Chương
29: Nguyễn Hữu Chỉnh cùng đường theo về Tây Sơn. - Chu Văn Tiếp thua binh chạy
sang Xiêm Quốc.
Nói
về chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Ngày ấy nhận thấy trong người sảng khoái, Trịnh Sâm
liền bảo với phi tần Đặng Thị Huệ:
-
Nhờ sứ giả của Tây Sơn Nguyễn Nhạc bày kế triệu Bùi Thế Đạt và Lê Quý Đôn về để
nhờ tướng quý của hai người này xua đuổi yêu ma. Từ ấy đến nay ta không thấy hồn
Duy Vỹ theo báo oán nữa. Thật là trời giúp ta vậy!
Sâm
vừa dứt lời, quân vào báo:
-
Tâu Chúa thượng, lão tướng Bùi Thế Đạt và đại học sĩ Lê Quý Đôn lâm trọng bệnh
qua đời.
Sâm
giật mình hỏi:
-
Hai người ấy mất lúc nào?
Quân
đáp:
-
Bùi tướng quân mất giờ Hợi. Đại học sĩ mất giờ Tý. Cùng trong một đêm.
Sâm
ngửa mặt than:
- Ôi! Trời đã hại ta rồi!
Đêm
ấy, Trịnh Sâm đang mơ màng giấc điệp bỗng thấy Thái tử Vỹ mặc hoàng bào, chân
đi giầy tía khoanh tay đứng trên đầu giường nhìn chằm chạp vào mắt mình, Sâm
kinh khiếp la hoảng giữa đêm khuya. Từ ấy về sau không đêm nào Trịnh Sâm ngủ
yên được, thần sắc xanh xao, thân hình tiều tuỵ. Biết mình không sống được, Trịnh
Sâm gọi Đặng Thị Huệ vào cạnh giường nói:
-
Trước khi chết ta muốn viết di chiếu phế con lớn là Trịnh Khải, truyền ngôi cho
con nàng là Trịnh Cán. Nhưng ngặt nỗi Trịnh Cán tuổi còn nhỏ, vả lại việc phế lập
sau khi ta chết e rằng triều đình sinh biến, vậy phải cậy ai cho yên việc bây
giờ?
Đặng
Thị Huệ khóc thưa:
-
Trong các tướng giỏi kể từ khi Việp quận công mất đi, chỉ có Huy quận công
Hoàng Đình Bảo là hùng tài mọi người đều sợ phục. Nay Hoàng Đình Bảo đang trấn
thủ đất Nghệ An, Chúa thượng nên triệu hồi Bảo về giao trọng trách thì lo gì
không xong việc.
Sâm
bảo:
-
Lúc Tiên vương khởi binh đánh họ Mạc khôi phục cơ đồ cho nhà Lê Trung Hưng là ở
đất Nghệ An nhờ dân binh ở xứ này mà làm nghiệp cả. Binh ở phủ Nghệ An, Thanh
Hoá, Hà Tĩnh có công nên được gọi là lính "Tam phủ ưu binh". Bọn ưu
binh ở kinh thành cậy có công lại thường hay làm loạn. Dân Nghệ An cậy có công
lại thường hay yêu sách coi thường phép nước. Bởi vậy ta mới để Hoàng Đình Bảo
trấn thủ Nghệ An, dùng uy mà ủy lạo dân chúng.
Ta
há chẳng biết Hoàng Đình Bảo là kẻ hùng tài sao? Nay nếu triệu Hoàng Đình Bảo về
kinh thì phải cử ai vào thay Hoàng Đình Bảo trấn thủ Nghệ An?
Thị
Huệ đáp:
-
Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc có một người em rể là trung Hầu Vũ Tá Dao. Chúa
thượng nên cho người này vào thay Hoàng Đình Bảo. Vả lại thủ hạ của Đình Bảo là Hữu tham quân nắm giữ binh ở Nghệ An tên là Nguyễn Hữu Chỉnh lại là em rể Vũ Tá
Dao. Nay cho Vũ Tá Dao vào trấn Nghệ An cùng Nguyễn Hữu Chỉnh thì kẻ mới người
cũ đều là anh em một nhà dễ dàng cộng sự với nhau hơn, ta không phải lo biến loạn
ở trấn xa.
Trịnh
Sâm khen phải, làm y theo lời Đặng Thị Huệ. Huy quận công Hoàng Đình Bảo về đến
kinh thành liền vào yết kiến chúa Trịnh, Trịnh Sâm giao di chiếu cho Bảo rồi
truyền:
-
Khanh hãy vì ta hết lòng phó Trịnh Cán lên kế vị. Có vậy ta mới yên lòng nhắm mắt.
Nói
xong Sâm chết. Ấy là vào tháng chín năm Nhâm Dần niên hiệu Lê Cảnh Hưng thứ bốn
mươi ba. Sâm chết khi tròn bốn mươi bốn tuổi.
Triều
đình lo hậu sự của Trịnh Sâm xong, Huy quận công Hoàng Đình Bảo bèn phò Trịnh
Cán, lúc ấy mới sáu tuổi lên thay quyền kế vị. Lúc bấy giờ các quan trong triều
thấy Đình Bảo làm điều phế lập, Trịnh Cán lại còn nhỏ tuổi nên lắm người không
phục. Huy quận công Hoàng Đình Bảo, (người đương thời thường gọi là Quận Huy),
hay qua lại bên cung Chánh cung Đặng Thị Huệ bàn bạc việc giữ ngôi cho ấu chúa
Trịnh Cán. Một hôm từ cung Đặng Thị Huệ về, Huy quận công Hoàng Đình Bảo nghe
quân báo:
-
Thưa Quận công, dân chúng trong thành đặt lời ca phản nghịch ạ!
Bảo
nhíu mày hỏi:
-
Lời ca thế nào là phản nghịch?
Quân
lấm lét cúi đầu thưa:
-
Dân chúng khắp kinh thành đều ca rằng:
Trăm
quan có một như mù
Để
cho Huy quận vào rờ chính cung
Xin
tâu cùng quận công định liệu.
Đình
Bảo vỗ án quát:
-
Đứa nào dám cả gan đặt lời càn rỡ. Ngươi hạ truyền lệnh ta sai quân mỗi người
đem theo một cái móc đi khắp kinh thành, hễ nghe ai ca lời ấy đem móc kéo lưỡi
ra mà cắt cho ta.
Quân
vâng lệnh đi lùng sục tìm người ca lời ấy trị tội. Bỗng một cụ già say rượu ngất
ngưỡng hát:
Trăm
quan có một như mù
Để
cho Huy quận vào rờ chính cung
Quân
lính nghe thấy liền dùng móc kéo lôi cụ già ra cắt rời lưỡi đi. Cụ già ôm miệng
máu chạy về nhà rồi chết. Con ông già ấy tên Nguyễn Bằng làm chức biện lại
trong quân "tam phủ ưu binh". Thấy cha chết thảm Nguyễn Bằng giận căm
gan, liền tụ họp mấy người có uy tín trong quân tam phủ ưu binh, Nguyễn Bằng
nói:
-
Tiên chúa mới mất quận Huy đã tư thông với Chánh cung Đặng Thị Huệ, bỏ trưởng lập
thứ. Trịnh Cán còn nhỏ, quyền hành ở trong tay quận Huy, quận Huy lại là người
cương cường thường hay đối nghịch với tam phủ ưu binh ta, e rằng ta không thể
yêu sách như lúc trước được. Chi bằng ta rủ nhau vào phủ chúa giết Hoàng Đình Bảo.
Phế thứ Trịnh Cán, lập trưởng Trịnh Khải lên ngôi chúa thì sau này bọn ta muốn
gì mà không được!
Mấy
người kia khen phải. Nguyễn Bằng nói lại:
-
Vậy chúng ta hãy chia nhau vận động khắp trong quân tam phủ. Hẹn ngày mai đến
trước phủ chúa đánh ba hồi trống, mọi người nghe trống lệnh hãy xúm lại giết quận
Huy.
Hôm
sau vừa tờ mờ sáng, nơi phủ chúa bỗng nghe ba hồi trống vang dội khắp nơi. Quân
tam phủ tụ tập gần đó liền kéo đến vây phủ chúa, đông đến vài ngàn người. Quân
vào phi báo cùng Hoàng Đình Bảo. Bảo mặc giáp cầm gươm mang cung tên lên voi dẫn
theo vài mươi quân hộ vệ ra trước điện chúa. Bảo tuốt gươm quát:
-
Ai xui các ngươi làm điều càn rỡ khinh lờn phép nước. Nay ta bảo các ngươi ai ở
đâu thì về nơi ấy, ta sẽ tâu vua bỏ qua việc này, nếu không tội chết khó dung.
Quân
tam phủ vốn sợ oai Hoàng Đình Bảo, vả lại không người chỉ huy ai nấy đều khép
nép lui ra. Nguyễn Bằng lại nói với đồng bọn:
-
Quận Huy tuy là người hữu dũng nhưng trong tay chỉ có mấy mươi cận vệ thì làm
gì được bọn ta. Nếu ta không làm tới nơi tới chốn mà nghe lời hắn bỏ đi, rồi hắn
phụng mệnh chúa điều binh các trấn về bắt bọn ta, chừng ấy ai bênh vực cho bọn
ta được?
Quân
tam phủ nghe Bằng nói xong nhao nhao:
-
Phải đó! Phải đó! Chỉ có lập chúa mới thì bọn ta đã vô tội lại còn có công. Mau
xông lên giết chết quận Huy.
Nói
xong muôn người như một nhất tề xông lên. Hoàng Đình Bảo thấy thế lấy cung mà bắn
chẳng ngờ cung gãy, lấy súng nạp đạn mà bắn thuốc, đạn đốt lại không cháy. Bảo
bèn vung gươm ngồi trên bành voi chém xuống, quân tam phủ chết vài mươi người.
Bọn chúng liền dùng móc câu kéo Đình Bảo té xuống đất đâm chết. Chúng chia người
đi đón Trịnh Khải để trên chiếc mâm đồng khiêng sang phủ chúa đặt lên ngai. Trịnh
Khải nhờ quân tam phủ làm loạn được lên ngôi chúa xưng là Đoan Nam Vương, phế Trịnh Cán xuống làm Cung quận công. Đoan Nam Vương lại sai quân tam phủ đi lùng
bắt đồng bọn của Hoàng Đình Bảo mà giết. Bọn lính tam phủ thừa dịp ấy đi khắp
trong thành ngoại nội cướp bóc của nhân dân. Tiếng kêu oán thán vang dậy đất trời.
Lúc
bây giờ thủ hạ của Hoàng Đình Bảo có một người tên là Nguyễn Viết Tuyển trốn
thoát được chạy vào Nghệ An tìm gặp Nguyễn Hữu Chỉnh, nói:
-
Thưa tướng quân, bọn kiêu binh ở kinh thành nơi đây giết chết Huy quận công, bắt
Thái phi Đặng Thị Huệ giam vào ngục, phế chúa Trịnh Cán xuống làm Cung quận
công, phò Trịnh Khải lên ngôi chúa xưng là Đoan Nam Vương. Sớm muộn gì Đoan Nam
Vương cũng mật chiếu sai người vào bắt tướng quân vì tôi và tướng quân đều là
người của Huy quận công. Tôi may thoát được vào đây báo cùng tướng quân hãy lo
liệu sớm.
Chỉnh
liền giấu Nguyễn Viết Tuyển trong nhà rồi sang dinh trấn thủ Nghệ An là Dao
trung Hầu, Vũ Tá Dao. Chỉnh hỏi Dao:
- Ở
kinh thành quân tam phủ đã giết chết quận Huy, phế Trịnh Cán, lập Trịnh Khải
làm Đoan Nam Vương, chẳng hay trung hầu đã biết chưa?
Vũ
Tá Dao thở dài đáp:
-
Nay lại có việc này nữa sao? Thật triều đình không còn kỷ cương gì nữa cả. Từ
xưa đến nay chưa từng nghe nói quân lính nào lại nổi loạn giết vua quan như bọn
tam phủ này cả. Rồi sự việc thế nào?
Chỉnh
đáp:
-
Đoan Nam Vương sai người tìm giết phe đảng của Huy quận công Hoàng Đình Bảo, ắt
sớm muộn gì cũng có mật chỉ đến bắt tôi.
Dao
hỏi:
-
Vậy nay ông tính thế nào?
Chỉnh
đáp:
-
Huy quận công Hoàng Đình Bảo, có em là phó tướng trấn thủ Thuận Hoá là Hoàng Đình Thể và
tôi trước là thuộc tướng của Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc. Nay tôi xin khuyên
Hoàng Đình Thể giết chết trấn thủ Phạm Ngô Cầu chiếm lấy đất Thuận Hoá là một
tay cứu viện. Còn ông giữ lấy trấn Nghệ An giữ thế môi và răng cùng các tướng
Thuận Hoá, rồi đóng trọng binh ở các nơi hiểm yếu, tích thảo đồn lương thì có
thể giữ được lâu dài. Còn việc phòng giữ mặt biển Chỉnh này xin cáng đáng hết cả.
Vũ
Tá Dao suy nghĩ rất lâu chẳng nói gì, Chỉnh nóng ruột hỏi:
-
Trung hầu tính thế nào?
Dao
đáp:
-
Việc này là ra mặt phản lại triều đình, tự lập riêng một cõi thật là điều đại sự.
Hãy thư thả cho ta suy nghĩ rồi sẽ nói.
Chỉnh
thấy Vũ Tá Dao ý không dám làm liền nói:
-
Chờ ông suy nghĩ xong chắc là triều đình đã có mật chỉ vào bắt tôi rồi đấy!
Nói
rồi bỏ về nhà hối thúc gia quyến thu xếp hành lý đưa vợ con xuống một chiếc
thuyền lớn. Nguyễn Viết Tuyển hỏi:
-
Tướng quân định tránh nơi nào lại đi bằng thuyền?
Chỉnh
cười đáp:
-
Trời đất bao la lại không có chỗ cho ta dung thân sao? Nay chúa không dùng ta
thì ta vào cùng Tây Sơn Nguyễn Nhạc!
Nói
xong dong buồm đi thẳng vào Quy Nhơn ra mắt vua Thái Đức. Gặp vua, Chỉnh quỳ lạy,
vua Thái Đức vội vàng đỡ dậy và hỏi:
-
Ông đến đây ắt là có chiếu chỉ của chúa. Vậy ta phải quỳ tiếp chiếu mới phải
sao ông lại quỳ là cớ làm sao?
Chỉnh
không dám đứng lên, cúi lấy thưa:
-
Nay bọn kiêu binh làm loạn ở Thăng Long giết Huy quận công Hoàng Đình Bảo, phế
Trịnh Cán và lập Trịnh Khải lên ngôi chúa. Trịnh Khải lại ra lệnh tập nã tay chân của
Huy quận công, nên thần phải trở vào đây xin Bệ hạ dung nạp.
Vua
Thái Đức lại hỏi:
-
Tây Sơn ta là nước nhỏ, ông là người của nước lớn. Nếu ta dùng ông ngộ nhỡ chúa
Trịnh đem binh vào vấn tội thì ta biết liệu làm sao?
Chỉnh
đáp:
-
Bệ hạ đã có chí tự lập không nhận sắc phong của họ Trịnh nên mới lên ngôi Hoàng
đế, việc tiến thủ ắt đã có kế sách thì Bệ hạ có sợ gì họ Trịnh mà mượn cớ thoái
thác. Nếu Bệ hạ không dùng, Chỉnh tôi xin được chết tại nơi này!
Vua
Thái Đức cười bảo:
-
Ta chỉ thử Hữu Chỉnh một tý mà thôi. Ta và ông vốn là cố nhân trong lúc đánh Định
Vương Nguyễn Phúc Thuần sao nỡ bỏ nhau khi hoạn nạn.
Nói
xong vua sai quân bày yến tiệc khoản đãi Nguyễn Hữu Chỉnh. Rượu vào vài chén,
Chỉnh nói:
-
Nay ở đất Bắc Hà, họ Trịnh hiếp đáp vua Lê khiến thiên hạ bất bình. Vừa rồi Trịnh
Sâm chết, hai con là Trịnh Khải và Trịnh Cán lại tranh ngôi chia phe đảng giết
hại lẫn nhau. Cương thường đã mất, giềng mối đã lìa, lại thêm nỗi binh kiêu dân
oán không còn ra thể thống gì cả. Nếu Bệ hạ nhân dịp này mà đem binh ra đánh một
trận thì đất Bắc Hà không thuộc vào Bệ hạ thì còn ai vào đây nữa!
Vua
Thái Đức nói:
-
Bắc Hà là nước của vua Lê sao ta lại đem binh xâm phạm được? Vả lại họ Trịnh từ
khi lấy được đất Thuận Hoá rồi dùng ải Hải Vân làm ranh giới nước ai người ấy
giữ, sao ta lại dấy động can qua làm khổ cho lê dân trăm họ? Nay ông đã đến
đây, đối với ta là thượng khách sống an nhàn há chẳng hơn sao?
Vừa
vừa dứt lời quân do thám về báo:
-
Tâu Bệ hạ, Chu Văn Tiếp từ Phú Yên đi đường núi vào Gia Định đánh lấy Sài Côn,
tướng quân Đỗ Nhàn Trập thua chạy về Bình Thuận. Chu Văn Tiếp đón Phúc Ánh từ
Phú Quốc về hưng binh đánh chiếm đất Gia Định. Tướng quân Đỗ Nhàn Trập sai người
về báo cùng Bệ hạ định liệu.
Vua
Thái Đức liền sai Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ, tiết chế Nguyễn Lữ, tướng
quân Lê Trung, phò mã Trương Văn Đa đem một trăm chiếc đại thuyền và một vạn
quân vào Gia Định đánh Nguyễn Phúc Ánh. Nguyễn Hữu Chỉnh thấy vua Thái Đức bàn
đánh Nguyễn ở phương Nam nên đành thôi không xin vua đem quân đánh Trịnh ở mặt
Bắc nữa.
Bây
giờ là mùa xuân, tháng hai, năm Quý Mão (1783), nội thành Sài Côn Nguyễn vương
họp các tướng bàn quốc sự. Nguyễn vương lo lắng hỏi:
-
Quân do thám của ta từ Quy Nhơn báo tin về rằng:
Nguyễn
Huệ đang chuẩn bị binh thuyền vào đánh ta. Vậy theo các khanh ta nên đối phó
như thế nào?
Chu
Văn Tiếp bước ra thưa:
-
Tâu Thượng vương, bộ quân ta đã có Nguyễn Nghi và Hồ Văn Lân thủ thành Trấn
Biên. Nay ta cho tướng đem quân tăng cường yểm trợ cho Hồ Văn Lân thì mặt Bắc
không phải lo gì nữa. Cửa Hàm Luông thì Ngô mưu sĩ đã tiến cử Nguyễn Văn Thân
và Nguyễn Huỳnh Đức chặn giữ, vậy mặt Nam đất Gia Định cũng chẳng phải lo. Đáng
lo nhất vẫn là cửa Cần Giờ tiến đến Thất Kỳ Giang vỗ mặt đồn Thị Nghè uy hiếp mặt
Đông thành Sài Côn. Đạo quân này chắc chắn do Nguyễn Huệ chỉ huy. Nếu ta đánh
thắng được đạo quân của Nguyễn Huệ, các đạo khác tự khắc sẽ tan.
Nguyễn
vương lại hỏi:
-
Quân Tây Sơn rất thiện chiến, Nguyễn Huệ là giỏi dùng quân. Lần trước ta phục
binh ở Thất Kỳ Giang mà không lừa được Nguyễn Huệ nên bị thua trận. Vậy nay phải
đánh thế nào?
Chu
Văn Tiếp cười đáp:
-
Quân Tây Sơn lần trước đánh Thượng vương Thất Kỳ Giang dùng hoả hổ đốt tàu đồng
của người Pháp Lang Sa. Vậy trên thuyền của giặc lúc nào cũng có chất dẫn hoả.
Theo tôi ta nên dĩ độc trị độc!
Nguyễn
vương vội hỏi:
-
Thế nào là dĩ độc trị độc?
Tiếp
vui vẻ hoạt bát đáp:
-
Đất Gia Định chỉ có hai mùa: từ tháng ba đến tháng tám là mùa mưa, gió Nam từ biển
thổi vào, từ tháng chín đến tháng hai là mùa khô gió bấc, mà người Gia Định thường
gọi là gió Chướng từ đất liền thổi ra. Nay là tháng hai mùa khô gió Chướng, ta
lợi dụng sức gió nên dùng hoả công mà đánh. Quân Tây Sơn lại có chất dẫn hoả
trên thuyền, ấy chẳng phải là dĩ độc trị độc đó ư? Xin Thượng vương suy xét!
Nghe
xong Nguyễn vương mừng rỡ nói:
-
Chu Nguyên soái thật có tài đại tướng, ta còn lo gì không thắng được Nguyễn Huệ.
Nay ta giao trọn quyền điều binh cho khanh. Mau báo tiệp khai hoả cho an lòng
ta Văn Tiếp nhé!
Chu
Văn Tiếp lãnh lệnh, bái tạ Nguyễn vương rồi dẫn thuỷ binh đến Thất Kỳ Giang bày
trận.
Đến
sông Thất Kỳ Giang gặp lúc nước thuỷ triều đang lai láng, gió Chướng lồng lộng
từ đất liền thổi ra biển, Tiếp phấn khích hạ lệnh:
-
Châu Đoan Chân lãnh án tiên phong đem hai mươi đại thuyền và hai ngàn quân ra cửa
Cần Giờ đánh giặc, giả thua chạy vào Thất Kỳ Giang.
Châu
Đoan Chân lãnh lệnh đi ngay. Tiếp lại bảo Phạm Văn Sở:
-
Ngươi hãy dẫn quân đem một ngàn bè cỏ phục hai bên bờ sông, chờ Châu Đoan Chân
giả thua chạy qua khỏi rồi phóng hoả bè cỏ đẩy ra giữa sông chặn thuyền quân
Tây Sơn mà đốt.
Phạm
Văn Sở lãnh mệnh xuất quân. Tiếp ngoảnh lại bảo các tướng:
-
Các ngươi chuẩn bị binh thuyền, chờ ta đốt xong thuyền Tây Sơn thì đổ ra vây bắt
Nguyễn Huệ.
Tống
Phước Lương vòng tay nói:
-
Nếu Nguyễn Huệ vào Thất Kỳ Giang chắc chắn sẽ bị Chu đô đốc đời nay dùng hoả
công mà đánh cho tan tác, khác nào Chu đô đốc ngày xưa đốt Tào Tháo trên sông
Xích Bích vậy!
Nói
rồi Phước cùng các tướng chia nhau bố trận.
Phần
Nguyễn Huệ dẫn quân Tây Sơn đến ngoài khơi cửa Cần Giờ, nhìn vào núi Cấp thấy
khói bốc lên nghi ngút, Huệ cười bảo:
-
Lại đốt lửa báo hiệu trên núi Cấp rồi phục binh ở Thất Kỳ Giang như cũ chớ gì!
Nói
rồi Huệ hạ lệnh:
-
Đặng Văn Long và Đặng Xuân Bảo đem ba mươi đại thuyền và ba ngàn quân vào cửa
Hàm Luông theo sông Tiền Giang tiến đánh Trường Đồn chặn đường Nguyễn Phúc Ánh
từ Sài Côn chạy về Hà Tiên.
Hai
tướng Long và Bảo lãnh lệnh đi ngay. Huệ lại tuốt gươm chỉ vào cửa Cần Giờ bảo:
-
Trương Văn Đa lãnh ấn tiên phong, lệnh toàn quân tiến đánh Sài Côn.
Quân
Tây Sơn hùng dũng tiến lên!
Vào
đến cửa Cần Giờ bỗng gặp thuyền quân Nguyễn do Châu Đoan Chân tiến ra. Hai bên
giáp chiến, vừa mới giao phong Châu Đoan Chân hô quân tháo lui. Nguyễn Huệ thấy
vậy cười bảo:
-
Lại giả thua dụ ta vào trận mai phục như lần trước chứ gì! Truyền đánh trống
thu binh!
Nguyễn
Lữ nghi ngại hỏi:
-
Nay là mùa khô, gió chướng từ bờ thổi ra, quân ta nghịch gió. Nếu tiến binh ngộ
nhỡ Chu Văn Tiếp đánh hoả công thì làm thế nào? Bởi thế anh mới đánh trống thu
binh chớ gì?
Nghe
Lữ nói xong, Nguyễn Huệ gật đầu rồi bảo:
-
Truyền lệnh dừng quân lập thuỷ trại!
Quân
Tây Sơn neo thuyền ngoài cửa Cần Giờ nghỉ ngơi. Đến lúc nước lớn đầy, gió bấc
chướng vẫn lồng lộng từ đất liền thổi ra. Nguyễn Lữ nói:
-
Nếu lúc này ta tiến quân ắt giờ này vào Thất Kỳ Giang đã bị Chu Văn Tiếp dùng
hoả công mà đốt mất rồi!
Nguyễn
Huệ chỉ mỉm cười mà không nói. Nước triều lên đầy rồi lại chảy, bấy giờ Nguyễn
Huệ lại truyền lệnh tiến quân. Nguyễn Lữ bèn can:
-
Nước vẫn còn đang chảy, gió bấc chướng thổi ra; phần tiến quân ngược nước gió,
phần thì địch thuận lợi dùng hoả công, sao anh lại tiến binh vào lúc này?
Nguyễn
Huệ cười đáp:
-
Chu Văn Tiếp thì biết gì mà đánh hoả công. Vả lại nếu nói gió bấc chướng sợ giặc
đánh hoả công chẳng lẽ lại rút quân về? Cứ truyền lệnh ta lập tức tiến quân.
Nguyễn
Lữ vội can.
-
Xin anh đừng nên khinh địch. Hãy sai quân do thám rồi tiến binh cũng chẳng muộn
nào.
Nguyễn
Huệ gạt đi bảo:
-
Địch tình ta đã nắm rõ thì cần gì do thám.
Nói
rồi không nghe lời Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ bảo quân:
-
Ngược nước chèo đổ mồ hôi. Gặp giặc, không đổ máu mà giặc phải tan!
Quân
sĩ Tây Sơn không rõ vì cớ gì, nhưng vốn tin phục Nguyễn Huệ nên gắng sức mà
chèo!
***
Nói
về Chu Văn Tiếp thấy Châu Đoan Chân giả thua chạy về mà không thấy quân Tây Sơn
đuổi theo. Tiếp bảo Chu Đoan Chân rằng:
-
Bây giờ nước đang lớn hãy cho quân nghỉ ngơi, đợi sang ngày mai nước chảy sẽ
đem quân ra dụ địch.
Nước
lên đến trưa thì đầy; đầy xong lại chảy; chảy đến chạng vạng tối thì đã gần cạn
kiệt. Trong bóng đêm chập choạng, bỗng thấy thuyền Tây Sơn lừ lừ tiến vào trận
Thất Kỳ Giang, Chu Văn Tiếp ngạc nhiên nói:
-
Nguyễn Huệ sao lại tiến binh vào lúc nước đang chảy. Chắc hắn sợ mai phục nên
ngược nước để đánh bất ngờ chăng?
Đoạn
Tiếp ngước nhìn trời, trời còn gió bấc chướng, cúi nhìn nước, nước vẫn chạy riu
riu. Tiếp mừng rỡ nói:
-
Quân Tây Sơn cậy mạnh, Nguyễn Huệ cậy có tài mà khinh địch, phen này ắt bại dưới
tay ta.
Đoạn
Tiếp truyền lệnh:
-
Quân bay thuận nước thuận gió phóng hoả bè cỏ đẩy ra giữa sông!
Quân
Gia Miêu lập tức thi hành! Một ngàn bè cỏ cất cao ngọn lửa rần rật trôi về phía
quân Tây Sơn. Nguyễn Lữ thất kinh than:
-
Em đã can rồi mà anh còn khinh địch. Giờ giặc đánh hoả công phải chạy cho mau.
Nguyễn
Huệ lại cười nói:
-
Chu Văn Tiếp làm nội ứng cho ta đốt thuyền quân Nguyễn đây. Em chớ lo!
Lúc
ấy gió bấc chướng mỗi lúc một giảm dần, bè lửa trôi chầm chậm về phía quân Tây
Sơn. Nguyễn Huệ vỗ tay cười ngất bảo quân:
-
Truyền đánh trống thu binh!
Chu
Văn Tiếp thấy quân Tây Sơn lui, liền xua đại binh theo sau bè lửa mà tiến. Tiếp
bảo các tướng:
-
Chờ bè lửa đốt thuyền giặc xong, hay tiến truy bắt Nguyễn Huệ.
Tiếp
vừa dứt lời trời bỗng nhiên lặng gió, mặt sông phẳng lặng như tờ. Bấy giờ nước
thuỷ triều lại lớn lên, bè lửa theo nước trôi ngược về thuyền quân Nguyễn.
Chu
Văn Tiếp còn đang bàng hoàng ngơ ngác, bỗng trời nổi gió nồm nam từ biển thổi
vào rất mạnh. Ngàn bè lửa thuận gió, thuận nước chạy ào ào về đốt thuyền quân
Nguyễn. Chu Văn Tiếp ở phía sau thấy vậy ngửa mặt lên trời hét rằng:
-
Trời hại ta rồi! Trời hại ta rồi!
Hét
xong vội vã cùng các tướng quay thuyền mà chạy.
Thuyền
quân Nguyễn Gia Miêu bị đốt cháy tan tác, khói lửa ngút trời. Bên quân Tây Sơn,
Nguyễn Huệ bảo Nguyễn Lữ:
-
Anh đã bảo Chu Văn Tiếp làm nội ứng cho ta đốt quân chúa Nguyễn giờ em đã thấy
chưa?
Nói
rồi Huệ truyền quân thúc trống tiến binh. Các tướng Nguyễn tan hàng mạnh ai nấy
chạy trốn, Chu Văn Tiếp được em mình là Chu Đoan Chân hộ vệ chạy về hướng Sài
Côn. Bỗng thấy một chiếc thuyền Tây Sơn giong buồm đuổi theo, một viên tướng
Tây Sơn đứng trên mui thuyền quát lớn:
-
Tướng giặc kia chớ chạy, có ta là phò mã Trương Văn Đa đến đây!
Chu
Đoan Chân bảo Tiếp:
-
Anh hãy dùng thuyền nhỏ chèo vào bờ lên đất liền mà chạy. Em ở đây chặn giặc rồi
sẽ theo sau.
Tiếp
nghe lời liền cùng Phạm Văn Sở xuống thuyền nhỏ vào bờ. Đến nơi, nhìn ra sông
thấy Chu Đoan Chân đã bị Trương Văn Đa đâm chết, Tiếp khóc lớn rằng:
-
Ba anh em của ta đều bị giặc Tây Sơn giết chết. Thù này không trả được, Chu Văn
Tiếp ta đâu đáng là người. Đoan Chân em ới, trời đổi gió đã hại chết em rồi!
Tiếp
đau lòng than khóc mãi. Phạm Văn Sở can gián một hồi, Tiếp gạt nước mắt bảo:
-
Quân Tây Sơn đi thuyền tiến đánh Sài Côn, ta đi đường bộ về thành không kịp. Vậy
phải làm sao?
Phạm
Văn Sở hiến kế:
-
Theo tôi ta nên băng rừng đến thành Trấn Biên hợp cùng Hồ Văn Lân và Nguyễn
Nghi đem binh và chiếm lại Sài Côn.
Chu
Văn Tiếp khen phải liền tất tả đi ngay. Đến đoạn đường lớn giữa thành Sài Côn
và Trấn Biên, bỗng thấy vài tên quân từ hướng Bắc chạy vào, Tiếp chặn lại hỏi:
-
Các ngươi là quân ở đâu lại chạy đến đây?
Tên
quân đáp:
-
Chúng tôi ở dưới trướng tướng quân Nguyễn Nghi và Hồ Văn Lân. Thành Trấn Biên bị
tướng Tây Sơn là Đặng Xuân Phong và Đỗ Nhàn Trập chiếm mất, hai tướng Nguyễn
Nghi và Hồ Văn Lân không biết trốn tránh nơi nào.
Lại
thấy vài tên quân từ hướng Nam chạy đến bảo:
-
Thưa đại Đô đốc, Nguyễn Huệ đem quân đánh thành Sài Côn, các tướng giữ đồn Thảo
Câu, Thị Nghè, Bến Nghé, Dác Ngư đều tử trận. Chúa thượng đã bỏ thành Sài Côn
chạy vào Trường Đồn.
Chu
Văn Tiếp thất kinh than:
-
Quân ta bại trận khắp nơi. Thành Sài Côn và Trấn Biên đều mất về tay giặc, ta
biết phải đi đâu?
Phạm
Văn Sở lại hiến kế:
-
Tôi có nghe ngày trước chúa ta và vua nước Xiêm La kết giao sẽ cứu giúp nhau
khi hoạn nạn. Nay ta hãy tìm đường sang Xiêm quốc. Xin Xiêm vương đem thuỷ quân
sang Hà Tiên đến Trường Đồn hợp cùng Chúa thượng đánh Tây Sơn.
Chu
Văn Tiếp khen phải liền cùng Phạm Văn Sở và vài mươi tên quân băng rừng nhằm hướng
Tây tìm đường sang Xiêm quốc.
Nói
về Nguyễn Phúc Ánh trong thành Sài Côn nghe quân ở đồn Thị Nghè về báo:
-
Thưa Chúa thượng, Nguyễn Huệ đánh tan quân của Chu nguyên soái ở Thất Kỳ Giang.
Chu nguyên soái chưa biết sống chết thế nào. Nguyễn Huệ lại chia quân làm bốn
cánh đánh bốn đồn Thảo Câu, Thị Nghè, Bến Nghé, Dác Ngư, Tướng của ta giữ đồn Thị
Nghè là Hồ Công Siêu tử trận.
Quân
đồn Bến Nghé về báo:
-
Thưa Chúa thượng, tướng quân giữ đồn Bến Nghé là Dương Công Trừng bị Nguyễn Lữ
chém chết. Quân Tây Sơn đã chiếm lấy đồn.
Phúc
Ánh còn đang bàng hoàng, lại nghe quân đồn Dác Ngư về cấp bảo:
-
Thưa Chúa thượng, tướng Tây Sơn là Lê Trung tiến đánh đồn Dác Ngư, tướng quân
Nguyễn Văn Quý tử trận, hiện quân Tây Sơn đang ồ ạt tiến về thành Sài Côn.
Phúc
Ánh hoảng hốt hối quân:
-
Hai tướng Lê Văn Duyệt và Trương Tấn Bửu lãnh ba ngàn quân đi đoạn hậu. Mau mở
cửa Nam thành chạy về cố thủ Trường Đồn.
Nguyễn
Huệ và các tướng dẫn quân chiếm thành Sài Côn bỏ trống. Nguyễn Lữ hỏi Huệ:
-
Trận Thất Kỳ Giang sao anh biết rằng Chu Văn Tiếp sẽ đánh hoả công mà lợi dụng
sức gió đốt thuyền quân Nguyễn?
Huệ
đáp:
-
Nay là tháng hai ở Quy Nhơn là mùa xuân, mưa thuận gió hoà, khí hậu mát mẻ.
Nhưng ở đất Gia Định lại là mùa nắng to khô ráo thì làm gì Chu Văn Tiếp lại
không dùng hoả công mà đánh ta. Nên ta mới nói đùa cùng Nguyễn Lữ rằng Chu Văn
Tiếp là nội ứng cho ta đốt thuyền quân chúa Nguyễn đấy.
Trương
Văn Đa lại hỏi:
-
Thúc phụ đã biết Chu Văn Tiếp dùng hoả công sao còn tiến quân? Nếu lúc đó trời
không trở giờ có phải là quân ta đã bị đốt thành tro bụi rồi chăng.
Nguyễn
Huệ cười to nói:
- Ấy
là ta biết trước giờ đổi gió nên mới tiến binh, sao Văn Đa lại bảo là may gặp
lúc trời đổi gió.
Trương
Văn Đa và Lệ Trung đồng thanh hỏi:
-
Làm cách nào thúc phụ biết trước giờ đổi gió?
Nguyễn
Huệ liền treo trên vách một tờ lịch và nói:
-
Các ngươi hãy nhìn cho rõ, sẽ biết giờ đổi gió.
Lịch
viết rằng:
Tháng
2 và tháng 8 thuỷ triều là ngày: 03, 17, 29.
Tháng
3 và tháng 9 thuỷ triều là ngày: 13, 27
Tháng
4 và tháng 10 thủy triều là ngày: 11, 25
Tháng
5 và tháng 11 thuỷ triều là ngày: 09, 23
Tháng
10 và tháng chạp thuỷ triều là ngày: 07, 21
Tháng
7 và tháng giêng thuỷ triều là ngày: 05, 19
Nguyễn
Lữ xem xong thắc mắc hỏi:
-
Thuỷ triều là ngày gì? Sao biết được giờ đổi gió?
Huệ
giải rằng:
-
Đất Gia Định chỉ có hai mùa. Từ tháng ba đến tháng tám là mùa mưa gió nồm Nam từ
biển thổi vào. Từ tháng chín đến tháng hai là mùa khô gió bấc chướng từ đất thổi
ra. Chu Văn Tiếp định lợi dụng mùa khô gió bấc chướng dùng hoả công đốt thuyền
ta đó.
Nguyễn
Lữ nôn nóng hỏi:
-
Nhưng vì sao anh lại biết giờ đổi gió mà tương kế tựu kế đốt lại thuyền quân
chúa Nguyễn?
Nguyễn
Huệ chỉ vào tờ lịch đáp:
-
Ngày thuỷ triều là ngày chuyển giao giữa hai con nước, mỗi tháng có hai con nước
nên có hai ngày thuỷ triều. Riêng tháng hai và tháng tám lại có ngày thuỷ triều
là ngày 3, ngày 17 và ngày 29. Con nước thứ ba mà ngày thuỷ triều là ngày 29 gọi
là nước giao mùa. Gặp nước giao mùa gió bị ảnh hưởng của thuỷ triều, hễ nước chảy
thì gió bấc chướng từ bờ thổi ra, hễ nước triều lên gió nồm Nam từ biển thổi
vào. Ta chọn thời gian vào Cần Giờ lúc hạ tuần tháng hai, tức là nhằm con nước
giao mùa. Ta lựa ngày nước phát lên xuống mạnh nhất trong con nước giao mùa mới
tiến binh, vì ngày đó khi nước lên sẽ có gió nồm Nam. Bởi thế ta phải tiến quân
vào lúc nước chảy, trời còn bấc chướng, tất đến Thất Kỳ Giang khi nước sắp lên.
Ấy là ta nhử Chu Văn Tiếp thấy còn bấc chướng mới dùng hoả công. Tiếp phóng bè
lửa xong, lúc sẩm tối nước thuỷ triều sẽ lớn lên, trời tất đổi gió nồm Nam quay
lại đốt thuyền quân Gia Miêu. Bởi lúc sẫm tối nước lên, lặng bấc trở nồm, nên
dân vùng biển thường có câu vè rằng "Bắc lặng hôm, nồm lặng mai" đó.
Đánh trận này ta đã tính trước cả sao lại bảo là may gặp lúc trời trở gió!
Nghe
Huệ nói xong, các tướng bấy giờ mới vỡ lẽ đồng thanh khen:
-
Long Nhương đánh giặc liệu cả việc nắng mưa, nước gió, dụng binh thật quỷ thần
cũng không tính trước. Chúng tôi xin bái phục.
Vừa
lúc ấy quân do thám vào báo rằng:
-
Thưa tướng quân, trấn thủ Bình Thuận là Đặng Xuân Phong và Đỗ Nhàn Trập đem
quân đến chiếm Trấn Biên. Tướng Nguyễn là Nguyễn Nghi và Hồ Văn Lân thua binh bỏ
trốn.
Nguyễn
Huệ ra lệnh:
-
Nguyễn Lữ lãnh hai ngàn binh ở lại giữ Sài Côn. Ta cũng Trương Văn Đa, Lê Trung
đem bốn ngàn quân truy kích quân Nguyễn. Trận này phải bắt cho được Nguyễn Phúc
Ánh. Giống cỏ gấu này không nhổ tận gốc cứ nảy ra hoài thật là đáng ghét.
Nói
rồi Nguyễn Huệ liền đem quân đuổi theo Nguyễn Phúc Ánh.
Nói
về Phúc Ánh dẫn quân chạy về đến Trường Đồn (Mỹ Tho), tướng giữ Trường Đồn là Mạc
Thiên Tứ mở cổng thành đón vào. Vừa lúc ấy Nguyễn Huệ dẫn quân đuổi theo thấy
Phúc Ánh đã vào thành bèn nói với Trương Văn Đa và Lê Trung:
-
Trước khi vào cửa Cần Giờ ta đã sai Đặng Văn Long và Đặng Xuân Bảo vào cửa Hàm
Luông theo sông Tiền Giang tiến đánh Trường Đồn, chặn đường rút binh của Nguyễn
Phúc Ánh. Chúa Phúc Ánh đã sai tướng giỏi chắn cửa Hàm Luông, nên Long và Bảo
chưa đến được nơi này. Vậy ta mau đánh lấy Trường Đồn rồi đem quân xuôi đồng Tiền
Giang đánh vào sau lưng địch ở cửa Hàm Luông.
Nói
rồi Nguyễn Huệ hạ lệnh tấn công Trường Đồn.
Quân
Tây Sơn đặt đại bác bắn phá thành. Lê Văn Quân nói với Phúc Ánh rằng:
-
Chúa thượng mau đem gia quyến theo Mạc Thiên Tứ lui về Hà Tiên. Thần cùng Lê
Văn Duyệt, Trương Tấn Bửu thủ thành cản đường tiến quân của giặc.
Nguyễn
Phúc Ánh nghe lời theo Mạc Thiên Tứ chạy về Hà Tiên, Lê Văn Quân lên mặt thành
thúc quân cố sức chống trả. Một lúc sau thành vỡ, quân Tây Sơn tràn vào thành
chém giết. Quân Nguyễn chết thôi không biết bao nhiêu mà kể, số còn lại lớp
hàng, lớp quăng gươm giáo bỏ trốn. Lê Văn Quân, Lê Văn Duyệt, Trương Tấn Bửu vội
vàng lên ngựa chạy về Hà Tiên theo Phúc Ánh.
Nguyễn
Phúc Ánh về Hà Tiên vừa vào dinh phủ chưa kịp ngồi đã thấy Lê Văn Quân, Văn Duyệt,
Tấn Bửu theo đến nơi. Người nào cũng mang thương tích trên mình, quần áo tả tơi
mặt mày hốc hác. Ánh giật mình hỏi:
-
Ta vừa mới đến đây, các khanh đã thua trận chạy về, quân Tây Sơn sao lấy được
thành nhanh thế?
Lê
Văn Quân quỳ thưa:
-
Quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ đích thân chỉ huy công thành rất dữ. Chúng thần
không chống nổi, thành vỡ thua binh phải chạy thoát thân. Xin Chúa thượng trị tội.
Ánh
đứng dậy và nói:
-
Mất Trường Đồn thì quân của Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành ở Hàm Luông
nguy mất. Các tướng mau thu thập tàn quân chỉnh đốn hàng ngũ theo ta tái chiếm
Trường Đồn.
Ngô
Tùng Châu bước ra nói:
-
Xin Chúa thượng bình tâm. Quân ta ở trong thành, giặc từ xa kéo đến, ta còn
không giữ nổi thành, huống gì quân ta nay mười phần còn một, tướng sĩ đều mệt mỏi,
thương tích đầy mình. Nếu bây giờ giặc đem quân đánh tới, thành Hà Tiên e rằng
không giữ nổi nói gì đến việc tái chiếm Trường Đồn.
Phúc
Ánh nghe xong ngồi xuống hỏi:
-
Vậy nay ta nên chống giữ thế nào?
Tùng
Châu đáp:
-
Nguyễn Huệ vừa chiếm được Trường Đồn ắt là chuẩn bị đánh ta ở Hà Tiên, sớm muộn
gì cũng kéo binh đến đây. Vậy Chúa hãy mau sai người lên mật báo cho Nguyễn Văn
Thành và Nguyễn Huỳnh Đức đang trấn giữ cửa Hàm Luông, kéo quân về đánh vào sau
lưng Trường Đồn. Nếu lúc ấy Nguyễn Huệ kéo đại binh đến đánh Hà Tiên, thì Nguyễn
Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành có thể chiếm lại Trường Đồn. Nếu Đức và Thành chiếm
lại được Trường Đồn thì Nguyễn Huệ lại lâm vào thế lưỡng đầu thọ địch. Khi ấy
Nguyễn Huỳnh Đức từ Trường Đồn đánh tới, ta từ Hà Tiên đánh ra thế nào cũng phá
được giặc.
Phúc
Ánh khen:
- Ấy
thật là diệu kế.
***
Lúc
ấy Nguyễn Huệ vào thành Trường Đồn, Lê Trung nói:
-
Tôi xin đem quân đuổi theo Phúc Ánh đến Hà Tiên bắt Phúc Ánh về cho Long Nhương
trị tội, cho tiệt nòi cỏ gấu ấy đi!
Huệ
bảo:
-
Hà Tiên là thành trì cuối cùng của Phúc Ánh. Nếu ta đem quân đánh tới, Ánh chỉ
con đường chạy ra biển mà thôi. Hiện Phúc Ánh như cá nằm trong chậu, ta muốn bắt
lúc nào chẳng được, việc đánh Hà Tiên chẳng vội gì. Kế hoạch của ta là cho Đặng
Văn Long và Đặng Xuân Bảo đánh chiếm Trường Đồn trước, chặn đường về Hà Tiên để
sớm bắt được Phúc Ánh. Nhưng Long và Bảo vẫn chưa đến được nơi này ắt là Phúc
Ánh đã cho tướng giỏi chặn Văn Long ở cửa Hàm Luông. Vậy Lê Trung hãy lãnh hai
ngàn tinh binh theo sông Tiền Giang ra cửa Hàm Luông dẫn vào sau lưng trại địch.
Phá giặc ở Hàm Luông xong, Trung cùng Văn Long đem quân về đây hợp sức đánh Hà
Tiên bắt Phúc Ánh cũng chẳng muộn gì!
Lê
Trung lãnh mệnh đi ngay.
xem tiếp: * Chương 30: Cửa Hàm Luông, Nguyễn Huỳnh Đức thua mưu bị bắt. - Đảo Côn Lôn, Nguyễn Phúc Ánh nhờ bão thoát thân.
xem tiếp: * Chương 30: Cửa Hàm Luông, Nguyễn Huỳnh Đức thua mưu bị bắt. - Đảo Côn Lôn, Nguyễn Phúc Ánh nhờ bão thoát thân.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...