Huệ sai Trần Danh Bính làm sứ giả đem thư đến xin hàng. Hạ thần tra khảo
Trần Danh Bính hỏi xem Nguyễn Huệ động tĩnh thế nào. Đến lúc chết Bính vẫn một
mực khai rằng Huệ còn ở Phú Xuân đêm ngày lo sợ, sai sứ giả đến xin hàng, nên hạ
thần mới tin rằng Nguyễn Huệ chưa đem quân đến thật mà xao nhãng việc canh
phòng. Xin Hoàng thượng rộng xét.
Vua
Càn Long dịu giọng bảo:
-
Kế khổ nhục là ta tự đánh người của ta, rồi sai đi trá hàng. Kế khổ nhục này là
giả hàng trước, cho địch đánh người của ta, ấy thật là kế lạ xưa nay chưa từng
nghe nói. Nguyễn Huệ thật đa mưu túc trí. Nhưng khi mất Hạ Hồi thì các ngươi đã
biết mà cẩn thận đề phòng, vì sao quân đông gấp ba lần mà thua một?
Nghị
đáp:
-
Nguyễn Huệ sai quân rút khỏi Thăng Long là dùng kế "không thành".
Nhưng Huệ không mai phục bốn phía rồi đổ ra đánh vì sợ lộ, bởi lòng người còn
thương mến nhà Lê. Huệ dùng khổ nhục kế cho thần không đề phòng rồi đưa quân từ
Tam Điệp ra vây thành Thăng Long nên hạ thần trở tay không kịp. Xin Hoàng thượng
tha mạng.
Vua
Càn Long lại vỗ ngai quát hỏi:
-
Binh pháp có câu "Biết người biết ta trăm trận trăm thắng!", thế còn
quân thám mã của ta ở đâu, để đến nỗi Nguyễn Huệ đưa quân vây thành mà không một
ai biết.
Nghị
cố phân trần:
-
Đường từ Tam Điệp đến Thăng Long xa bốn trăm dặm. Đêm ba mươi tết thám mã còn về
báo rằng quân Tây Sơn ở Tam Điệp vẫn án binh bất động, vậy mà đến ngày mùng bốn
tết chúng đã có mặt ở Thăng Long lúc quân ta còn cất gươm cởi giáp chưa tỉnh
cơn say nên trở tay không kịp. Xin Hoàng thượng tha tội!
Càn
Long lại hỏi:
-
Nghĩa là chúng hành binh thần tốc khiến ngươi không lường được phải chăng?
Nghị
đập đầu đáp:
-
Đường đại lộ thì có Trương Triều Long đóng ở Hạ Hồi, Thượng Duy Thăng đóng ở Ngọc
Hồi, nên Nguyễn Huệ mới cho một đạo quân theo đường núi dẫn vào phía Tây thành
Thăng Long. Đường núi này xa ba trăm dặm, dù hành quân ngày đêm không nghỉ,
không dừng lại ăn uống cũng phải hết bốn ngày đường là ít nhất, nên hạ thần
không lường trước được.
Càn
Long lấy làm lạ hỏi:
-
Nguyễn Huệ hành binh bằng cách gì mà nhanh thế?
Nghị
hổ thẹn đáp:
-
Điều này quân ta không một ai hay biết.
Càn
Long quay sang quần thần hỏi:
-
Các ngươi hãy suy nghĩ xem Nguyễn Huệ hành quân bằng cách gì mà không dừng quân
nấu ăn không cho quân nghỉ ngơi mà vẫn mạnh khỏe đánh thắng được quân ta?
Quần
thần xôn xao bàn tán một hồi, Càn Long hỏi bọn quan văn:
-
Các khanh đã nghĩ ra chưa.
Cận
thần là Hoà Thân đáp:
-
Chúng thần vẫn không nghĩ ra. Hoạ mà Nguyễn Huệ có tài sái đậu thành binh.
Càn
Long quay sang hàng quan võ:
-
Còn các khanh thì thế nào?
Võ
quân Phục Khang An tâu:
-
Sách binh thư chúng thần không rành bằng Bệ hạ nên vẫn nghĩ chưa ra.
Càn
Long nghĩ thầm rằng: Thắng bại là lẽ của binh gia, nhưng từ xưa đến nay tướng
thua trận chạy về phải biết được địch đánh thế nào khiến ta thua trận. Nay, việc
Tôn Sĩ Nghị thua trận lại không biết Nguyễn Huệ hành binh như thế nào thì thật
là lạ. Đã không biết người biết ta làm sao thắng được địch.
Tuy
nghĩ vậy, vua Càn Long vẫn lạnh lùng hạ lệnh:
-
Nay ta phong Phúc Khang An làm chánh tướng Thang Hùng Nghiệp làm phó tướng đem
năm mươi vạn đại binh sang nước Nam đánh Nguyễn Huệ báo thù.
Nói
xong Càn Long truyền bãi triều. Đi ngang qua mặt Phúc Khang An vua Càn Long bảo:
-
Binh thư, thao lược khanh giỏi nhất trong các tướng của ta nên ta mới sai khanh
sang đánh Nguyễn Huệ. Vậy có cảm thấy khó khăn điều gì hãy đến gặp riêng ta.
***
Đêm
hôm ấy Phúc Khang An tìm đến yết kiến vua Càn Long. Càn Long hỏi:
-
Khanh gặp khó rồi phải không?
An
đáp:
-
Thần đã học nhiều binh pháp của tiền nhân như Tôn Võ, Ngô Khởi, Khổng Minh,
nhưng có điều chưa rõ nên đến đây thỉnh ý Hoàng thượng trước khi đem quân đánh
Nguyễn Huệ.
Vua
Càn Long bảo:
-
Điều gì khanh cứ hỏi.
An
hỏi:
-
Trong binh pháp câu nào là hệ trọng nhất đối với đạo làm tướng khi đối địch?
Càn
Long đáp:
-
Biết người biết ta trăm trận trăm thắng.
-
Vậy xin hỏi Hoàng thượng: nay ta không biết Nguyễn Huệ hành binh bằng cách gì
mà thần tốc từ cổ chí kim chưa từng có, vậy ta phải đối phó thế nào?
Vua
Càn Long thở dài nói:
-
Không biết người thì sao biết được ta nên làm thế nào để thủ thắng. Chẳng qua
khanh là người tâm phúc của ta nên ta mới sai khanh đánh Nguyễn Huệ để báo thù
đấy thôi.
Phúc
Khang An hỏi:
-
Vậy ý là Hoàng thượng còn cố ý gì chăng?
Càn
Long gật đầu đáp:
-
Ta sai khanh đánh Nguyễn Huệ vì tướng giỏi như khanh tất phải thấy lẽ được thua
nếu lần nữa cất quân. Không đem quân đánh báo thù thì nhục, mà đem quân sang
đánh tất phải thua.
Phúc
Khang An hỏi:
-
Vì lẽ ấy, trước triều Hoàng thượng phải sai thần sang đánh Nguyễn Huệ để thần đến
nhận lệnh riêng của Bệ hạ?
Càn
Long đáp:
-
Nay ngoài mặt khanh cứ nhận lệnh giữa triều chỉnh đốn binh mã. Phía sau lưng
khanh hãy sai sứ sang nước Nam nói với Nguyễn Huệ thế này... thế này... Huệ tất
sẽ dâng biểu cầu hoà. Có biểu của Huệ ta lập tức bãi binh mà không phải hổ thẹn
cùng thiên hạ.
Phúc
Khang An mừng rỡ bái tạ khen:
-
Hoàng thượng thật là cao kiến!
Nói
xong An liền về tư dinh viết thư rồi sai người đem sang Nam quốc.
Phần
vua Càn Long, sau khi Phúc Khang An về rồi, vua ngửa mặt than:
-
Ta ở ngôi đã năm mươi năm, nay tuổi đã bát tuần mà chưa bao giờ gặp phải cảnh
hoà cũng không được mà đánh cũng không xong như thế này. Thật đáng giận thay!
Nói
về sứ giả vâng lệnh Phúc Khang An đến Nam quốc yết kiến vua Quang Trung. Sứ
thưa:
-
Tâu Hoàng thượng, thần là người thân tín của quan tả đạo Giang Tây Thang Hoàng
Nghiệp. Vừa rồi Hoàng đế nước thần sai đại tướng Phúc Khang An và chủ hạ thần
đem năm mươi vạn quân sang nước của Hoàng thượng đánh báo thù cho bọn tướng là
Hứa Thế Hành, Sầm Nghi Đống, Trương Triều Long và Thượng Duy Thăng. Chủ hạ thần
vì không muốn can qua nên sai thần đến đây khuyên Hoàng thượng chủ động cầu hoà
để hai nước tránh khỏi nạn binh đao dân chúng an hưởng thái bình. Xin Hoàng thượng
minh xét.
Vua
Quang Trung xua tay nói:
-
Hoàng đế Càn Long nhà Đại Thanh vốn là vua nước lớn, vừa rồi đem ba mươi vạn
quân sang đánh nước ta bị thua, ắt vì tự ái mà quyết báo thù. Ta e rằng vua Càn
Long không chịu cho hoà. Đã biết thế còn cầu khẩn làm gì thêm hao hơi tốn mực,
ngươi về bảo với Thang Hùng Nghiệp và Phúc Khang An rằng: muốn đánh thì cứ đem
quân sang đây. Nước Nam ta tuy nhỏ nhưng để giữ gìn độc lập không quản ngại chiến
chinh.
Sứ
giả thất kinh nói:
-
Vì muôn vàn sinh linh nên chủ hạ thần mới sai thần đến đây cùng Hoàng thượng
bàn việc hoà bình. Chủ thần xin hiến một kế khiến Hoàng thượng nước thần thuận
ý cho hoà!
Vua
Quang Trung hỏi:
-
Thang Hùng Nghiệp bày kế thế nào?
Sứ
giả đáp:
-
Trong triều đại Thanh của thần có Thái sử Hoà Thân. Thái sư bàn thế nào Hoàng đế
thần đều chuẩn y. Nay Hoàng thượng một mặt lo lót vàng bạc cho Thái sư để Thái
sư nói thêm vào, một mặt Hoàng thượng nể nước lớn hạ mình dâng biểu xin hoà trước
việc ắt sẽ thành.
Nghe
xong vua Quang Trung vỗ ngai quắc mắt quát:
-
Láo xược, Mãn Thanh các ngươi tuy là nước lớn nhưng đối với nước Nam ta là hai
nước hai vua. Ta từ Tây Sơn dấy nghĩa ngang dọc tung hoành, bốn lần vào Nam, ba
lần ra Bắc. Tiêu diệt quân Xiêm La bạt vía Chiêu Tăng, đập tan quân Thanh các
ngươi kinh hồn Tôn Sĩ Nghị. Giúp dân dựng nước, tế cáo trời đất lên ngôi không
chịu thụ phong của vua Càn Long sao ngươi dám bảo phải chịu hạ mình. Quân bay
lôi ra chém!
Sứ
giả thất kinh hồn vía lạy như tế sao rằng:
- Xin
Hoàng thượng tha mạng, thần vì muốn hạ nhục khỏi nạn binh đao mà nói là lời chữ
nào đã dám xúc phạm đến oai võ của Hoàng thượng. Vả lại hai nước đánh nhau
không nên chém sứ. Hoàng thượng không hoà thời thôi sao lại chém thần.
Vua
Quang Trung làm bộ giận dữ hét lớn rằng:
-
Ngươi bảo hai nước đánh nhau không nên chém sứ, vậy tại sao ta sai Trần Danh
Bính đến gặp Tôn Sĩ Nghị xin hoà, đã không cho hoà còn chém sứ của ta?
Sứ
giả sợ đã mất mật gắng sức van xin rằng:
-
Xin Hoàng thượng tha mạng. Hoàng thượng là đấng minh quân lẽ nào lại làm như
Tôn Sĩ Nghị há sao. Xin Hoàng thượng tha mạng.
Vua
Quang Trung cười rằng:
-
Ta vì mong muốn bình an dân quốc mới để cho ngươi được sống. Tránh voi chẳng xấu
mặt nào, ta chịu hạ mình viết biểu cầu hoà, nhưng bạc vàng châu báu nước Nam ta
Tôn Sĩ Nghị đã sang cướp hết cả rồi. Vậy ngươi hãy về thưa cùng Thang Hùng Nghiệp
bảo Tôn Sĩ Nghị đem vàng bạc châu báu mà lo lót cho Hoà Thân. Nếu không bằng
lòng như thế muốn đánh thì cứ kéo quân sang đây!
Sứ
giả hoàn hồn lạy tạ rồi thưa:
-
Đáp ơn Hoàng thượng, thần nào dám không vâng. Đây là thư của chủ thần Thang
Hùng Nghiệp kính trình lên Hoàng thượng.
Tiếp
thư xong vua Quang Trung bảo:
-
Ngươi hãy về thưa cùng Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp, ta xem thư xong sẽ
viết biểu cầu hoà nhờ chủ ngươi chuyển giúp đến vua Càn Long.
Sứ
giả đi rồi, vua Quang Trung mở thư ra đọc. Trong đó có đoạn:
"Xét
họ Lê bên An Nam thuần phục thiên triều đã lâu, một sớm bị họ Nguyễn Tây Sơn
chiếm đoạt mất đô thành, nên Hoàng đế ta phải sai tướng ra ngoài cửa ải khôi
phục đất nước cho họ Lê và cứ cho vẫn được nối chức chịu phong như trước. Chẳng
dè Lê Duy Kỳ vô tài kém đức không làm nên trò trống gì cả cứ chạy trốn hoài, đến
nỗi nhà Lê không ngóc đầu lên được. Từ đây về sau thiên triều quyết chẳng đem
nước An Nam giao cho Duy Kỳ nữa.
Họ
Nguyễn Tây Sơn nhà ngươi nhân trước khi chưa có chỉ dụ, mau mau làm biểu đem
sang đây gõ cửa kêu với Đại Hoàng đế của ta rằng: Lê Duy Kỳ không được dân vọng,
nhân dân bơ vơ và tản đi bốn ngả, bất đắc dĩ thần phải đem binh ra thay nhà Lê
vỗ về bá tánh. Nào ngờ dọc đường gặp quân nhà vua đụng ai giết nấy, tình thế dữ
dội. Nếu chúng thần bó tay chịu trói thì thế nào cũng bị giết sạch. Vì vậy đám
di binh di mục chúng thần phải hết sức chống cự, tự biết như thế là tội nặng lắm.
Cúi xin Đại Hoàng đế đoái thương mọi rợ không biết gì mà tha thứ cho.
Nếu
các ngươi biết điều nói như thế chắc được Đại Hoàng đế soi xét lòng thành mà
cho chủ trì việc nước.
Thuận
theo thì được phúc, trái nghịch vạ vào thân. Tuỳ ngươi định đoạt".
Đọc
đến đây vua Quang Trung cười rằng:
-
Quả nhiên Càn Long vì sợ thua nên mới bảo Phúc Khang An sang khuyên ta cầu hoà
trước để giữ thể diện thiên triều. Vậy là kế tha Tôn Sĩ Nghị để doạ Càn Long của
ta đã có tác dụng rồi đó.
Ngô
Thì Nhậm hỏi:
-
Đây phải chăng là ý của Phúc Khang An vì sợ phải cất quân sang bỏ thây ở nước
Nam ta nên tự sai sứ để bảo ta cầu hoà, chứ lý đâu lại là lệnh của Càn Long?
Vua
Quang Trung cười bảo:
-
Nếu không có lệnh của Càn Long mà Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp làm là khi
quân sao tránh khỏi mất đầu. Mà việc bang giao giữa hai nước phải đâu là việc
nhỏ. Phúc Khang An tất phải biết rằng sớm muộn gì cũng lộ việc lại dám làm ư?
Ngô
Thì Nhậm và Trần Văn Kỷ cùng tâu:
-
Hoàng thượng anh minh. Quả nhiên là Càn Long sợ thua mới làm thế thật.
Vua
Quang Trung bảo quần thần rằng:
-
Mãn Thanh là nước lớn gấp mười lần ta. Ta tạm thời nhịn họ, đợi ta dưỡng uy sức
nhuệ, nước mạnh dân giàu rồi sẽ cất quân sang đánh chúng lấy lại đất Lưỡng Quảng
trước kia là của nước Nam ta về sau người Tàu đoạt đi. Nay dù nhịn chúng để giảng
hoà nhưng không vì thế mà chịu nhục. Bọn chúng bảo ta là mọi rợ, ta viết thư miệt
thị chúng xem chúng đã làm gì ta nào.
Nói
xong vua Quang Trung liền sai lấy bút nghiên ra viết thư. Viết xong vua trao
Ngô Thì Nhậm và bảo:
-
Đây là thư ta gửi riêng Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp. Còn viết biểu gửi
Càn Long xin hoà ta giao cho Ngô Thì Nhậm được trọn quyền lo liệu. Trong cương
có nhu, cương nhu phải lúc, không được làm nhục quốc thể nước Nam ta. Nay ta
rút đại binh về Phú Xuân - giao cho Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết
trong coi võ bị, việc ngoại giao với nhà Thanh giao cho Ngô Thì Nhiệm. Hãy nhớ
không được làm nhục mệnh của ta.
Đoạn
vua Quang Trung rút đại binh về Phú Xuân.
Phúc
Khang An và Thang Hùng Nghiệp nhận được thư vua Quang Trung liền giở ra đọc.
Trong thư có đoạn:
"Ôi!
Quân tinh cốt ở hoà thuận không cốt đông, cần tinh nhuệ không cần nhiều. Người
khéo thắng là ở chỗ rất mềm dẻo chứ không phải lấy mạnh đè yếu, nhiều hiếp ít.
Ví bằng chút tình trước không được bày tỏ, thiên triều không khoan dung một
chút cứ muốn động binh gây chiến, thế là làm cho nước nhỏ không được phụng sự nước lớn thì bây giờ đại quốc bảo gì tôi cũng xin vâng theo mà thôi".
Đọc
đến đây Phúc Khang An hỏi:
-
Nguyễn Huệ nói vậy là ý thế nào?
Nghiệp
đáp nhỏ rằng:
-
Đại ý nói rằng nếu ta muốn đánh thì hắn sẽ đánh cho mà xem. Còn viết như vậy chẳng
qua là dùng lời hoa mỹ cho ra vẻ cũng thuận mà thôi.
Phước
Khang An giận dữ bảo:
-
Nguyễn Huệ thật vô lễ, dám coi khinh thiên triều không có tướng giỏi hay sao.
Thật là đáng giận! Còn việc lo lót cho Hoà Thân, Huệ liệu thế nào?
Nghiệp
đáp:
-
Huệ bảo sứ ta về bẩm lại rằng: vàng bạc trong nước Tôn Sĩ Nghị đã cướp hết cả
đi nên hắn không còn gì để lo lót. Hắn nhờ ta bảo Tôn Sĩ Nghị cho xin vàng bạc
lo lót cho Hoà Thân để xong việc nghị hoà.
An
nổi giận vỗ án quát:
-
Thật là láo xược. Nếu đã thế ta xua năm mươi vạn quân sang đánh xem ai thắng ai
bại cho hay.
Nghiệp
vội can:
-
Xin tướng quân bớt giận. Nếu ta không lo xong việc giảng hoà thì tôi e mạng
không còn giữ được, nói gì đến việc cầm quân đánh Nguyễn Huệ.
An
hỏi:
-
Ông nói vậy nghĩa là sao.
Nghiệp
đáp:
-
Ta viết thư sai sứ sang bày hắn xin hàng, bức thư ấy Nguyễn Huệ còn giữ. Nay nếu
ta giận mà bỏ việc nghị hoà ngộ nhỡ Huệ đưa thư ấy cho vua ta. Vua ta tất sẽ bắt
tội ta làm nhục quốc thể thì liệu tôi và tướng quân có thoát chết được chăng.
Phúc
Khang An nghĩ thầm rằng, ta nhận mật lệnh của vua nói với Thang Hùng Nghiệp rằng
riêng ta chủ việc nghị hoà, nên Nghiệp mới ngờ rằng ta kháng mệnh khi quân làm
nhục quốc thể.
Nghĩ
rồi Khang An ngửa mặt than:
-
Từ cổ chí kim chưa từng nghe nói thiên tử phải nhịn nước nước Nam nhỏ bé như thế
bao giờ!
Than
xong, liền vào triều yết kiến vua Càn Long. Phúc Khang An quỳ tâu:
-
Muôn tâu Hoàng thượng, binh pháp có câu: Biết người biết ta trăm trận trăm thắng.
Nay quân ta nghe Nguyễn Huệ đánh tan ba mươi van quan trong năm ngày khiến Tôn
Đại tướng quân người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp đóng yên phải quăng cả
sắc thư ấn tín chạy về nước nên lòng người đều nao núng. Còn quân Nam khí thế
đang hăng, muôn người như một e rằng ta sang đánh chưa hẳn đã dễ dàng thủ thắng.
Ấy là một lẽ. Nay sắp sang mùa hạ, nước An Nam đầy lam sơn chướng khí, quân ta
là người phương Bắc không hạp phong thổ tất sinh bệnh tật. Ấy là hai lẽ. Bởi
hai lẽ bất lợi ấy mà nhân lúc Nguyễn Huệ cầu hoà, Hoàng thượng nên chuẩn tấu để
tránh sự can qua. Đó là làm sáng tỏ đức độ của Hoàng thượng vậy. Đây là tờ biểu
cầu hoà của Nguyễn Huệ, kính trình lên Hoàng thượng. Xin Hoàng thượng duyệt
lãm.
Vua
Càn Long tiếp tờ biểu trên tay Phúc Khang An mà nét mặt chẳng vui, không muốn mở
ra xem. Thấy vậy Hoà Thân bước ra quỳ tâu:
-
Lời Phúc Khang An rất phải. Xin Hoàng thượng minh xét.
Vua
Càn Long đổi giận làm vui giơ biểu ra xem. Trong đó có đoạn:
"Ôi!
Kể ra nhân dân ở gốc biển này ai chẳng là con đỏ của thiên triều. Đại Hoàng đế
là bậc thay trời hành đạo há lại ưa viển vông ham công lợi mà gây sự với nước
nhỏ ở biên cương khiến dân nước tôi phải sa vòng tên đạn.
Ôi!
Cứ kể nhân sĩ giáp binh ở một dải bờ biển này sánh cùng Đại quốc không được một
phần muôn. Những sông sâu trước mặt, cọp dữ sau lưng nên lòng người sợ chết tất
ai cũng phải cố gắng hăng hái! Bởi thế nên thần không tránh được tiếng quăng
chuột bể đồ bèn đem năm ba tên trai tráng trong làng ra Bắc.
Mùng
Năm tháng Giêng năm Kỷ Dậu thần tiến đến Lê Thành, những mong Tôn Sĩ Nghị nghĩ
lại, hoạ may đem đồ ngọc lụa thay đồ can qua, đổi binh xa làm hội xiêm áo. thần
nhũn nhặn xin bái yết, Nghị không thèm trả lời.
Quá
bữa sau quân Nghị xông ra đánh trước, vừa mãi giao phong đã đổ vỡ chạy tan bốn
ngã đè lên nhau mà chết. Thây phơi đầy đồng nội, xác dồn dập nghẽn sông. Còn những
quân chạy trốn các thôn trang thì bị dân đánh giết gần hết, chứ thần nào đánh đấm
gì đâu? Ấy là do Tôn Sĩ Nghị không dùng quân kỷ để chúng hiếp gái cướp chợ làm
cho muôn dân căm hận đến tận xương tuỷ mà ra.
Trộm
nghĩ: Việc binh đao là bất đắc dĩ của thánh nhân. Đại Hoàng đế thâm nghiêm ngủ ở
cửu trường, những chuyện cương thường ở biên cương Tôn Sĩ Nghị không hề tâu rõ,
Hắn che lấp tai mắt nhà vua làm cho mọi sự rối ren như thế. Châu chấu đá xe thần
thật không dám. Song cửa vua xa cách muôn dặm thần bị kẻ ở biên thần hiếp đáp
không sao nhịn nổi nên hình tích mới dường như chống cự.
Nay
lòng trời đã chán nhà Lê. Xét nghĩ Đại Hoàng đế là bậc theo ý trời ban trị hoá.
Xin ngài theo lẽ tự nhiên thứ cho cái tội đánh Tôn Sĩ Nghị, lập kẻ tư mục này để
chăn dân, dựng nước phên dậu để vững thế, ban ơn mệnh cho thần được làm An Nam
Quốc Vương đứng làm bình phong ở phía Nam, giữ cái chức phiên mục khiến cho bản
quốc có người cầm đầu cai quản vậy".
Đọc
xong vua Càn Long nói:
-
Tờ biểu này lời văn khiêm tốn, lý lẽ sắc bén, hào khí tiềm ẩn. Nguyễn Huệ thật
là người tâm thì hoà, thần thì minh, mà tính thì dũng vậy. Nhưng nếu ta đồng ý
bãi binh thuận hoà hoá ra ta là nước lớn mà sợ nước nhỏ hay sao?
Hoà
Thân bàn rằng:
-
Hoàng thượng buộc Nguyễn Huệ phải cống hai người vàng như triều Lê lúc trước,
Nguyễn Huệ muốn hoà tất phải bằng lòng. Vậy ta chiếm thế thượng phong không sợ
mang tiếng nước lớn mà sợ nước nhỏ. Nguyễn Huệ vội vã nộp cống người vàng còn cảm
ơn ta tha mà không đánh.
Vua
Càn Long khen:
-
Kế của khanh khiến ta vừa được ơn vừa được lợi, nhất cử lưỡng tiện thật là diệu
kế.
Nói
xong vua Càn Long liền sai viết chiếu cho sứ giả đem sang Nam quốc.
Vua
Quang Trung nhận được thư vua Càn Long liền cho vời Ngô Thì Nhậm và Trần Văn Kỷ
đến hỏi:
-
Càn Long thuận hoà nhưng ra điều kiện buộc ta phải nộp cống hai người vàng như
triều Lê thuở trước. Khanh trước là tôi nhà Lê, vậy việc này là như thế nào.
Nhậm
đáp:
-
Ba trăm năm trước vua Lê Thái Tổ khởi binh Lam Sơn đánh đuổi quân Minh xâm lược
giành độc lập cho nước ta có giết hai viên đại tướng của quân Minh là Liễu
Thăng và Lương Minh ở tại Chi Lăng. Sau vua Lê Thái Tổ xin hoà, nhà Minh buộc
vua Lê phải đền hai người vàng to bằng người thật hàng năm nộp cống để đền mạng
cho Liễu Thăng và Lương Minh. Vua Lê Thái Tổ ta vì muốn tránh binh đao nên phải
tuân theo. Về sau thành lệ. Nay Càn Long bù ta phải theo lệ ấy mới thuận cho
hoà để thu lợi lớn.
Vua
Quang Trung gằn giọng bảo:
-
Thật là vô lý! Bọn chúng sang xâm lược nước ta tàn hại dân ta, chết là đáng lắm,
chúng không đền mạng cho dân ta thời thôi, sao ta lại đi đền mạng cho chúng? Muốn
hoà thời hoà, muốn đánh thời đánh, nhất định không nộp cống người vàng.
Các
tướng Đặng Văn Long, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong, Vũ Văn Dũng, Võ Đình Tú,
Nguyễn Văn Lộc, Trần Quang Diệu cùng đứng lên nói:
-
Lời Hoàng thượng rất phải. Việc giảng hoà nhờ tài Ngô tiên sinh. Nếu họ không
hoà đã có Tây Sơn thập hổ chúng thần và Hoàng thượng lo liệu. Nhất định không
chịu cống người vàng.
Ngô
Thì Nhậm nhìn các tướng rồi hỏi:
- Ở
đây chỉ có bảy vị tướng quân sao bảo là Tây Sơn thập hổ tướng?
Vua
Quang Trung cười đáp:
-
Thế ba người đang trấn thủ Bắc Hà là Văn Sở, Văn Lân, Văn Tuyết lại không phải
là hổ tướng hay sao? Mười tướng này từ ngày khỏi binh ở Tây Sơn đến nay được bá
quan tặng danh hiệu là Tây Sơn thập hổ đại tướng quân đó!
Vỡ
lẽ, Ngô Thì Nhậm nói:
-
Hồng hạc bay cao nhờ vây cánh. Chính nhà Tây Sơn nhờ thập hổ tướng mà Hoàng thượng
điều binh thần tốc khiến tướng thiên triều phải thất kinh hồn vía mà xui ta giảng
hoà. Thần xin cố sức múa bút cầu hoà nhưng không nộp cống người vàng. Nhất định
không phụ mệnh Hoàng thượng và làm nhục quốc thể nước Nam ta.
Nói
xong Nhậm liền lấy bút nghiên ra viết biểu. Viết xong dâng vua. Xem rồi vua
Quang Trung khen:
-
Giọng văn của tiên sinh viết đúng ý như phong thái của ta. Thật hiểu ta không
ai bằng tiên sinh vậy. Tiên sinh làm cách nào mà viết đến mức xuất thần như thế
được?
Nhậm
vô tình đáp:
-
Người hành văn muốn viết xuất thần phải biết hoá thân. Khi mượn danh Hoàng thượng
viết biểu, hạ thần hoá thân tư tưởng mình là Hoàng thượng nên mới viết được lời
của Hoàng thượng đó.
Vua
Quang Trung rót một chung rượu thưởng cho Ngô Thì Nhậm. Đoạn vua đóng ấn triện
vào tờ biểu ấy và sai sứ sang Mãn Thanh trao cho vua Càn Long, đoạn vua truyền
bãi triều.
Ra
ngoài Trần Văn Kỷ nói riêng với Ngô Thì Nhậm rằng:
-
Ông là danh sĩ người trong nước đều biết tiếng sao trước mặt vua nói không biết
giữ lời, muốn mất đầu hay sao chứ?
Nhậm
lại hỏi Văn Kỷ:
-
Tôi nói gì mà bảo là muốn mất đầu?
Kỷ
đáp:
-
Ông bảo rằng tư tưởng mình là Hoàng thượng thì không phải là đáng tội chết ư? Nếu
một mai thất sủng thì thế nào?
Ngô
Thì Nhậm cười đáp:
-
Hoàng thượng là người khoan dung rộng lượng đời nào cố chấp chuyện vô tình.
Kỷ
hỏi:
-
Ông tự cho rằng mình thấu hiểu Hoàng thượng đến thế sao.
Nhậm
đáp:
-
Nếu không thấu được lòng vua sao tôi có thể viết biểu cho Càn Long y như là lời
và ý của vua được.
Nói
xong Nhậm cáo biệt ra về. Trần Văn Kỷ vào gặp vua Quang Trung rồi quỳ tâu:
-
Xin Hoàng thượng tha tội cho Ngô Thì Nhậm.
Vua
Quang Trung cười hỏi:
-
Ta có bắt tội Nhậm bao giờ sao khanh lại vào xin tội?
Kỷ
đáp:
-
Lúc nãy trong triều Ngô Thì Nhậm có nói câu "tư tưởng làm Hoàng thượng."
Xét theo lý là khi quân muốn ngang hàng với vua, nhưng xét theo tin là lời ngay
thật của kẻ cầm bút. Xin Hoàng thượng chớ để tâm làm gì.
Vua
Quang Trung cười mà nói:
-
Cảm ơn khanh đã dùng lời trung thực mà can gián trẫm. Nhưng trẫm đây há lại chẳng
biết rằng kẻ sĩ muốn mệnh danh người nào để hạ bút xuất thần tất phải hoá thân
làm người đó hay sao? Trẫm đời nào lại để tâm vì câu nói vô tình của Ngô Thì Nhậm
chứ!
Trần
Văn Kỷ ra về than rằng:
-
Ta hãy còn thua Ngô Thì Nhậm một bậc vậy.
Nói
về vua Càn Long nhận được biểu của Nam Vương bèn giở ra xem. Biểu đại ý rằng:
"Từ
ngàn xưa đến nay Đại quốc với An Nam đã phân hai nước rõ ràng, tiếng nói phong
tục đều khác, bờ cõi cương vực đã chia. Vậy nên sau khi đuổi nhà Minh lấy lại
nước xong, vua Lê Thái Tổ có viết trong bài Bình Ngô Đại Cáo rằng: "Từ
Đinh, Lê, Lý, Trần bao đời gây nên độc lập. Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi
bên hùng cứ một phương". Chứng tỏ ý trời và lòng người đều muốn định phân
địa lợi. Nhà Minh vì trên cãi ý trời, dưới nghịch lòng người mới đem Bắc quân
xâm phạm Nam quốc. Đâu chính đâu tà, thần tôi trộm nghĩ dù không biện luận
nhưng anh minh như Đại Hoàng Để tất đã thấu rõ. Bởi không được thiên thời, địa
lợi, nhân hoà nên nhà Minh mới bại binh ở Nam Quốc. Vua Nam là Lê Thái Tổ thấy
nước mình bé nhỏ sợ nước lớn hiếp đáp mới phải cầu hoà. Nhà Minh nhân cơ hội ấy
muốn việc hai tướng Lương Minh và Liễu Thăng tử trận tại ải Chi Lăng mà buộc
Nam quốc đúc hai người vàng, hàng năm nộp cống để đền mạng cho hai tướng ấy, mới
thuận cho hoà. Người Nam vì bắt đắc dĩ mới bỏ vàng bạc ra mua sự sống cho mình.
Nhưng còn thượng quốc nhận cống người vàng thì điều phải trái nên suy nghĩ như
thế nào? Nay Đại Hoàng đế lệnh cho thần hàng năm phải nộp cống người vàng theo
lệ nhà Lê thuở trước, mới thuận cho hoà. Thiết nghĩ nước thần nghèo, chinh chiến
triền miên, vả lại vừa rồi Tôn Sĩ Nghị kéo quân sang đây thả sức vơ vét khiến
tài vật trong nước nay đã cạn kiệt mà mỗi năm phải kiếm cho ra bốn vạn lượng
vàng đúc người nộp cống thật là quá sức. Trong lúc dân nước thần chưa an cư lạc
nghiệp, người người đói khát mà thần buộc phải vơ vét để nộp cống cho thượng quốc
thử hỏi nhân đạo như Đại Hoàng Để không đau lòng sao được? Thậm chí, Đại Hoàng
Để bắt phải đúc bốn người vàng thế mạng cho Hứa Thế Hành, Thượng Duy Thăng,
Trương Triều Long, Sầm Nghi Đống hàng năm nộp cống thì dân nước thần ắt là phải
chết. Còn nếu không nộp, Đại Hoàng Bé sai tướng sang bắt tội cũng không sống được.
Vậy dân thần xin chọn cái chết nhàn hơn, mau hơn và vinh hơn. Xin Đại Hoàng Để
nghĩ lại mà tha cho tội không nộp cống người vàng".
Đọc
xong vua Càn Long tấm tắc khen:
-
Ta đã từng ngao du bốn cõi, kết giao hào kiệt mười phương nhưng chưa từng gặp
người nào anh hùng như Nguyễn Huệ cả. Nếu ta không thuận hoà hoá ra ta là kẻ
không biết điều nhân đạo hay sao.
Nói
xong vua Càn Long bèn bãi lệ cống người vàng và tự tay viết chiếu phong Nguyễn
Huệ làm An Nam quốc vương.
Vua
Quang Trung nhận được chiếu rồi bèn cười nói với Ngô Thì Nhậm và Trần Văn Kỷ:
-
Nay ta hoà được với Mãn Thanh và bỏ lệ cống người vàng mà nước Nam ta đã gánh
chịu suốt ba trăm năm. Ấy là một thắng lợi lớn vậy. Ta đọc sử nghe rằng đất lưỡng
Quảng xưa kia là của nước Nam ta, về sau người Tàu đuổi người Nam đi mà lấy đất
ấy. Điều này có hay chăng?
Kỷ
đáp:
-
Thưa, đúng là như vậy!
Vua
lại hỏi:
-
Hai khanh đều là danh sĩ làu thông kinh sử, vậy ta hỏi hai khanh: từ xưa đến
nay nước Nam ta đã có ai dám đánh nước Tàu chưa?
Ngô
Thì Nhậm đáp:
-
Thưa, đã có nhiều ví như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo đều có công đánh quân
Tàu giữ nước. Gần đây có vua Lê Thái Tổ đuổi quân Minh cũng là đánh quân Tàu cả.
Vua
Quang Trung cười hỏi:
- Ấy
là người Tàu sang xâm lược nước ta rồi ta mới đánh. Trẫm muốn hỏi đã có ai đem
quân sang đánh nước Tàu chưa?
Trần
Văn Kỷ đáp:
-
Hơn ngàn năm trước có Triệu Đà làm vua nước Nam Việt gồm cả đất Lưỡng Quảng đã
đem quân sang đánh quân Trường Sa nước Tàu, sau Lưỡng Quảng mất về tay người
Tàu. Đời Lý có Đại tướng Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem quân sang đánh Lưỡng Quảng
cũng là sang đánh nước Tàu vậy!
Vua
hỏi:
-
Đánh Tàu rồi thắng bại thế nào.
Trần
Văn Kỷ và Ngô Thì Nhậm không biết ý vua muốn nói gì nên đưa mắt nhìn nhau. Nhậm
dè dặt đáp:
-
Hai người ấy sang đánh Tàu được toàn thắng nhưng phải vội kéo quân về.
Vua
lại hỏi:
-
Thế có ai sang đánh rồi chiếm đất của nước Tàu hay chưa?
Trần
Văn Kỷ đáp:
-
Việc này xưa nay chưa ai làm được.
Vua
Quang Trung vụt đứng lên vỗ án nói:
-
Đợi vài năm nữa ta sẽ sang đánh và chiếm đất Lưỡng Quảng xưa là đất của nước
Nam ta cho các khanh xem. Nhưng trước tiên cần phải tiêu diệt Nguyễn Phúc Ánh ở
miền Nam, sau đó sẽ điều toàn binh ra Bắc đánh Mãn Thanh.
Nghe
vua Quang Trung nói xong Trần Văn Kỷ và Ngô Thì Nhậm một lần nữa đưa mắt nhìn
nhau trong lòng hoài nghi mà không dám nói.
xem tiếp: * Chương 55: Không phục kẻ thù, Nguyễn Phúc Ánh bị ngất. - Hiểu được bụng Chúa, Lê Văn Quân phải chết.
xem tiếp: * Chương 55: Không phục kẻ thù, Nguyễn Phúc Ánh bị ngất. - Hiểu được bụng Chúa, Lê Văn Quân phải chết.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...