THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP
VÀ LẬP ĐẠO CỦA
MUHAMMAD tại Mecca (570-562)
GIAI ĐOẠN I (570 - 622)
Như chúng ta đã biết, phần
đông người Ả Rập sinh sống chủ yếu bằng nghề du mục. Từ thế kỷ 4, một số bộ lạc
Ả Rập bỏ nghề du mục để chuyển sang nghề buôn bán. Nhưng việc chuyên chở hàng
hóa băng qua sa mạc muốn được an toàn cần phải có người bảo vệ. Một số bộ lạc
Bedouin rất giỏi về quân sự chuyển qua nghề làm trung gian và chuyên chở hàng
hóa. Họ lập thành những đoàn bộ hành (caravans) chở hàng hóa từ miền Nam bán
đảo Ả Rập qua thành phố Petra - thành phố gồm có những căn nhà được đục
sâu trong vách đá ở miền nam Jordan - đến thành phố Zenobia thuộc xứ Syria.
Vào thời gian này, thành phố Zenobia được tôn xưng là Hoàng Hậu của Phương Đông
(Queen of the East).
Do việc buôn bán càng ngày
càng phát triển, thành phốMecca ở phía nam bán đảo Ả Rập dần dần trở thành
một trung tâm thương mại lớn nhất trong vùng. Ngoài lý do thương mại, Mecca còn
là một địa điểm hành hương của tất cả mọi người theo đạo cổ truyền Ả Rập. Hàng
năm, người Ả Rập từ khắp nơi đổ về Mecca để viếng đền thờ Kaaba mà họ tin rằng
đền thờ này đã được xây cất từ thời ông Adam tổ tiên loài người và sau đó được
xây cất lại bởi ông Abraham và con trai là Ismael. Số người hành
hươngMecca mỗi ngày mỗi đông đã khiến cho Mecca trở thành một
thánh địa thiêng liêng bất khả xâm phạm. Tâm lý chung của mọi người là phải tự
ý thức dẹp bỏ mọi sự xung đột tại thánh địa để sự an toàn và vẻ trang nghiêm của
thánh địa được bảo đảm. Đây là một yếu tố tâm lý đã góp phần quan trọng vào việc
phát triển thương mại tại thành phố này.
Sau khi Mecca đã
trở thành một đô thị sầm uất thì bộ lạc Quraysh giã từ đời sống du mục để chuyển
hẳn sang nghề thương mại vào cuối thế kỷ 5. Tại Mecca có truyền thuyết kể rằng:
Thủ lãnh bộ lạc Quraysh đã đến Syria mua về 3 pho tượng của 3 nữ thần
Al-Lat, Al-Uzza và Manat đem về đặt tại đền thờ Kaaba. Từ đó, bộ lạc Quraysh
làm ăn phát đạt, trở thành giàu có và nắm quyền kiểm soát toàn thành phố Mecca.
Một thương gia rất nổi tiếng
thuộc bộ lạc Quraysh là Hassim Manaf mỗi năm lãnh đạo hai chuyến lữ hành
(caravans) đông tới hàng ngàn người tải hàng từ Mecca đi Yemen hoặc đi Syria.
Ông được hoàng đế Byzantine và vua xứ Abyssinia tiếp kiến.
Con trai ông là Muttalib
cũng là một thương gia giàu có ởMecca. Muttalib có 10 người con trai và 6 con
gái. Người con trai út tên là Abdallah rất nổi tiếng là một thanh niên cao lớn
đẹp trai. Abdallah chính là cha của Muhammad. Công cuộc buôn bán của Abdallah
thiếu may mắn nên gia sản khánh kiệt. Abdallah đau buồn sinh bệnh và chết hai tháng
trước khi Muhammad ra đời. Muhammad chỉ được thừa hưởng cái dáng vóc to lớn đẹp
trai của cha nhưng không được hưởng chút gia tài nào của cha để lại cả.
Sau khi sanh Muhammad, bà
Anima quá nghèo không nuôi nổi con thơ nên đành phải bế bé Muhammad đến nhờ ông
nội là Muttalib nuôi dùm. Ông già Muttalib mời một thầy pháp xuất hồn (a kahin)
đến nhà coi bói cho Muhammad. Thầy pháp cho biết sau này đứa bé sẽ cai trị cả
thế giới. Ông già Muttalib quá mừng nên vội vàng bế đứa cháu mới sinh đến đền
thờ Kaaba để tạ ơn Thượng Đế.
Hơn hai năm sau, khi cơn đói
kém đã qua đi, bà Anima trở lại nhà ông già Muttalib đón bé Muhammad về nuôi tại
nhà riêng của bà tại Mecca. Khi Muhammad lên 6 tuổi thì mẹ chết. Một lần nữa
Muhammad được đưa trở lại nhà ông nội Muttalib. Muhammad được đưa đến nhà ông
chú là Abu Talib, thủ lãnh đoàn thương buôn của dòng họ Hassim.
Abu Talib được nhiều người ở Mecca tôn
trọng về tư cách và khả năng thương mại, mặc dầu gia sản của dòng họ Hassim lúc
này đã suy kiệt.
Khi Muhammad lên 12 tuổi,
ông Abu Talib quyết định cho Muhammad được đi theo các chuyến lữ hành tải hàng
từ Mecca đi Syria. Kể từ đó cho đến năm 25 tuổi, Muhammad luôn luôn theo sát
ông chú trên mọi nẻo đường buôn bán băng qua sa mạc Syro-Arabia. Suốt 13 năm
ròng, Muhammad được học đủ mọi môn về quân sự: từ cưỡi ngựa, đấu kiếm, bắn
cung, đô vật cho đến các mưu lược chiến thuật và các phương cách bày
binh bố trận chống lại các bọn cướp dọc đường. Từ bẩm sinh, Muhammad đã vốn có
một thân hình cao lớn khỏe mạnh, sau 13 năm tập luyện trong thực tế sa mạc,
Muhammad trở thành một võ sĩ hay một tướng quân.
Vào năm 595, Muhammad muốn
cưới Fakhita, 25 tuổi, con gái của ông chú Abu Talib. Nhưng ông chú Abu Talib
quyết định gả Fakhita cho một người giàu có thuộc dòng họ Makhzum. Để đền bù
cho Muhammad, ông Abu Talib giới thiệu Muhammad cho bà Khadija là một phụ nữ
sang trọng giàu có nhất nhì tại Mecca. Lúc đó bà Khadija khoảng 40 tuổi,
đã có hai đời chồng và 7 người con. Bà thuộc đoàn thương mại của dòng họ Asad
đang lúc gặp thời. Bà rất cần có một người dũng cảm và có khả năng chỉ huy quân
sự để tổ chức những chuyến buôn từ Mecca vượt qua sa mạc xa xôi đến Syria.
Bà Khadija đề nghị với Muhammad việc hôn nhân và Muhammad đồng ý.
Mặc dầu bà Khadija lớn hơn
Muhammad 15 tuổi nhưng Muhammad vẫn say mê bà. Theo sử sách của Hồi Giáo ghi
chép thì bà Khaidija lúc đó tuy lớn tuổi nhưng vẫn trẻ đẹp và có dáng vẻ rất
sang trọng. Cuộc hôn nhân giữa bà Khadija và Muhammad kéo dài 24 năm, tức cho đến
khi bà Khadija qua đời vào năm bà 64 tuổi.
Cuộc đời của Muhammad và lịch
sử thời sơ khai của đạo Hồi đã mang nhiều dấu ấn về tài đức của bà Khadija.
Trong cách cư xử với bà Khaidija, Muhammad luôn coi bà như một người mẹ hoặc một
người cố vấn hơn là một người vợ bình thường. Trong suốt 24 năm chung sống,
Muhammad đã gặp biết bao sự chống phá của mọi kẻ thù và nhiều chuyện rắc rối
đau buồn, Muhammad thường bày tỏ tâm sự với bà Khadija và luôn luôn được bà tận
tình giúp đỡ nên Muhammad đã vượt qua tất cả. Sau khi bà Khadija qua đời,
Muhammad vẫn thường ca ngợi và bày tỏ lòng biết ơn bà Khadija cho đến khi ông
trút hơi thở cuối cùng.
Bà Khadija sinh cho Muhammad
7 người con, gồm 3 trai 4 gái. Nhưng 5 người con đầu đều chết trẻ, chỉ còn lại
2 người con gái. Cô gái út tên là Fatimah, về sau trở thành một nhân vật rất nổi
tiếng trong thế giới Hồi Giáo. Vào thế kỷ 10, những người Ả Rập tại Ai Cập tự
xưng là con cháu của Fatimah đã lập nên một triều đại hiển hách gọi là Triều Đại
Fatimids. Triều đại này cai trị toàn vùng Bắc Phi, Trung Đông và Thổ Nhĩ Kỳ
trong 315 năm (935-1250).
Ông chú Abu Talif là người
đã nuôi dạy Muhammad từ nhỏ đến lớn, lúc về già bị sa cơ thất thế. Bà Khadija
và Muhammad đến xin đứa con út của ông chú là bé Ali (lúc đó mới 5 tuổi) đem về
nuôi. Muhammad hết lòng thương yêu Ali vì Ali mồ côi mẹ và một phần khác vì ông
rất biết ơn ông chú Abu. Về sau, Muhammad đã gả con gái út của ông là Fatimah
cho Ali. Hai mươi bốn năm sau khi Muhammad qua đời, Ali trở thành vị vua Hồi
Giáo thứ tư (The Fourth Calif). Hiện nay, có một số người Chàm theo đạo Hồi ở
Việt Nam tôn thờ Ali và tôn xưng Ali là con của Thượng Đế (Son of
God).
Ngoài việc nhận nuôi Ali, vợ
chồng Muhammad còn nuôi một bé trai nô lệ là Zayd. Khi Zayd lớn lên, cha mẹ
Zayd đem tiền đến chuộc nhưng Zayd xin ở lại. Muhammad trả tự do cho Zayd và từ
đó Zayd trở thành con nuôi. Ali và Zayd sống chung với nhau như anh em ruột dưới
sự chăm sóc của Muhammad. Sau này cả hai thành đôi bạn khắng khít và đều có quyền
lực trong cộng đồng Hồi Giáo sơ khai.
Vào năm 605, lúc đó Muhammad
35 tuổi, bộ lạc Quraysh quyết định xây lại đền thờ Kaaba. Đây là một
công việc trọng đại và tốn kém nên cần phải có sự đóng góp của nhiều người mới
thực hiện được. Khi hội họp thảo luận với nhau, các tập đoàn thương mại (clans)
đưa ra nhiều ý kiến trái ngược. Sau năm ngày tranh cãi, các tập đoàn không đạt
được một sự thỏa thuận nào. Cuối cùng, các tập đoàn giao ước với nhau rằng: Nếu
có một người đàn ông nào đó đến đền thờ vào lúc này thì chúng ta sẽ hỏi ý kiến
của người đàn ông ấy và ý kiến của người ấy sẽ là ý kiến quyết định.
Thật bất ngờ vì người đàn
ông bước chân vào đền thờ lúc đó chính là Muhammad. Muhammad vừa mới lãnh đạo một
đoàn lữ hành lớn từ Syria trở về Mecca. Theo thông lệ, sau mỗi một
chuyến lữ hành thành công, Muhammad đều đến đền thờ Kaaba để tạ ơn Thượng Đế. Đại
diện của các tập đoàn thương mại Meccađến hỏi ý kiến Muhammad. Ông dõng dạc
trả lời: "Tất cả chúng ta hãy tìm mọi cách di chuyển Tảng Đá Đen (The
Black Stone) đến giữa đền thờ rồi cùng nhau đoàn kết xây lại nơi thờ phượng
Thiên Chúa Allah. Chúng ta sẽ biến nơi này thành một trung tâm của thế giới!"
(Tảng Đá Đen là một thiên thạch
đã có sẵn ở bán đảo Ả Rập từ rất lâu đời, không ai có thể xác định được niên đại
của nó. Người Ả Rập từ ngàn xưa đã tỏ lòng tôn kính tảng đá này và họ coi nó
như một biểu tượng của Đấng Tối Cao. Họ xây đền thờ hình khối phủ lên tảng đá
đen và gọi đền thờ đó là Kaaba. Tiếng Ả Rập Kaaba có nghĩa là "nhà hình khối"
(CubicBuilding). Đền thờ Kaaba và tục lệ hành hương đã có từ nhiều ngàn năm trước
Công Nguyên).
Sứ giả của Thiên Chúa (Messenger of God)
Vào năm 610, lúc đó Muhammad
vừa tròn 40 tuổi, ông thường cầu nguyện, bố thí và thích tìm đến nơi vắng vẻ một
mình để suy tưởng về Thiên Chúa. Vào đêm thứ Bảy mùa chay Ramadan, Muhammad một
mình leo lên đỉnh núi Hira ở ngoại ôMecca và tìm đến một cái hang. Bỗng
nhiên, một thiên thần hiện ra với ông và ra lệnh "Hãy thuật lại"
(Recite!)
Vào thời đó, ở Ả Rập có nhiều
người làm nghề thầy pháp (soothsayers). Họ thường nhảy múa lên đồng để xuất hồn
xuống âm phủ gặp hồn ma người chết. Sau đó thầy pháp "thuật lại" những
điều người chết muốn nói với thân nhân còn sống. Vì thế các thầy pháp được gọi
là "người thuật lại" (Reciter/ kahin). Khi thiên thần ra lệnh cho
Muhammad thuật lại, ông liền từ chối và trả lời ngay rằng: "Tôi không phải
là một thầy pháp!" (I'm not a reciter!)
Ngay lúc đó, thiên thần ôm
choàng lấy Muhammad một cách thân mật và nói nhỏ nhẹ bên tai ông những lời mặc
khải đầu tiên:
"Hãy thuật lại
nhân danh Chúa
Là đấng đã tạo ra
loài người từ một giọt máu
Hãy thuật lại: Thiên
Chúa hào phóng vô cùng
Ngài dùng ngòi bút để
dạy dỗ loài người
Về những gì loài người
chưa biết".
(Recite in the name
of thy God
Who createth man from
a clot of blood
Recite: Thy Lord is
the Most Bountiful
He who taught by the
pen
taught man what he
knew not - Koran 96:1
Muhammad sợ hãi chạy ra khỏi
hang và leo lên đỉnh núi với ý định gieo mình xuống vực để tự tử - Nhưng vừa mới
chạy được nửa đường thì nghe có tiếng nói từ trên trời xuống: "Hỡi
Muhammad, con là Sứ giả của Thiên Chúa. Ta là thiên thần Gabriel đây!"
Muhammad đứng trân trân nhìn
vị thiên thần và không thể bước tới bước lui. Muhammad quay mặt đi hướng khác,
nhưng dù quay hướng nào cũng vẫn nhìn thấy thiên thần ở trước mặt. Muhammad kể
rằng: vị thiên thần là một người đàn ông và không đẹp như tranh vẽ của Ki Tô
Giáo. Thiên thần tự xưng là "Thần linh của Chân lý" (The Spirit of
Truth). Nhiệm vụ của ngài là một phương tiện truyền thông của Thiên Chúa xử dụng
để truyền mọi điều của Chúa cho loài người được biết.
Muhammad nghe thiên thần
Gabriel giảng giải những điều như vậy liền cảm thấy yên lòng nên bỏ ý định tự tử
và chạy về nhà thuật lại cho bà Khadija biết. Khi vừa trông thấy bà Khadija,
Muhammad vội quì xuống rồi bò tới bằng hai tay và hai đầu gối. Muhammad nhào
vào lòng bà Khadija như một đứa bé nhào vào lòng mẹ. Muhammad nói: "Hãy
che chở tôi, hãy che chở tôi". Bà Khadija ôm lấy Muhammad trong vòng tay
và nói những lời âu yếm dịu dàng nhằm trấn an, vì lúc đó bà nghĩ rằng Muhammad
có thể đã bị ma ám (Jinni-possessed). Vào thời đó, người Ả Rập không biết đến
các chứng bệnh tâm thần. Mỗi khi gặp trường hợp có người mắc bệnh điên loạn hay
khủng hoảng tinh thần, người ta thường gán cho là bị ma ám! Bà Khadija tin tưởng
nơi Thượng Đế nên đã an ủi Muhammad: "Anh là người tốt đối với mọi người
và anh hay giúp đỡ những người nghèo khó. Nhất định Thượng Đế không bao giờ làm
điều gì xấu cho anh đâu, cưng ạ!"
Liền sau đó bà Khadija dẫn
Muhammad đến nhà người anh họ cao niên của bà là Waraqua. Ông này là một tín đồ
Ki Tô Giáo rất thông thạo Thánh Kinh Tân Ước bằng tiếng Hy Lạp. Khi thấy bà
Khadija và Muhammad đến, Waraqua không tỏ vẻ ngạc nhiên. Ông vui vẻ đón chào:
"Thật là một điều thánh thiện! Thiên Chúa đã ban cho Muhammad một bộ luật
lớn như ngài đã ban cho Thánh Mai-sen xưa kia. Ôi! Muhammad là tiên tri của các
dân tộc Ả Rập." (Holy! Holy! There has come to him the greatest MANUS who
came to Moses aforetime and lo, he is the prophet of the Arab peoples -
Muhammad, a biography of the prophet by Karen Amstrong. Pages 84, 85).
Waraqua đã dùng tiếng Hy Lạp
"MANUS", có nghĩa là Sách Luật, có ý ám chỉ Muhammad là môt tiên tri
sẽ mang đến cho các dân tộc Ả Rập một cuốn sách luật vĩ đại như Maisen đã mang
đến cho dân tộc Do Thái cuốn sách Kinh "TORAH", theo tiếng Hebrew
cũng có nghĩa là Sách Luật. Muhammad đã tiếp thu ý kiến này. Về sau, Muhammad
đã đưa vào kinh Koran rất nhiều điều luật về hình sự, dân sự và cả về các mặt
xã hội chính trị, kinh tế nữa.
Waraqua giải thích cho
Muhammad: "Sự mặc khải của Thiên Chúa cho loài người qua các trung gian là
các vị tiên tri (prophets) có tính cách liên tục từ xưa đến nay: khởi đầu từ tổ
tiên loài người là Adam, sau đó đến Noah, Abraham, Moses, Isaiah, Gioan
Baotixita và Jesus".
Muhammad chấp nhận quan điểm
củaWaraqua nên sau này Muhammad khẳng định đạo Hồi không phải là đạo mới mà chỉ
là "Đạo Thiên Chúa Canh Cải" mà thôi (Islam is a Reformed Religion of
God).Waraqua cảnh báo cho Muhammad biết trước về những mối nguy hiểm sẽ xảy đến
cho người được Chúa chọn làm tiên tri: "Anh sẽ là tiên tri của các dân tộc
Ả Rập. Tôi già rồi nhưng tôi sẽ ráng sống cho đến khi người ta ném anh ra ngoài
xã hội." Muhammad nghe nói vậy tỏ ra rất bối rối sợ hãi. Waraqua bèn mượn
lời của Chúa Jesus trong Thánh Kinh để giải thích cho Muhammad: "Không có
tiên tri nào được trọng vọng ở quê hương mình!" (A prophet is always
without honor in his own country!).
Waraqua tỏ ra là một người học
thức sáng suốt và rất am tường tình hình của xứ Ả Rập lúc đó, Ông đã đưa ra những
lời khuyên Muhammad rất xác đáng:
1. Rao giảng những điều mới
được mặc khải là một sứ mạng hết sức nguy hiểm nên cần phải có thời gian chuẩn
bị mọi việc kỹ càng.
2. Trong thời gian đó, đế quốc
Ki Tô Giáo Byzantine đang dòm ngó bán đảo Ả Rập, Waraqua khuyên Muhammad cần
tránh tỏ ra thân Ki Tô Giáo hoặc Byzantine để khỏi bị quần chúng gán cho tội
thông đồng với địch.
3. Waraqua biết Muhammad chủ
trương độc thần tuyệt đối nhưng ông khuyên Muhammad đừng vội triệt phá các tượng
thần - Lý do vì dân Ả Rập dù có thờ ba nữ thần là những con gái của Thiên Chúa Allah
thì họ cũng vẫn là những tín đồ của đạo Abraham (Abrahamic Religion). Đạo
Abraham chính là đạo Do Thái trước thời Moses (Pre-Mosaic Judaism) và cũng là đạo
cổ truyền của dân Ả Rập. Muhammad nghe lời khuyên của Waraqua nên đã hoàn toàn
im hơi lặng tiếng trong hai năm và sau đó thực hiện đúng những điều Waraqua đã
dặn.
Năm 612, tâm lý chung của
dân Mecca là chỉ lo làm giàu bằng mọi cách, bất chấp mọi giá trị đạo
đức. Các tập đoàn buôn bán coi nhau như thù địch nên xã hội Mecca lâm
vào tình trạng chia rẽ cùng cực. Tâm lý quần chúng Ả Rập lúc đó khao khát đi
tìm một giải pháp tôn giáo mới (a new religious solution) đáp ứng nhu cầu chung
của dân tộc Ả Rập.
Muhammad cũng như đại đa số
dân Ả Rập không thể chấp nhận quan niệm Thiên Chúa Ba Ngôi của đạo Ki Tô vì nó
mang nặng tính chất thần thoại Hy Lạp. Người Ả Rập đã cảm nhận từ rất lâu đời
tinh thần tôn giáo Abrahamic, tức tinh thần của đạo Do Thái Nguyên Thủy (4000
TCN - 1250 TCN), cho nên Muhammad tìm về gốc đạo Do Thái như tìm về với cội nguồn
tinh thần của cả dân tộc. Chính vì quan niệm này mà trong đạo hồi Abraham được
coi là một tín đồ Hồi Giáo đầu tiên (The First Muslim) là vị tổ phụ lập đạo và
cùng là tổ phụ của dân tộc Ả Rập.
Muhammad không bao giờ tự
coi mình là người lập đạo, không bao giờ tự xưng mình là giáo chủ hoặc là Đấng
Cứu Thế. Ông không công nhận mình có một sứ mạng nào đối với cả thế giới (no
universal mission) cũng không có một nhiệm vụ chính trị nào. Ông chỉ nhấn mạnh
một điều rằng: Ông là tiên tri cuối cùng của Thiên Chúa. Nói cách khác, sau
Muhammad sẽ không có một tiên tri nào cả. Điều này rất quan trọng đối với Hồi
Giáo: Sau khi Muhammad qua đời, tất cả những người kế vị (Caliphs) đều chỉ là
những người kế vị với tư cách lãnh đạo Cộng đồng (Leaders of Community) chứ
không ai có thể kế vị với tư cách tiên tri (prophet). Điều này ngụ ý: không ai
có tư cách sửa đổi giáo lý đạo Hồi hoặc sửa đổi những điều đã ghi trong kinh
Koran.
Muhammad là một người bản
tính giản dị, rất ghét lối sống xa hoa phù phiếm. Ông thường mặc loại quần áo
may bằng vải thô. Khi kiếm được tiền, ông thường chia sẻ rộng rãi với những người
nghèo. Ông có khuynh hướng sống khổ hạnh. Ông không kết án người giàu một cách
quá khích như Jesus "Kẻ giàu vào thiên đàng khó hơn lạc đà chui qua lỗ
kim". Nói như vậy có nghĩa là mọi kẻ giàu đều phải xuống hỏa ngục.
Muhammad không tin như vậy, ông nói: "Người nghèo vào thiên đàng trước người
giàu". Ông tin rằng Chúa nhân lành nên không bao giờ phạt một người nào đời
đời trong hỏa ngục. Thậm chí như quỉ Satan, Muhammad tin rằng Satan sẽ được
Chúa tha tội trong ngày Phán Xét Cuối Cùng. Vào thời Muhammad, hai phần ba phụ
nữ trong xã hội là nô lệ. Muhammad muốn đem đến cho họ một niềm hy vọng trong
tôn giáo. Vì thế đa số những tín đồ Hồi Giáo đầu tiên là những người nô lệ, phụ
nữ và những người khốn cùng trong xã hội.
Muhammad là người khiêm tốn
nên ông cũng xác định Kinh Thánh Koran có một nhiệm vụ cũng rất khiêm tốn:
"Koran chỉ làm nhiệm vụ của một kẻ nhắc lại những điều mà mọi người đã biết"
(The Quran claimed to be a reminder of things that every body knew already -
Koran 80: 11).
Tất cả những nghi lễ lớn của
đạo Hồi hiện nay như hành hương Mecca, sự tôn kính thánh tích Tảng Đá Đen ở đền
thờ Kaaba, tục lệ bố thí cho người nghèo, ăn chay trong tháng Ramadan, giết súc
vật làm lễ hy sinh (animal sacrifice)... đều xuất phát từ tôn giáo cổ truyền của
các bộ lạc Ả Rập nhiều ngàn năm trước khi Muhammad ra đời.
Có thể nói mọi người Ả Rập đều
đã sẵn có niềm tin vào Thiên Chúa, Muhammad không phải tốn công thuyết phục đồng
bào của mình về điểm này, chỉ cần làm sao thuyết phục họ tin rằng Muhammad là
tiên tri cuối cùng của Thiên Chúa.
Công việc trọng tâm trong sự
thuyết phục đó tưởng đơn giản mà thật khó khăn. Sau hai năm viết sách Koran và
thuyết phục mọi người, Muhammad chỉ chinh phục được mấy người trong gia đình: vợ,
bốn con gái và hai con nuôi. Ông chú Abu Talib không chịu theo. Tuy nhiên, một
người xa lạ là Abu Bakr chẳng những nhiệt tình theo đạo Hồi mà còn hết lòng
bênh vực che chở cho Muhammad. Abu Bakr là một thương gia rất giàu và có uy quyền
đối với các tập đoàn thương mại ở Mecca. Nhờ uy tín của ông, nhiều thanh
niên và những người có thế lực tại Mecca đã theo đạo Hồi.
Cuộc Tỵ Nạn tại Ethiopia
Người Ả Rập tin Adong - Evà
là tổ tiên loài người và tin có một Thiên Chúa mà họ gọi là Allah, nhưng không
biết từ bao giờ họ lại tin rằng Thiên Chúa Allah có 3 cô con gái tên là Al-Lat,
Al-Uzza và Manat. Tại đền thờ Kaaba ở Mecca, người Ả Rập tôn thờ Thiên
Chúa là chính yếu. Thiên Chúa vô hình vô tượng nhưng ba nữ thần con của Thiên
Chúa thì có tượng thờ tại đền này. Ngoài ra, người dân Mecca còn làm
thêm 360 tượng thần cai quản 360 ngày trong một năm Âm Lịch.
Năm 616, Muhammad giảng đạo
tại đền thờ Kaaba và thuyết phục mọi người hãy phá bỏ các tượng thần, nhất là 3
tượng nữ thần con của Thiên Chúa.
Muhammad thuyết giảng rằng:
đạo thật của Abraham là chỉ tôn thờ một Thiên Chúa mà thôi. Thiên Chúa không đẻ
con nên không có thần nào là con trai hay con gái của Thiên Chúa cả!
Trước đây 6 năm, Waraqua đã
cảnh báo Muhammad về sự nguy hiểm khi khuyên người ta phá bỏ các tượng thần.
Nay Muhammad phải đối diện với sự nguy hiểm trong thực tại: Muhammad mất hết sự
ủng hộ của mọi người. Các tập đoàn thương mại ở Mecca công khai tuyên
bố Muhammad là kẻ thù của quần chúng. Mọi người kết tội Muhammad đã nhục mạ những
vị thần thiêng liêng của họ. Nhiều người cuồng tín mang theo vũ khí đi lùng bắt
Muhammad. Lúc đó, Muhammad vội chạy trốn để tránh mặt. Bọn người cuồng tín kéo
đến nhà ông chú của Muhammad là Abu Talib để hành hung ông mặc dù lúc đó ông đã
rất già. Cuối cùng bọn cuồng tín bắt hết những người nô lệ theo đạo Hồi trói
vào cọc rồi thiêu sống.
Muhammad biết tình hình rất
căng thẳng và không thể hòa giải nên nội trong đêm hôm đó Muhammad cùng 53 người
thân nhân và tín đồ bí mật lẻn ra khỏi thành phố Mecca đi tỵ nạn tại
xứ Abyssinia (tức Ethiopia ngày nay). Muhammad và mọi người đi theo
được vua Negus tiếp kiến và bảo vệ - Muhammad biết vua Negus và triều
đình Abyssinia theo Ki Tô Giáo nên ông bảo Zayd chọn lựa các đoạn
trong kinh Koran nói về Chúa Jesus và bà Maria đọc to lên cả triều đình cùng
nghe. Sau khi nghe những câu thơ của kinh Koran ca ngợi Chúa Jesus và đức bà
Maria, nhà vua khen ngợi Muhammad và nghĩ rằng đạo Hồi cũng là đạo Ki Tô!
Những Vần Thơ của Quỉ Sa Tăng.
Trong thế giới Tây Phương
thù nghịch với đạo Hồi, người ta đã phổ biến nhiều chuyện bề ngoài có tính cách
lịch sử nhưng bên trong nhằm chế nhạo hoặc bôi bẩn giáo chủ Muhammad. Một trong
những chuyện đó rút ra từ sách Sử Ký của Ibn Sad và Tabari. Chuyện đó kể rằng:
Sau khi giảng đạo tại Kaaba nhằm thuyết phục mọi người phá bỏ các tượng thần,
Muhammad không ngờ bị mọi người phản đối kịch liệt. Chẳng những thế, Muhammad
còn bị những người cuồng tín phẫn nộ đi lùng bắt để giết chết. Muhammad bị dồn
vào thế kẹt hết sức nguy hiểm. Để tạm thời đối phó với tình thế, Muhammad viết
trong chương 53 của kinh Koran hai câu thơ nhượng bộ những người đa thần giáo
như sau:
"Các
người không coi trọng ba vị nữ thần
Al-Lat,
Al-Uzza và Manat sao?
Những
vị đó đều là những thiên thần
mà lời
cầu nguyện của họ đều được
Thiên
Chúa chấp nhận".
(Have
you considered Al-Lat, Al-Uzza and Manta?
They are the exalted
angels whose intercession is approved - Koran, sura 53: 19-20).
Sau đó, Muhammad sai người
đưa kinh Koran cho những người ở Mecca đọc, đặc biệt lưu ý họ về hai
câu thơ nói về ba vị nữ thần. Những người đa thần giáo ở Mecca cho rằng
Muhammad đã chịu thừa nhận các nữ thần của họ và họ bằng lòng bỏ qua cho
Muhammad về tội xúc phạm thần thánh trước đây.
Mấy năm sau, Muhammad kéo
10.000 quân trở lại chiếmMecca. Đợi đến lúc hoàn toàn làm chủ tình hình ở Mecca,
Muhammad mới dám hủy bỏ hai câu thơ 19-20 trong Sura 53. Muhammad viết trong
chương 5 những câu thơ phủ nhận các nữ thần, gọi các nữ thần là sản phẩm tưởng
tượng không đáng tôn thờ.
Chương 5 trong kinh Koran
còn nói rõ rằng: Các câu thơ trước đây chấp nhận sự tôn thờ các nữ thần Ả Rập
là những câu thơ đã được gợi ý bởi quỉ Sa Tăng. (The verses inspired by Satan)
Năm 1988, nhà văn Anh gốc Ấn
Salman Rushdie đã mượn ý của câu chuyện trên để viết cuốn tiểu thuyết "The
Satanic Verses". Rushdie sưu tầm các chuyện huyền thoại của Tây Phương từ
xưa đến nay nói về Muhammad nhằm mục đích tạo ấn tượng nơi độc giả về Muhammad
như một gã lừa đảo với những tham vọng chính trị.
Chủ đích của cuốn tiểu thuyết
cũng nhằm chứng tỏ rằng cuốn kinh Koran của đạo Hồi không phân biệt được điều
lành và điều dữ. Koran chẳng bao giờ là sách ghi lời của Chúa mà hoàn toàn được
sáng tạo bởi cá nhân Muhammad mà thôi.
Chuyến Du Hành Ban Đêm (The
Night Journey).-
Trong một buổi tối năm 620,
Muhammad đến thăm cô em họ là Umm Hani (chị ruột của Ali) cư ngụ ở gần đền thờ
Kaaba. Sau đó, Muhammad vào đền thờ để ngủ qua đêm. Trong lúc đang ngủ thì ông
được thiên thần Gabriel đánh thức dậy rồi đặt ông ngồi trên lưng một con ngựa
thần. Tiếng Ả Rập gọi con ngựa thần là Buruq. Đó là một con ngựa có đầu người
và có hai cánh giống như cánh chim rất lớn. Ngựa thần chở ông từ Mecca đến Jerusalem rồi
đáp trên núi Đền Thờ (TempleMount). Tại đây, Muhammad được đón chào bởi các
tiên tri Do Thái: Abraham, Mai-sen và Jesus. Thiên thần Gabriel dẫn Muhammad đến
một cái thang và cả hai cùng leo lên. Tại tầng trời thứ nhất, Muhammad gặp tổ
tiên loài người là Adam. Tầng thứ hai do Jesus và Gioan Baotixita
cai quản. Tầng thứ ba có Joseph. Tầng thứ tư do Enoch chủ trì. Tầng thứ năm do
Aaron, tầng sáu do Mai-sen. Tầng thứ bảy do Abraham. Vòm trời trên cùng là nơi ở
của Thiên Chúa Allah.
Sau khi được yết kiến Thiên
Chúa và được ngài căn dặn phải cầu nguyện mỗi ngày 50 lần, Muhammad cùng với
thiên thần Gabriel xin cáo từ và xuống thang. Khi xuống đến tầng thứ sáu thì
Mai-sen dặn Muhammad rằng: "Không nên bắt tín đồ cầu nguyện nhiều quá.
Thiên Chúa đòi phải cầu nguyện mỗi ngày 50 lần nhưng chỉ cần cầu nguyện mỗi
ngày 5 lần cũng đủ rồi!
Sau giấc mơ
đi Jerusalem năm 620, Muhammad viết kinh Koran qui định mỗi ngày các
tín đồ Hồi Giáo phải cầu nguyện 5 lần. Mỗi lần cầu nguyện phải quay mặt về hướng Jerusalem.
Năm 627, Muhammad ra lệnh hành quyết tập thể 700 người Do Thái tại Medina vì những
người này có âm mưu chống lại ông. Sau vụ này ông thù ghét người Do Thái và đạo
Do Thái nên ông viết lại kinh Koran qui định cho các tín đồ khi cầu nguyện phải
quay mặt về hướng Mecca chứ không phải là Jerusalem như trước.
Ngôi vị của Mai-sen (giáo chủ
đạo Do Thái) trước đây cao hơn ngôi vị của Jesus (Giáo Chủ đạo Ki Tô). Nay
Muhammad đảo ngược lại: nâng Jesus lên cao hơn Mai-sen vì lúc này Muhammad chưa
có điều gì thù oán với Ki Tô Giáo. Ngày nay, các tín đồ Hồi Giáo kính trọng nhất
là Tiên tri Muhammad, kế đến là tiên tri Jesus và tiên tri Mai-sen. Đối với họ,
tất cả các tiên tri này đều là những người trần mắt thịt và đều là đầy tớ của
Thượng Đế (Servants of God).