THÂN THẾ,
SỰ NGHIỆP VÀ LẬP ĐẠO CỦA
MUHAMMAD Medina (622-632)
GIAI ĐOẠN
II (622-632)
Năm
619, người vợ yêu quí của Muhammad là bà Khadija qua đời, hưởng thọ 64 tuổi.
Qua năm sau, Muhammad lấy cô Sawdah, 30 tuổi, là em dâu của ông Suhayl tù trưởng
bộ lạc Amir. Cô Sawdah hiện là một góa phụ. Ba năm về trước, Sawdah đã cùng chồng
đi tỵ nạn tại Ethiopia cùng với gia đình của Muhammad vì vợ chồng cô
đều theo đạo Hồi. Khi trở lại Meccađược ít lâu thì chồng cô bị bệnh và qua
đời. Muhammad cưới cô Sawdah với ý định liên kết quân sự với tù trưởng Amir,
nhưng sau này tù trưởng Amir đã chống lại Muhammad và bị bắt làm tù binh tại Medina.
Cũng
trong năm 620, người bạn giàu có và hết sức thân cận của Muhammad là Abu Bakr
đã gã cô con gái út của ông là Aisha mới lên 6 tuổi cho Muhammad. Sự hứa gã chỉ
có tính cách hình thức vì Aisha vẫn sống với cha mẹ. Sau này, khi Aisha lên 9
tuổi mới sống với Muhammad như vợ chồng.
Trong
thời gian này, tại thành phố Yathrib đã có khoảng 100 gia đình theo đạo Hồi.
Yathrib là một ốc đảo khá lớn, cách Meccakhoảng 200 dặm về phia bắc. Đây
là nơi cư ngụ lâu đời của sáu bộ lạc Ả Rập và ba bộ lạc Do Thái.
Vào
tháng 9 năm 622, một phái đoàn 75 người từ Yathrib đến Mecca mời Muhammad cùng
gia đình và các tín đồ Hồi Giáo di cư về Yathrib để thành lập cộng đồng Hồi
Giáo đầu tiên. Sau một thời gian ngắn chuẩn bị, Muhammad và khoảng 100 gia đình
Hồi Giáo bí mật trốn Mecca để di cư đến Yathrib. Trong số này có gia
đình của Abu Bakr.
Sau mấy
ngày băng qua những bãi cát sa mạc, đoàn người di cư của Muhammad đã tới ốc đảo
Yathrib ngày 24 tháng 9 năm 622. Đây là ngày trọng đại trong lịch sử Hồi Giáo
vì đó chính là ngày mở đầu cho cả một kỷ nguyên Hồi Giáo. Lịch Hồi Giáo bắt đầu
từ ngày này chứ không phải từ ngày sinh của Muhammad. Năm 622 Dương Lịch trở
thành năm thứ nhất của Âm Lịch Hồi Giáo. Danh từ Ả Rập gọi cuộc di cư lịch sử
này là HIJRA. Thành phố Yathrib nguyên là tên gọi theo tiếng Hebrew của người
Do Thái, nay được đổi tên thành Medina, chữ tắt của Madinat Al Rasul có nghĩa
là Thành Phố của Thiên Sứ (City of Messenger). Medina từ một ốc đảo
heo hút giữa sa mạc đã trở thành thánh địa thứ hai sauMecca. Hiện nay mỗi năm
cũng có khoảng từ 2 đến 3 triệu tín đồ trên khắp thế giới đến đây hành hương.
Lúc ban
đầu mới đến Medina, Muhammad và đoàn người Hồi Giáo chỉ là những kẻ tỵ nạn
rách nát chạy trốn sự ngược đãi của những người đa thần giáo ở Mecca.
Nhưng dần dần, trong vòng 5 năm kế tiếp, cả 6 bộ lạc Ả Rập ở Medina đều theo đạo
Hồi và tất cả thành phố Medina được đặt dưới quyền lãnh đạo duy nhất của
Muhammad.
Cả 6 bộ
lạc ở Medina cùng ký với nhau một hiệp ước gọi là "Umma",
có nghĩa là hiệp ước thành lập một đơn vị xã hội căn bản. Nói đúng hơn, đó là một
cộng đồng Hồi Giáo liên kết với nhau trên nền tảng tôn giáo chứ không đặt trên
nền tảng huyết thống hay chủng tộc. Kinh Koran nêu lên điều căn bản cho cộng đồng
Hồi Giáo như sau: "Quan hệ giữa các tín đồ Hồi Giáo với nhau là quan hệ
anh em ruột thịt" (The believers are bond of brothers - Koran 49:10).
Một điều
đặc biệt là tại Medina, Muhammad ra lệnh cho các tín đồ phải nghe lời ông
như nghe lời Chúa. Tất cả các tín đồ già trẻ lớn bé đều tuân lệnh của ông răm rắp.
Ông viết trong kinh Koran: "Ai vâng lời tiên tri là vâng lời chính Thiên
Chúa" (He that obeys the Apostle, obeys Allah himself - Koran 4:80).
Không
ai có thể phủ nhận được tài thuyết phục của Muhammad. Ông đã dùng tôn giáo để
thống nhất các bộ lạc Ả Rập trước đây luôn luôn thù nghịch nhau. Tôn giáo đã tập
họp họ trong một cộng đồng Hồi Giáo (umma). Medina đã trở thành khuôn
mẫu đầu tiên về umma mà các người kế vị sau này đã bắt chước để bành trướng đạo
Hồi ra khắp thế giới
Muhammad
trú ngụ tại Medina trong 10 năm. Nhiều sử gia chuyên về Hồi Giáo đã
chia thời gian này làm hai giai đoạn:
- Giai
đoạn đầu từ năm 622 đến 627
- Giai
đoạn sau từ năm 627 đến 632 là năm Muhammad qua đời.
GIAI ĐOẠN
ĐẦU TẠI MEDINA (622-627)
Trong
thời kỳ 5 năm đầu trú ngụ tại Medina, Muhammad và cộng đồng Hồi Giáo đầu tiên
đã thực hiện rất nhiều cuộc đột kích (raids) nhằm mục đích tấn công các đoàn lữ
hành đi qua sa mạc để cướp lạc đà, ngựa, vũ khí, hàng hóa và các loại thực phẩm.
Cộng đồng Hồi Giáo tại Medina khó có thể sống còn nếu không tổ chức
các vụ cướp nói trên. Ngoài ra, Muhammad biết trước những người đa thần giáo ở Mecca sớm
muộn cũng sẽ tấn công cộng đồng Hồi Giáo tại Medina. Do đó ông phải lo
tăng cường binh lực bằng cách cướp lạc đà, ngựa, vũ khí và tích lũy lương thực.
Muhammad
luôn luôn kêu gọi cộng đồng Hồi Giáo tạiMedina phải sẵn sàng chiến đấu và
tích cực tham gia thánh chiến (Jihad). Ý niệm "thánh chiến" trong Hồi
Giáo không chỉ có nghĩa là sẵn sàng tử đạo mà còn có nghĩa là một "bổn phận
thiêng liêng" của mọi tín đồ phải tham gia chiến đấu trên mọi mặt trận, từ
tinh thần đến vật chất, từ kinh tế đến chính trị. Do đó, các chương trong kinh
Koran được viết tại Medina đều mang đậm nét về chính trị, xã hội,
kinh tế và cả về quân sự nữa.
Muhammad
hoàn toàn khác với Jesus vì ông không bao giờ chấp nhận "đưa má cho người
ta tát". Ông đưa ra một học thuyết được mệnh danh là "Thần Học Chiến
Tranh Chính Đáng" (Theology of the just war). "Khi anh gặp những kẻ
không tin đạo gây chiến thì đừng bao giờ quay lưng về phía
chúng" (When you meet those who disbelieve marching for war,
then turn not your back to them - Koran 8:15). Khi viết những câu thơ này,
Muhammad đang phải đối phó với nguy cơ chiến tranh với Mecca. Muốn chiến
thắng Mecca thì trước hết phải tiến hành những cuộc đột kích những
chuyến hàng nhỏ của Mecca để làm suy yếu dần nguồn nhân lực tài lực của
họ. Sau đó tiến đến những cuộc tấn công lớn để triệt tiêu độc quyền buôn bán của Mecca với Syria.
Khi độc quyền buôn bán đó không còn nữa thì nền kinh tế củaMecca sẽ bị suy
sụp. Cuối cùng sẽ có ngày toàn thành phố Meccabị Muhammad chinh phục.
1. Những cuộc "thánh chiến" đẫm
máu.-
Trong mấy
tháng đầu năm 623, Muhammad cho người đi thám thính để theo dõi tình hình của
các đoàn lữ hành Mecca đi Syria. Quân thám thính về báo cáo có một đoàn lữ hành
sắp đi ngang qua Medina và có rất ít người bảo vệ. Muhammad sai
Hamzah dẫn vài chục kỵ binh đi phục kích. Sau khi giết hết mọi người trong đoàn
lữ hành, đoàn kỵ binh của Hamzah dẫn hết lạc đà, ngựa và toàn bộ chiến lợi phẩm
về Medina.
Từ đầu
năm 623 đến tháng 9 năm đó, Muhammad đã thực hiện nhiều cuộc đột kích như vậy.
Các thương gia ở Mecca đối phó bằng cách ký hiệp ước với các bộ lạc ở
dọc theo bờ biển Hồng Hải.
Con đường
dọc theo bờ biển Hồng Hải là trục lộ chính của các đoàn lữ hành từ Mecca đi
Syria. Đồng thời, các thương giaMecca tuyển nhiều kỵ binh ưu tú thuộc bộ lạc
Bedouin để tăng cường bảo vệ các đoàn lữ hành.
Tháng 9
năm 623, sau khi đã tăng cường an ninh mọi mặt, Mecca ủy nhiệm cho đại thương
gia Umayah Juma hướng dẫn một đoàn lữ hành rất lớn gồm có 2.500 lạc đà chở hàng
từ Mecca đi Syria. Muhammad hay tin này đã quyết định huy động toàn lực và đích
thân chỉ huy cuộc tấn công để cướp số hàng lớn lao này.
Cuộc tấn
công thành công mỹ mãn. Mecca bắt đầu cảm thấy phải nể sợ Muhammad.
Sau vụ này, Mecca đành tạm ngưng các chuyến buôn phải
qua Medina. Thay vì đi về phương bắc, họ đi về phương nam để buôn bán với
xứ Yemen.
Mặc dầu Mecca đã
bỏ tuyến đường phía bắc và phải đổi về tuyến đường phía nam buôn bán với Yemen,
nhưng Muhammad vẫn không buông tha. Tháng giêng năm 624, Muhammad sai Abdallah
mang quân đi vòng xuống phía nam của bán đảo Ả Rập, cách Medina tới hơn 400 dặm,
để chận đánh đoàn lữ hành của Mecca đang trên đường tới Yemen. Đoàn quân của
Abdallah cướp trọn số hàng đem về Medina. Vụ này gây phẫn nộ cho mọi người
Ả Rập vì theo truyền thống của đạo cổ truyền thì tháng giêng là tháng thiêng
liêng, mọi việc cướp của giết người phải được kiêng cữ. Dân Mecca gọi Muhammad
là kẻ vô thần.
Sự phẫn
nộ của dân Mecca chưa kịp nguôi thì xảy ra vụ kế tiếp. Đó là vào
tháng ăn chay Ramadan, tức tháng 3 năm 624, Muhammad nghe tin một đại thương
gia của Mecca là Abu Sufyan sẽ dẫn một đoàn lữ hành gồm trên 1000 người
chở nhiều hàng quí giá của ngoại quốc đem về Mecca.
Muhammad
huy động 500 quân, gồm có 350 tín đồ Hồi Giáo tình nguyện và 150 người thuộc
các bộ lạc ở Medina. Muhammad dẫn quân đến bố trí tại các đồi cát ở Badr, một địa
danh ở sát bờ Hồng Hải và cách Medina khoảng 100 cây số về phía tây. Badr là
nơi các bộ lạc Ả Rập thường tổ chức hội chợ để mua bán trao đổi các đặc sản của
mình.
Abu
Sufyan là một thủ lãnh thông minh và giàu kinh nghiệm. Trước khi đoàn lữ hành
tiến đến một đia điểm nguy hiểm hay khả nghi, Sufyan luôn luôn cho một toán tiền
thám phi ngựa đến đó trước để quan sát hoặc thăm dò dân địa phương. Toán tiền
thám về báo cáo cho biết quân phục kích của Muhammad hiện có mặt tại
Badr. Abu Sufyan ra lệnh cho đoàn lữ hành tạt ngang sang tay mặt để
đi xuống vùng bãi biển bằng phẳng của Hồng Hải. Đồng thời ông thuê một người cưỡi
ngựa rất giỏi tên là Damdam phi ngựa như bay về Mecca cấp báo và yêu
cầu mang quân ra để hộ tống đoàn lữ hành trên đường về Mecca.
Sau khi
được Damdam báo tin về việc Muhammad bố trí quân phục kích tại Badr, toàn dân
Mecca hết sức tức giận vì chuyến hàng do Sufyan điều khiển là chuyến hàng đắt
giá nhất của giới thương gia Mecca. Hơn nữa, cuộc đột kích diễn ra lúc này đang
trong tháng Ramadan chứng tỏ Muhammad bất chấp tục lệ cổ truyền thiêng liêng của
người Ả Rập. Càng ngày Muhammad càng tỏ ra là một người nguy hiểm!
Do sự tức
giận đó nên số người tự nguyện tham gia đoàn quân tiếp cứu Sufyan ghi tên rất
đông và gồm cả những người thân thiết của Muhammad nữa. Chỉ trong một thời gian
rất ngắn, giới lãnh đạo Mecca đã qui tụ được trên một ngàn người, trong đó có
chú ruột của Muhammad là Abbas, hai em họ chí thân đã từng sống chung với
Muhammad dưới một mái nhà từ nhỏ (đó là hai con trai của Abu Talif, chú ruột
kiêm cha nuôi của Muhammad từ lúc 8 tuổi), tù trưởng bộ lạc Amir là bạn thân
kiêm anh rễ của vợ Muhammad và có cả Hakim là cháu ruột của bà Khadija (vợ đầu
của Muhammad).
Ngay
chiều hôm đó, đoàn quân tiếp cứu rời Mecca tiến về Badr. Họ phải đi
qua Badr đến địa điểm trên bờ biển Hồng Hải để gặp đoàn lữ hành của Sufyan.
Quân số của cả hai đoàn gộp lại lên tới trên 2000 người. Ỷ vào quân số đông gấp
bốn lần quân số của Muhammad nên họ yên tâm lên đường trở về Mecca.
Toán
thám báo của Muhammad báo cáo cho biết đoàn quân đông đảo của Sufyan sắp đi
ngang qua Badr. Muhammad kêu gọi mọi người phải quyết tâm chiến đấu dù phải đối
đầu với bạn bè hoặc người ruột thịt. Muhammad bố trí người tại các giếng nước ở
Badr để ngăn chặn mọi nguồn nước uống. Số quân còn lại núp sau các đụn cát.
Muhammad căn dặn mọi người phải tiêu diệt những người lãnh đạo của Mecca ngay
từ đầu để gây rối loạn hàng ngũ của địch. Muhammad không sợ quân số đông của Mecca vì
ông biết rõ những người chỉ huy của họ chỉ quen chỉ huy những nhóm nhỏ mà thôi.
Khi có quân số đông, họ sẽ không biết điều động và phối hợp ra sao.
Quân số
của Muhammad tuy ít nhưng Muhammad có tài chỉ huy, quân lính dưới quyền ông tuyệt
đối vâng lời và có kỷ luật.
Trưa
hôm sau, đoàn lữ hành của Abu Sufyan và đoàn tiếp cứu của Mecca từ từ
tiến vào Badr. Các cung thủ của Muhammad núp sau các đụn cát đột nhiên xuất hiện
và ưu tiên nhắm bắn các cấp chỉ huy của đoàn lữ hành. Chỉ trong khoảnh khắc, 50
người chỉ huy đoàn lữ hành bỏ xác tại trận. Đoàn người lữ hành và tiếp cứu hoảng
hồn bỏ chạy tán loạn. Quân của Muhammad từ mọi hướng xông ra chém giết nhiều vô
kể. Một số tàn quân của Mecca sống sót chạy thoát. Muhammad chiếm được
hàng trăm lạc đà và ngựa, tịch thu nhiều vũ khí, quân trang và hàng hóa ngoại
nhập đủ loại. Muhammad cho giải 70 tù binh về Medina. Điều đặc biệt là những
tù binh này hầu hết đều là bạn bè hoặc họ hàng của những người Hồi Giáo trước
đây ở Mecca di cư về Medina.
Trong số
đó có Suhayl, tù trưởng bộ lạc Amir là bạn thân của Muhammad trước đây và là
anh chồng cũ của Sawdah, vợ của Muhammad hiện nay. Quan trọng hơn cả là tù binh
Abbas, chú ruột của Muhammad. Sau đó là Aquil và Nawfal là hai con trai của Abu
Talif, chú ruột kiêm cha nuôi của Muhammad. Còn một người nữa cũng
quan trọng không kém là Abu Alas, con rễ của Muhammad. Abu Alas lấy cô con gái
áp út của Muhammad tên là Zaynab. Vì Abu không chịu theo đạo Hồi và không di cư
đến Medina nên Zaynab phải ở lại Mecca với chồng con.
Khi
đoàn quân của Muhammad chiến thắng trở về, tất cả mọi người Hồi Giáo ở Medina chạy
ra đón mừng với niềm hân hoan chưa từng có. Bởi vì cứ mỗi lần đoàn quân chiến
thắng trở về thì tất cả những đồ cướp được (loots) đều phân phát cho tất cả mọi
người. Lần này họ hy vọng sẽ nhận được nhiều hàng hóa ngoại nhập quí hiếm mà
bình thường họ không thể có được.
Trong
lúc đó, ba bộ lạc Do Thái tại Medina tỏ ra hết sức lo ngại vì những
người Ả Rập Hồi Giáo quá hiếu chiến hiếu sát sẽ trở thành một mối nguy hiểm khó
lường trong tương lai.
Tại
Mecca cũng như tại khắp nơi trên bán đảo Ả Rập, tin tức về trận đánh ở Badr đã
làm mọi người phải bàng hoàng vì sự tổn thất lớn lao về người và của mà
Muhammad đã gây ra choMecca. Không riêng gì Mecca mà cả những bộ lạc
Bedouin và Do Thái cũng phải e dè và chuẩn bị đối phó với Muhammad.
Muhammad
và các tín đồ của ông không quan tâm đến những vấn đề nói trên. Trái lại, mọi
người đều cảm thấy rất phấn khởi sau một chiến thắng lớn hơn dự tưởng. Muhammad
càng thêm tin tưởng rằng Chúa đã phù hộ một cách đặc biệt cho đoàn quân Hồi
Giáo của ông. Chính Thiên Chúa đã tiêu diệt người Meccachứ không phải ông
diệt họ. Diệt địch nhân danh Chúa là đặc quyền của người Hồi Giáo. Ông đã diễn
đạt những ý trên trong kinh Koran như sau:
"Anh
đã không giết người như anh nghĩ mà là Chúa đã giết họ. Khi anh quật ngã họ
nhưng không phải do anh mà là Chúa đã quật họ. Đó là đặc quyền mà Chúa đã ban
cho những tín đồ của Ngài". (You did not slay the ennemies, but God slew
them. When thou threw it was not thyself that threw, but God threw. And that He
might confer on the believers a fair benefits - Koran 8:17).
Mặc dầu
thực hiện những hành vi cướp của giết người nhưng Muhammad và các tín đồ vẫn
tin tưởng mình có chính nghĩa và luôn luôn được Thiên Chúa phù hộ, cho nên dù
cho quân số ít cũng vẫn có thể đánh thắng những kẻ địch đông hơn gấp bội.
Kinh
Koran viết về điều này như sau:
"Nếu
quân số của anh chỉ có hai mươi, nhưng đều là những người kiên cường, các anh sẽ
chiến thắng hai trăm địch. Nếu quân số của anh có một ngàn, các anh sẽ chiến thắng
hai ngàn địch. Đó là sự cho phép của Chúa".
(If
there be twenty of you - patient men.
You
will overcome two hundred.
If
there be one thousand of you.
You
will overcome two thousand,
by
the leave of God. God is with the patient - Koran 8:67)
Cái ý
nghĩ cho rằng Thiên Chúa đứng cùng phe với mình trong các cuộc chiến tranh là một
đặc tính trong truyền thống của các đạo thờ Thiên Chúa, bao gồm cả đạo Do Thái,
đạo Ki Tô và đạo Hồi.
- Thánh
kinh Cựu Ước Exodus của đạo Do Thái kể chuyện Mai-sen dẫn dân Do Thái đến Biển
Đỏ thì được Chúa hóa phép cho nước biển rẽ sang hai bên tạo thành con đường cho
dân Do Thái đi qua đáy biển an toàn. Liền sau đó thì đoàn quân của vua Pharaon
Ai Cập ập tới để rượt bắt những người Do Thái. Khi đoàn quân Ai Cập đi xuống
con đường dưới đáy biển thì Chúa hóa phép cho nước biển từ hai bên ập lại khiến
cho đoàn quân Ai Cập bị chết đuối hết. Mai-sen và dân Do Thái quì xuống cảm ơn
Chúa và xưng tụng Chúa là "Thiên Chúa của các đạo binh"
- Người
Công Giáo cũng bắt chước người Do Thái tin rằng Thiên Chúa luôn luôn đứng về
phe với họ để giúp họ chống lại mọi kẻ thù. Tại các buổi lễ ở nhà thờ, người
Công Giáo luôn luôn đọc kinh trong đó có câu: "Thánh, Thánh, Thánh! Chúa
là Thiên Chúa các đạo binh, vinh danh Chúa trên các tầng trời!"
Đối với
Muhammad, mặc dầu ông dạy các tín đồ tin tưởng vào sự phù hộ đặc biệt của Chúa,
nhưng ông là người rất thực tế nên làm việc gì cũng phải tính toán cẩn thận.
Sau trận đánh ở Badr, Muhammad biết Mecca sẽ nhất định trả thù bằng
cách kéo quân đến tấn công Medina. Do đó, việc trước tiên ông phải làm là
đối xử tốt với các tù binh.
Trước hết,
ông đích thân đi điểm mặt 70 tù binh. Ông nhận ra hai người trước đây đã nhục mạ
ông khi ông giảng đạo tạiMecca. Ông ra lệnh cho quân lính mang hai người đó ra
chợ chém đầu. Sáu mươi tám người còn lại được cởi trói nhưng đều bị nhốt trong
nhà giam. Tất cả đều được cho ăn uống tử tế.
Trong
đêm hôm đó, Muhammad không ngủ được vì cảm thấy thương ông chú ruột là Abbas và
hai người em họ đã sống với ông trên mười năm tại nhà ông chú Abu Talib, đó là
Aquil và Nawfal. Sáng hôm sau Muhammad ra lệnh phóng thích ba người này. Mấy
hôm sau, nhiều thân nhân của các tù binh mang tiền hoặc vàng bạc đến Medina để
xin chuộc mạng cho các tù binh.
Sau khi
nghe tin chồng là Abu-Alas bị bắt làm tù binh ởMedina, Zaynab (con gái của
Muhammad) vội gom tiền bạc và nữ trang rồi đưa cho anh của chồng là Amir đến Medina nộp
tiền chuộc (ransom) cho Muhammad để lãnh Abu-Alas về. Trong số nữ trang Amir
giao nộp có cái vòng đeo tay của bà Khadija thường đeo lúc còn sống, trước khi
chết bà đã trao lại cho Zaynab. Vừa nhìn thấy chiếc vòng đó, Muhammad nhận ra
ngay đó là chiếc vòng đầy kỷ niệm của người vợ yêu quí nhất đời của ông. Ông
xúc động bật khóc rồi trả lại hết mọi thứ cho Amir. Ông cho gọi Abu Alas đến để
yêu cầu người con rễ phải đưa Zaynab và đứa cháu ngoại đến Medina sống
với ông. Trong lúc này tại Medina chỉ còn lại cô gái út tên Fatimah,
20 tuổi, là người thân duy nhất sống gần ông mà thôi. Sau khi Abu Alas hứa thực
hiện lời ông yêu cầu, y liền được thả tự do.
Chỉ vài
tuần lễ sau trận đánh Badr, tại Medina diễn ra hai đám cưới linh
đình:
- Đám
cưới thứ nhất của Fatimah và Ali. Ali là con trai út của ông chú Abu
Talib. Khi ông Talib qua đời thì Ali mới 5 tuổi, Muhammad đem về nuôi từ đó đến
nay. Ali và Fatimah đã sống với nhau chung một nhà từ nhỏ đến lớn nên rất hiểu
nhau.
- Đám
cưới thứ hai là của chính Muhammad và cô Hafsah, 18 tuổi, con gái của bạn
Muhammad là Umar.
Năm
625, Muhammad 55 tuổi, cô vợ bé bỏng mà Muhammad yêu quí nhất là Aisha - con
gái út của Abu Bakr - năm nay vừa tròn 11 tuổi. Mặc dầu còn nhỏ xíu nhưng Aisha
cũng biết ghen với các bà vợ khác của Muhammad. Tuy nhiên, trong đám cưới này,
Aisha không ghen với Hafsah mặc dầu Hafsah rất đẹp. Cô bé Aisha tuy còn nhỏ
nhưng rất thông minh. Cô bé hiểu rằng: Cha cô là Abu Bakr cũng như cha của
Hafsah là Umar đều đã gã con gái để kết thân với Muhammad. Từ mấy năm nay, Abu
Bakr và Umar đã là hai cộng sự viên quan trọng nhất của Muhammad. Vì cùng hiểu
như vậy nên Aisha và Hafsah trở thành đôi bạn chí cốt cho đến chết. Quả nhiên về
sau Abu Bakr và Umar đều trở thành những người kế vị Muhammad và đều là những
người then chốt nắm vận mạng của Hồi Giáo trong thời sơ khai.
Sau những
tổn thất nặng nề tại Badr, giới lãnh đạo Mecca quyết tâm tăng cường binh lực để
tiêu diệt căn cứ địa Medina của Muhammad. Một mặt Mecca thu phục các bộ lạc
Bedouin thiện chiến làm đồng minh. Mặt khác Mecca ngấm ngầm liên lạc với ba bộ
lạc Do Thái ở Medina làm nội ứng.
Điểm yếu
của Mecca là nhiều chiến sĩ tài giỏi đã chẳng may tử trận tại Badr, nay chỉ còn
lại một người có khả năng chỉ huy quân sự là Abu Sufyan.
Abu
Sufyan vô cùng căm thù Muhammad vì hai con trai của ông và cha vợ của ông đều bị
tử trận ở Badr. Từ tháng 3 năm 625, Sufyan bắt đầu mở chiến dịch phục thù.
Trong một đêm, Sufyan dẫn 200 quân đến bố trí bên ngoài thành Medina, sau đó
ông một mình đột nhập vào thành liên lạc với bộ lạc Do Thái Bani Nadir. Ông được
bộ lạc này cung cấp nhiều tin tức về quân số và hệ thống phòng thủ của
Muhammad. Trước khi trời sáng, Sufyan bắt hai người Hồi Giáo đem ra ngoài thành
chém đầu rồi nổi lửa đốt đồng lúa trước khi rút lui. Đến khi Muhammad hay tin,
đem quân đuổi theo thì đoàn quân của Sufyan đã phi ngựa chạy xa.
Sau vụ
này, Muhammad cho toán tình báo của ông đi điều tra. Kết quả tình báo cho biết
bộ lạc Do Thái Bani Nadir đã thông đồng với Abu Sufyan. Bộ lạc này có khoảng một
ngàn người chuyên nghề thợ rèn và thợ thủ công. Mấy hôm sau, nhân một vụ xích
mích giữa một nhóm người Do Thái với một nhóm người Ả Rập Hồi Giáo, kết quả của
vụ ẩu đả là một người Do Thái và một người Ả Rập bị tử thương.
Muhammad
nhân cơ hội này đem quân bao vây khu vực của bộ lạc Bani Nadir. Sau hai tuần lễ
bao vây, Muhammad không thấy các bộ lạc Do Thái khác có phản ứng gì và cũng
không thấy quân Mecca tới cứu đồng minh của họ. Tù trưởng bộ lạc Do Thái Bani
Nadir không hy vọng được tiếp cứu nên phải đầu hàng và xin Muhammad tha mạng.
Muhammad ra lệnh toàn thể bộ lạc Bani Nadir phải rời khỏi Medina và chỉ được
mang theo các động sản gọn nhẹ. Tất cả nhà cửa ruộng vườn đều bị tịch thu.
Sau khi
bộ lạc Do Thái Bani Nadir bị đuổi ra khỏi Medina thì tại ốc đảo này vẫn còn lại
hai bộ lạc Do Thái khác là bộ lạc Aws và bộ lạc Khasraj.
Ngày 11
tháng 3 năm 625, Mecca quyết định mở cuộc tấn công Medina. Tổng số quân huy động
được lên tới 3000 người với 3000 lạc đà và 200 ngựa, tất cả được đặt dưới quyền
chỉ huy của Abu Sufyan. Cuộc chuyển quân bằng lạc đà đi rất chậm nên mất mười
ngày đoàn quân mới tới gần Medina.
Muhammad
hay tin nên đem một ngàn quân đi nghênh chiến tại Uhud, cách Medina 20 dặm về
phía nam. Ngày 23-3-625, quân hai bên đối diện nhau tại Uhud. Điều đặc biệt là
đằng sau đoàn quân của Sufyan còn có một đoàn quân phụ nữ gồm toàn những người
có chồng, con trai hoặc cha bị tử trận ở Badr. Họ dàn hàng ngang phía sau các
đoàn quân vừa đánh trống tambourines vừa ca hát để khích lệ tinh thần của các
binh sĩ Mecca. Đoàn phụ nữ này được đặt dưới sự chỉ huy của bà Hind là vợ của
Sufyan. Bà Hind thề trước đoàn quân là sẽ mổ bụng ăn gan của Hamzah, một quân
sĩ của Muhammad bị nhận diện là người đã giết cha của bà Hind tại trận Badr.
Trong
trận này, Muhammad và quân sĩ chỉ mãi lo đối phó với đoàn quân của Sufyan ở
phía trước mặt mà không đề phòng ở phia sau lưng. Bất thần đoàn cung thủ của
Sufyan đã núp sẵn ở những đụn cát phía sau tiến lên bắn như mưa vào đoàn quân Hồi
Giáo. Sáu mươi lăm quân Hồi chết liền tại chỗ và hàng trăm người khác bị
thương, trong đó có Muhammad. Vì Muhammad bị bất tỉnh nên quân Hồi lo rút lui để
bảo vệ chủ tướng. Rất may là quân Mecca tuy đông gấp ba lần quân Hồi nhưng đã
không truy kích. Quân Hồi phải để xác đồng đội ở lại chiến trường. Đoàn quân
Mecca trả thù bằng cách cắt xẻo những xác chết của quân Hồi. Riêng xác của
Hamzah bị quân Mecca mổ bụng moi gan để đưa cho vợ của Sufyan là bà Hind. Mụ
này cắn một miếng ăn sống để thực hiện đúng với lời thề trước hàng quân trước
đó.
Sau vụ
thất trận bi thảm tại Uhud, tinh thần của cả cộng đồng Hồi Giáo (Umma) xuống thấp
chưa từng thấy. Nhiều tín đồ trước đây đã nghe Muhammad thuyết giảng là Thiên
Chúa đứng về phe của Hồi Giáo: "Hai mươi người đánh thắng hai trăm - Đó là
đặc quyền Chúa ban cho các tín đồ của Ngài - Koran 8:17". Nay giáo chủ bị
thương bất tỉnh, quân bị chết nhiều và đoàn quân Hồi chưa kịp đánh đã phải rút
chạy. Nhiều tín đồ tỏ ý thất vọng và coi trận Uhud là một dấu hiệu cho thấy
Thiên Chúa đã bỏ rơi tiên tri Muhammad.
Mấy hôm
sau, Muhamamad phục hồi sức khỏe, ông viết vào kinh Koran mấy câu thơ nhắc nhở
tín đồ: "Các tín đồ không nên coi thất bại ở trận Uhud là dấu hiệu của
Thiên Chúa đã ruồng bỏ tiên tri của ngài, hãy coi đó là dịp để xem ai là tín đồ
chân chính và ai không là chân chính - Koran 3:13, 3:152".
2. Harem của tiên tri tại Medina.-
Trận
đánh Uhud ngày 23 tháng 3 năm 625 đã để lại chiến trường 65 xác người Hồi Giáo
và tại Medina 65 người phụ nữ góa chồng. Vài tháng sau lại có thêm 50 người nữa
bị quân Mecca phục kích giết chết. Kết quả là tại Medina đã có trên một trăm
góa phụ. Đứng trước thảm cảnh này, Muhammad đã viết những câu thơ trong kinh
Koran nhằm khuyến khích đàn ông Hồi Giáo lấy thêm vợ:
"Nếu
thấy điều đó là tốt cho anh
Hãy
lấy thêm hai, ba, bốn vợ".
(Marry
such women as seem good to you
two,
three or four - Koran 4:3)
"Hãy
lấy những người đàn bà không có chồng
ở
trong cộng đồng của các người".
(Marry
the spouseless among you - Koran 24:33).
Khi viết
những câu thơ có tính cách cổ vũ chế độ đa thê, Muhammad không hề nghĩ đến chuyện
thỏa mãn dục tình một cách ích kỷ mà chỉ nghĩ đến một nhiệm vụ xã hội. Trong
hoàn cảnh xã hội Ả Rập lúc đó các bà góa khó có thể sống một mình vì những người
góa bụa cô đơn thường hay bị các kẻ gian lạm dụng hoặc bắt nạt. Do đó, các góa
phụ rất cần phải có người đàn ông giúp đỡ và che chở.
Kinh
Koran đòi hỏi những người đàn ông có nhiều vợ phải dành cho mỗi người vợ một số
lượng thời gian bằng nhau và phải đối xử công bình như nhau. Trước biến cố này,
Muhammad chỉ có 3 người vợ là Saudah (29 tuổi) Aisha (11 tuổi) và Hafsah (18 tuổi).
Để thực hiện điều ông vừa viết trong kinh Koran, Muhammad lấy bà vợ thứ tư là
Zaynab Kuzaymah, vợ góa của một chiến sĩ mới tử trận trong tháng giêng năm 624
tại Badr. Vài tháng sau ông cưới bà vợ thứ năm là Salamah 29 tuổi, vợ góa của
người em họ. Nàng rất thông minh và khá xinh đẹp, về sau nàng là một cố vấn đắc
lực cho Muhammad về nhiều phương diện.
Đến lần
cưới bà vợ thứ sáu, Muhammad gặp phải những điều tai tiếng dị nghị và một số
chuyện phiền phức khác. Vào đầu năm 626, Muhammad đến thăm người con nuôi tên
là Zayd mà ông đã nuôi từ lúc còn nhỏ ở Mecca. Vợ của Zayd từ trong nhà chạy
ra mở cửa để đón khách. Vì thấy Muhammad đến thăm bất ngờ nên nàng vỗ tay reo mừng
và tỏ ra rất hân hạnh được đón tiếp Muhammad.
Vợ của
Zayd tên Zaynab Jahsh, 30 tuổi, có một nét đẹp đặc biệt là rất mặn mà duyên
dáng. Hôm gặp nàng ra mở cửa đón chào, Muhammad bị choáng váng trước vẻ đẹp của
nàng nên đã nói những lời khen ngợi khiến cho nàng cảm động. Sau đó Zaynab nói
thẳng với chồng là nàng muốn ly dị để lấy Muhammad nếu Muhammad đồng ý cưới
nàng. Zayd rất đau khổ về chuyện này nhưng vì sau đó bị vợ thúc ép nên Zayd
đành phải đến gặp Muhammad để hỏi xem Muhammad có muốn lấy Zaynab làm vợ không.
Muhammad trả lời đồng ý nên Zayd về làm thủ tục ly dị vợ.
Mấy bữa
sau, một đám cưới linh đình được tổ chức, Zaynab Jahsh từ vị trí con dâu (nuôi)
trở thành vợ của người cha nuôi chồng cũ.
Trong
tiệc cưới có nhiều người đàn ông đến tham dự đã ở nán lại quá lâu để chiêm ngưỡng
sắc đẹp mặn mà của cô dâu đặc biệt này. Muhammad muốn đuổi họ về nhưng lại
không muốn làm mất lòng họ. Vì không thấy Muhammad nói gì nên những người đàn
ông đó đã đến sát gần các bà vợ của Muhammad và nói chuyện một cách xàm sỡ. Muhammad
thấy cần phải có biện pháp ngăn cách những người đàn ông đầy dục vọng này tách
rời khỏi các bà vợ trẻ đẹp của ông. Muhammad đã viết những câu thơ để diễn đạt
ý này như sau:
"Các
tín đồ đừng nên vào nhà của Tiên Tri để
dùng bữa mà không để ý đến giờ giấc thích hợp
Trừ
khi các người được Tiên Tri cho phép
Nếu
các người được Tiên Tri mời thì cứ vào ăn
Nhưng
khi ăn xong thì giải tán
Đừng
nói chuyện quá nhiều làm phiền lòng Tiên Tri
Vì
ngài rất ngượng phải đuổi các người đi
Nếu
các người muốn hỏi những người vợ của Tiên Tri về bất cứ chuyện gì. Hãy nói
chuyện với họ đằng sau tấm mạng che mặt. Điều này làm cho trái tim của các người
và của các nàng được thanh khiết".
(Believers!
do not enter the house of the Prophet
For
a meal without waiting for the proper time
Unless
you are given leave.
But
if you are invited, enter.
When
you have eaten, disperse.
Do
not engage in familiar talk
For
this would annoy the Prophet
And
he would be ashamed to bid you go
If
you ask his wives for anything, speak to them from behind a curtain (hijab)
.This is more chaste for your hearts and their hearts - Koran 33: 53)
Mấy câu
thơ trên đây rất nổi tiếng trong thế giới Hồi Giáo. Người ta gọi là "Những
câu thơ của bức màn che" (The Verses of the curtain). Bức màn che đó chính
là tấm mạng che mặt (veil) của phụ nữ Hồi Giáo, tiếng Ả Rập gọi là HIJAB. Thông
thường thì tấm vải này có màu đen và đủ rộng để che kín đầu, tóc, phủ đến vai
và che kín cả mặt, chỉ chừa khoảng trống nhỏ ở đôi mắt để người phụ nữ có thể
nhìn đường. Cũng từ khi có mấy câu thơ đó xuất hiện, các bà vợ của Muhammad đều
phải che mạng mỗi khi bước chân ra khỏi nhà hoặc khi tiếp chuyện với mọi người
ngoài gia đình. Đó cũng là khuôn vàng thước ngọc về việc đeo mạng của phụ nữ
trong thế giới Hồi Giáo sau này!
Đầu năm
627, Aisha 13 tuổi, nàng bắt đầu đến tuổi dậy thì nên bỗng nhiên trổ mã lớn vượt
lên và đẹp hẳn ra. Muhammad yêu thích Aisha hơn tất cả các cô vợ khác nên đi
đâu ông cũng mang theo Aisha. Thậm chí có một hôm Muhammad mang quân đi phục
kích để chận đánh bộ lạc Do Thái Bani trên bờ biển Hồng Hải, ông cũng dẫn Aisha
đi theo bên mình.
Sau trận
tấn công vũ bão của Muhammad, bộ lạc Do Thái Bani bỏ chạy tán loạn, Lịch sử
không nói tới số thương vong của họ là bao nhiêu, chỉ nói họ đã để lại chiến
trường 2000 lạc đà, 5000 con cừu và 200 phụ nữ. Muhammad tuyển chọn một cô đẹp
nhất tên là Juwayriah để lấy làm vợ. Số phụ nữ còn lại sẽ được trả tự do sau
khi thân nhân của họ mang tiền đến chuộc.
Trên đường
từ mặt trận trở về Medina, tại một nơi nghỉ chân, Aisha lẻn xuống khỏi kiệu
trên lưng lạc đà để đi vệ sinh. Lúc trở lại chỗ cũ thì đoàn quân đã đi khỏi.
Trong lúc nàng đang lo sợ thì có một thanh niên tên Safwan là lính hậu vệ của
đoàn quân từ phía sau đi tới, Aisha vội lật cái mạng của nàng ra để Safwan nhận
diện. Safwan không còn cách nào khác hơn là bế nàng lên lưng lạc đà của chàng để
cả hai người cùng cưỡi vềMedina.
Khi thấy
Safwan và Aisha cùng ngồi trên lưng lạc đà vềMedina một lúc sau khi cả
đoàn quân đã trở về hết, mọi người ởMedina bắt đầu bàn tán về đức hạnh của
Aisha. Muhammad tức giận nổi ghen và không muốn nhìn mặt Aisha nữa. Aisha
quá đau khổ vì bị hiểu lầm nên sinh bệnh. Trong lúc đang đau khổ mà không thể
giải bày thì Aisha nghe thấy Ali nói với Muhammad rằng: "Trên đời này thiếu
gì đàn bà, cha có thể lấy người vợ khác tốt hơn". Câu nói của Ali như nhát
dao đâm thấu tim của Aisha và sau này Aisha sẽ không tha thứ cho Ali.
(Ba
mươi năm sau, khi Ali lên làm vua (Caliph) của Hồi Giáo thì Aisha lãnh đạo một
cuộc cách mạng chống Ali).
Mấy hôm
sau, Muhammad suy nghĩ lại và chợt hiểu ra rằng Aisha chỉ là một cô bé ngây thơ
vô tội nên ông đã làm hòa với Aisha. Cha mẹ Aisha thấy vậy rất vui mừng nên
khuyên Aisha cám ơn Muhammad. Aisha thẳng thắn trả lời: "Con không cám ơn
ai hết, kể cả tiên tri Muhammad. Con chỉ cám ơn một người duy nhất là Thiên
Chúa". Muhammad nghe vậy rất cảm phục Aisha vì nàng tuy nhỏ nhưng đã tỏ ra
là có bản lãnh vững vàng, có đức tin mạnh và không hề sợ hãi. Từ đó cho đến lúc
chết, Muhammad không yêu ai hơn yêu Aisha.
Vì tình
cảm thiên vị của Muhammad dành cho Aisha quá lộ liễu nên các cô vợ khác của
Muhammad ghen tuông và khiếu nại, viện cớ kinh Koran dạy người chồng phải đối xử
công bằng với các bà vợ. Từ đó ông phải theo thứ tự ngủ đêm tại mỗi phòng với một
cô. Mỗi khi đi đâu, ông phải rút thăm để biết ai là người sẽ cùng đi với ông
trong cuộc hành trình. Tuy nhiên, mỗi khi Muhammad đến đền thờ để giảng đạo thì
chỉ có một người duy nhất luôn luôn ở bên cạnh ông là Aisha. Ông nói với mọi
người rằng Aisha cũng có ơn mặc khải của Thiên Chúa giống như ông. Một hôm
cô con gái cưng của Muhammad là Fatimah khuyên cha không nên quá gần gũi với
Aisha. Muhammad hỏi lại: "Chẳng lẽ con không yêu người cha yêu quí nhất
hay sao?".
Sau khi
Muhammad qua đời, Aisha trở thành người quan trọng nhất về giáo lý và luật pháp
của Hồi Giáo.
3. Vụ thảm sát 700 người
Do Thái tại Medina.
Tháng 3
năm 627, Mecca huy động 10.000 quân với dự tính phá tan căn cứ địa Medina của
Muhammad. Trong khi đó, Muhammad cũng đã chuẩn bị đối phó bằng cách mua chuộc một
số quân thiện chiến của bộ lạc Bedouin. Nhờ đó quân số chiến đấu của Muhammad
đã lên tới 3000 người. Điểm lợi nhất cho Muhammad là căn cứ địa Medina được
thiên nhiên bảo vệ ba phía bằng những sườn núi nham thạch rất dốc. Chỉ còn một
phía duy nhất trống trải là phia bắc của ốc đảo mà thôi.
Vì biết
trước việc Mecca sắp tấn công nên Muhammad ra lệnh cho các tín đồ gặt
lúa và tích trữ lương thực. Sau đó ông huy động toàn dân ở Medina đào
một cái hào thật sâu suốt dọc phía bắc của ốc đảo. Số đất đào được đắp thành
lũy cao. Đây là một phương cách phòng thủ chưa từng thấy ở Ả Rập. Sáng kiến này
do một tín đồ Hồi Giáo gốc Ba Tư là Salman đưa ra. Hào sâu sẽ chận đứng bước tiến
của các đoàn kỵ binh của địch vì ngựa không thể nhảy qua để tiến vào ốc đảo.
Lũy cao sẽ là cái lá chắn hữu hiệu các loạt tên của địch, trái lại, quân Hồi
Giáo có núp sau lũy để bất thần bắn ra những loạt tên để diệt địch.
Ngày
31-3 năm 627, mười ngàn quân Mecca kéo tớiMedina. Khi đến trước cửa
ngõ phia bắc của ốc đảo, các đoàn quân của Mecca đều phải khựng lại
vì ngựa cũng như người đều không thể vượt qua hào sâu lũy cao. Trong khi đó,
quân của Muhammad núp trên lũy cao bắn tên xuống như mưa gây nhiều thương vong
cho quân Mecca. Quân Mecca không còn cách nào khác hơn là rút ra xa khỏi tầm
tên bắn để đóng quân bao vây. Sau 3 tuần lễ bao vây, quân Mecca bị cạn
hết lương thực và nước uống. Người, ngựa và lạc đà đều bị đói và khát nên không
thể ở lại lâu hơn, cuối cùng cả đoàn quân 10.000 người đành phải âm thầm rút
lui.
Trước
khi có vụ tấn công của Mecca, tin tình báo đã cho Muhammad biết về những
âm mưu của bộ lạc Do Thái Aws làm nội ứng cho Mecca để chống lại Hồi
Giáo. Sau khi đoàn quân củaMecca đã rút hết, Muhammad quyết định phải tiêu
diệt bộ lạc Aws để trừ hậu hoạn. Ông ra lệnh cho các tín đồ đào một cái hố lớn
tại chợ Medina. Sau đó ông trực tiếp chỉ huy cuộc bao vây khu vực của bộ lạc
Aws để bắt hết mọi người đàn ông của bộ lạc này. Chỉ có một số rất ít người Do
Thái được các tín đồ Hồi Giáo xin với Muhammad cho tha mạng, số còn lại khoảng
700 người đàn ông Do Thái bị trói từng người và bị đưa ra cái hố lớn ở giữa chợ
Medina để chém đầu. Sau đó, các xác chết được xô xuống hố lấp lại thành một nấm
mồ tập thể.
Trong vụ
thảm sát này có một người đàn bà duy nhất bị chém đầu. Đó là người đàn bà Do
Thái bị người Hồi Giáo tố cáo là đã lợi dụng lúc quân Mecca bao
vây Medina để ném đá vào người Hồi Giáo.
Về sau,
Aisha đã kể chuyện về người đàn bà Do Thái này như sau: "Bà ta đến nói
chuyện với tôi trong khi Muhammad đang tàn sát người Do Thái ở chợMedina. Rồi đột
nhiên người ta đến bắt bà ấy. Tôi ngạc nhiên hỏi: "Có chuyện gì xảy ra cho
bà vậy?" Bà ta bình tĩnh trả lời: "Người ta đem tôi đi chém đầu".
Tôi liền hỏi: "Về tội gì?". Bà ta đáp: "Về một việc mà tôi đã
làm". Liền sau đó bà ta bị chặt đầu tại chợ. Aisha kể tiếp: "Tôi sẽ
không bao giờ quên được người đàn bà Do Thái can đảm phi thường - Bà ta vẫn cười
trong lúc bị lôi đến pháp trường để chém đầu". Vợ con của 700
người bị chém đầu đều bị trói đem đi bán ở các chợ nô lệ.
(Muhammad,
a biography of the prophet, by Karen Amstrong - Chapter 8, 164-210).
GIAI ĐOẠN
SAU (627-632) TẠI MEDINA
Sau năm
năm đầu chiếm cứ Medina (622-627), Muhammad và cộng đồng Hồi Giáo đã gây ra nhiều
cuộc đột kích đẫm máu để tấn công các đoàn thương buôn của Mecca nhằm mục đích
cướp ngựa, lạc đà, vũ khí, tiền bạc và đủ loại hàng hóa vừa để sống còn tại ốc
đảo Medina vừa để tăng cường lực lượng quân sự. Sau vụ trục xuất bộ lạc Do Thái
Bani và vụ tàn sát bộ lạc Do Thái Aws, danh tiếng của Muhammad được loan đi khắp
vùng và ai cũng phải nể sợ. Các bộ lạc Bedouin trước đây là đồng minh vớiMecca,
nay sợ sẽ bị Muhammad trả thù nên tuyên bố không liên kết với Mecca nữa.
Trong
tình hình thuận lợi hiện tại, Muhammad quyết định: Trước hết thống nhất tất cả
các bộ lạc Ả Rập thành một quốc gia. Bộ lạc nào tách rời sẽ bị trừng phạt. Sau
đó sẽ chiếm thành phố Becca làm thủ đô phát triển đạo Hồi.
Tuy
chưa phải là một quốc vương nhưng Muhammad đã viết thư và sửa soạn những món
quà quí giá rồi cử nhiều phái đoàn đến yết kiến các hoàng đế của đế quốc
Byzantine và đế quốc Ba Tư, các vua Ai Cập và Ethiopia.
Sau đó
ông gửi thư đến các bộ lạc Ả Rập, không phân biệt họ theo tôn giáo nào. Trong
thư ông nhấn mạnh: "Đạo Do Thái là đạo của con cháu Jacob, đạo Hồi là đạo
của con cháu Ismael. Kinh Thánh Cựu Ước bằng tiếng Hebrew của Do Thái, Tân Ước
bằng tiếng Hy Lạp của Ki Tô Giáo, Kinh Koran bằng tiếng Arabic là Kinh Thánh của
người Ả Rập". Ông không yêu cầu mọi người theo đạo Hồi nhưng yêu cầu tất cả
các bộ lạc Ả Rập gia nhập "Cộng Đồng Ả Rập", tương tự như
"umma" ở Medina. Sau thư mời nói trên, nhiều bộ lạc Ả Rập xin gia nhập
"umma", đặc biệt là các bộ lạc Bedouine. Chỉ còn lại 3 bộ lạc không
chiu gia nhập là các bộ lạc Asad, Thalabah và Sad. Từ cuối năm 627 đến cuối năm
628, Muhammad mang quân đi tấn công để trừng phạt 3 bộ lạc nói trên.
Cũng
trong thời gian này, Muhammad mở những cuộc tấn công các đoàn thương mại Mecca
với chủ đích phá vỡ hoàn toàn thế độc quyền thương mại của thành phố này với
các xứ phương Bắc. Để chính thức cạnh tranh với Mecca, Muhammad lập các đoàn lữ
hành tải hàng từ Medina đi bán ở Syria và Ba Tư, sau đó mua các hàng quí hiếm của
ngoại quốc đem về Medina để biến ốc đảo này trở nên một thành phố sầm uất.
Trong một
vụ phục kích cướp hàng của Mecca, không ngờ chuyến hàng đó là của Abu
Alas, con rễ của Muhammad. Trước đây, Abu Alas không chiu theo đạo Hồi nên vẫn ở
lại Mecca và không theo vợ con đến Medina. Sau vụ bị cướp hết
hàng này, Abu Alas buộc lòng phải đến Medina gặp vợ là Zaynab nhờ can
thiệp. Zaynab đến gặp cha để xin lại số hàng cho chồng. Muhammad đồng ý với điều
kiện Abu Alas phải về ở hẳn tại Medina đoàn tụ với vợ con. Sau đó Abu
Alas được trả toàn bộ số hàng hóa đưa vềMecca bán rồi trở lại Medina theo
đạo Hồi để được sống yên ổn với vợ con.
Đầu năm
628, nhân dịp tháng ba là tháng hành hương đền thờ Kaaba tại Mecca theo tục lệ
cổ truyền của các dân tộc Ả Rập. Muhammad báo trước cho Mecca biết ông sẽ hướng
dẫn 1000 tín đồ đến hành hương tại đền thờ Kaaba và không mang theo vũ khí, chỉ
đem theo 70 con lạc đà để làm lễ hy sinh (animal sacrifice) mà thôi. Mặc dầu
tuyên bố không mang theo vũ khí nhưng tất cả mọi tín đồ của Muhammad đều dấu
trong áo choàng những đoản kiếm và dao găm đề phòng bất trắc.
Khi
đoàn người của Muhammad đến gần Mecca thì bị viên chức cao cấp của
thành phố là Khalid dẫn 200 kỵ binh ra ngăn chặn không cho vào thành phố.
Muhammad cảnh cáo Khalid không nên tấn công đoàn người của ông, nếu tấn công sẽ
bị đánh trả đích đáng. Khalid đành nhượng bộ và để cho đoàn người của Muhammad
tự do đến đền thờ Kaaba.
Đầu năm
629, một số bộ lạc Do Thái ở những ốc đảo phía Bắc Medina tỏ ra thù
ghét Muhammad. Muhammad quyết định mang 600 quân đến bao vây thị trấn ở gần nhất
là Khaybar. Thị trấn này được bảo vệ bởi một hệ thống thành lũy và 7 pháo đài.
Trước hết, Muhammad để quân bao vây thị trấn này trong một tháng. Sau đó quân Hồi
bất thần tấn công và triệt hạ từng pháo đài một. Cuối cùng mọi bộ lạc Do Thái ở
đây xin đầu hàng, nộp một nửa các huê lợi chà là ngũ cốc và xin được làm chư hầu
củaMedina.
Những bộ
lạc Do Thái ở kế cận Khaybar đều xin ký hòa ước thần phục Muhammad. Một tù trưởng
Do Thái ở thị trấn Fadak tên là Huyay muốn cầu thân với Muhammad nên đã gả cho
Muhammad cô con gái út 17 tuổi rất đẹp tên là Safyah.
Cũng
trong thời gian này, người anh họ của Muhammad qua đời, Muhammad lấy vợ của anh
ta tên là Ramlah. Do những cuộc hôn nhân xảy ra dồn dập sau này nên harem của
Muhammad đã trở nên khá đông. Các bà vợ của Muhammad chia thành hai phe. Phe trẻ
gồm có Aisha 15 tuổi, Hafsah 17 tuổi và Safyah 17 tuổi tạo thành bộ ba (The
Trio) tách rời và chống lại các "bà già" của Muhammad!
Tháng 3
năm 629, Muhammad tổ chức cuộc hành hương đền thờ Kaaba với 2600 người tham dự.
Lần này đến Mecca, đoàn người của Muhammad không gặp một sự cản trở nào cả.
Nhân dịp này, Muhammad tình cờ gặp lại người chú họ tên là Abbas cùng đi hành
hương với cô em gái rất đẹp tên là Maymunah. Muhammad xin cưới người cô họ này
và tổ chức đám cưới ngay tại Mecca. Lợi dụng tiệc cưới làm cơ hội giải
hòa, Muhammad mời tất cả các kẻ thù của ông tại Mecca đến dự tiệc cưới.
Không ngờ người chỉ huy quân sự cao cấp nhất ở Mecca là Khalid nhận lời
mời đến dự tiệc cưới của Muhammad. Sau tiệc cưới, Khalid tự nguyện xin theo đạo
Hồi. Đây là thành công bất ngờ và hết sức lớn lao của Muhammad.
Khi phái
đoàn 2600 người vào làm lễ tại đền thờ Kaaba, Bilal là người da đen đầu tiên
theo đạo Hồi đã leo lên nóc đền thờ Kaaba kêu gọi mọi người cầu nguyện ba lần một
ngày. Đến đêm cuối cùng của chương trình hành hương, toàn thể 2600 người lặng lẽ
rút êm ra khỏi thành phố mà không ai hay biết. Muhammad cố ý thực hiện
điều này để cho dân Mecca biết rằng Cộng Đồng Hồi Giáo là một tập thể
gắn bó với nhau bằng đức tin, có tổ chức chu đáo với tinh thần kỷ luật rất cao.
Khalid
đi theo Muhammad về Medina. Trước đây Khalid là vị tướng chỉ huy
quân Mecca đối đầu với Muhammad tại các trận Uhud và trận Trench (hào
lũy). Muhammad hết sức vui mừng đón nhận Khalid. Từ đó Khalid trở thành một
trong những dũng tướng của Muhammad tại Medina.
Cuối
năm 629, Muhammad làm một cuộc mạo hiểm đầy tham vọng là đánh chiếm xứ Syria.
Ông sai Khalid, Zayd và Jafar dẫn 3000 quân tinh nhuệ và vũ trang hùng hậu đi
thử thời vận. Khi tới biên giới Syria, quân thám báo của Khalid cho biết đế
quốc Byzantine có 10.000 quân tại đây. Khalid không dám đối đầu nên đành rút
quân về Jordan dừng chân. Đế quốc Byzantine cho rằng quân Hồi đã dám
vô cớ kéo đến khiêu khích nên cho quân truy kích đến tận Jordan. Sau một
trận đánh không cân sức, quân Hồi bị giết rất nhiều, trong số đó có Zayd (con
nuôi của Muhammad) và Jafar. Khalid dẫn đám tàn quân trở lại Medina.
Muhammad rất đau buồn vì đã tính sai nước cờ. Trong thời gian đó có một chuyện
vui cho riêng Muhammad. Vua Muquaquis của Ai Cập gửi tặng cho Muhammad một cô
gái nô lệ gốc Ai Cập rất đẹp tên là Myriam. Cô này theo đạo Ki Tô Chính Thống
(Coptic Christian) Muhammad say mê sắc đẹp của Myriam đến nỗi ông bỏ bê tất cả
các cô khác. Do vậy mà cơn sóng gió trong harem nổi lên. Ít lâu sau, Myriam
mang bầu và sinh ra một đứa bé trai kháu khỉnh. Muhammad đặt tên là Ibrahim (tức
Abraham). Ngoài Myriam ra không có một cô nào trong harem sinh con cho Muhammad
nên ông càng say mê Myriam hơn nữa.
Aisha,
Hafsa và Safyah tổ chức một cuộc nổi loạn trong harem. Mũi dùi tấn công chĩa
vào Myriam. Cuộc chiến tranh giữa những người vợ khiến cho Muhammad chịu không
nổi nên ông đành phải ngủ đêm tại sàn nhà của đền thờ. Sau đó ông cất một căn
gác nhỏ gần nơi đền thờ để mỗi đêm leo lên đó nằm chèo queo một mình. Ông cảm
thấy có nhiều vợ cũng chẳng vui sướng gì và ông muốn xa rời tất cả các bà vợ trẻ
đẹp của mình. Tuy nhiên, ông cũng không muốn các bà vợ của ông rơi vào tay kẻ
khác sau khi ông qua đời. Do đó, ông viết vào kinh Koran mấy vần thơ để qui định
hai điều sau đây:
1. Hãy
gọi các bà vợ của tiên tri là "các bà mẹ của các tín đồ" (Mothers of
the faithful).
2. Sau
khi tiên tri qua đời, các bà vợ của Ngài không được lấy chồng khác.
(The
Prophet has a greater claim on the faithful than they have on themselves and
his wives are their mothers - Koran 33: 6 / Nor that you should marry his wives
after him ever, surely this is grievous in the sight of Allah - Koran 33: 53).
Nhân
dịp mùa chay Ramadan trong tháng giêng năm 630, Muhammad tổ chức một cuộc hành
hương vĩ đại tại Mecca với sự tham dự của 10.000 tín đồ có võ trang.
Muhammad
báo trước cho Mecca biết điều đó. Lãnh đạo tối cao của Mecca lúc
đó là Abu Sufyan tự xét không đủ sức chống lại Muhammad nên khuyên mọi người
không chống cự. Chỉ có ba tù trưởng của ba bộ lạc Ả Rập thù ghét Muhammad quyết
tâm chống lại. Khi đoàn quân hành hương của Muhammad đến cổng
thành Mecca thì ba tù trưởng Ikrimah, Swafan và Suhayl mang quân ra
nghênh chiến. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc, đoàn quân Hồi Giáo dưới sự chỉ huy của
Khalib đã dẹp tan đoàn quân của các bộ lạc thù địch. Các tù trưởng Ikrimah và
Safwan bỏ trốn. Tù trưởng Suhayl đầu hàng. Đoàn quân 10.000 người của
Muhammad tràn vào chiếm thành phố Mecca không tốn một giọt máu.
Muhammad
căng lều sát cạnh đền thờ Kaaba để làm chỗ trú ngụ cho ông cùng với hai người vợ.
Ngoài ra còn có Fatimah là con gái út của ông và chồng là Ali.
Sau khi
tất cả mọi người đều tắm rửa sạch sẽ, Muhammad cùng với 10.000 chiến sĩ đi vòng
quanh đền thờ Kaaba 7 vòng. Bảy vòng này tượng trưng cho 7 tầng của Thiên Đàng.
Trong đền thờ có Tảng Đá Đen linh thiêng, cứ đi một vòng thì
Muhammad chạm tay vào hòn đá đen một lần. Mỗi lần chạm tay vào hòn đá đen như vậy,
Muhammad kêu to lên: "Al-lah Akbar" (Vinh Danh Thiên Chúa). Mười ngàn
tín đồ hô theo vang dội như lời reo mừng chào đón chiến thắng cuối cùng của đạo
Hồi trên thành phốMecca.
Sau khi
đi hết 7 vòng quanh đền thờ Kaaba, Muhammad và tùy tùng leo lên nóc đền thờ đập
nát 360 tượng thần. Bên trong đền thờ có một số tranh vẽ trên tường cũng bị phá
hủy, ngoại trừ những bức tranh vẽ hình Chúa Jesus được giữ lại mà thôi. Những bức
hình Chúa Jesus có thể đã được những người Ki Tô Giáo vẽ trong đền thờ dưới thời
vương quốc Abyssinia cai trị bán đảo Ả Rập từ 525 đến 570.
Sau khi
chiếm Mecca bằng một phương cách hòa bình, Muhammad ban hành lệnh ân xá cho tất
cả mọi người đã chống Hồi Giáo, ngoại trừ 10 người có nợ máu quá nặng, trong số
đó có mụ Hind (vợ của Sufyan) đã từng mổ bụng ăn gan Hamzah (một chiến sĩ Hồi
Giáo bị tử thương ở Uhud).
Khi mụ
Hind bị bắt đưa đến trình diện Muhammad, mụ đã khôn khéo thưa rằng: "Kính
thưa tiên tri, ngài là sứ giả của Thiên Chúa, bây giờ ngài không thể lên án phạt
tôi vì tôi đã tuyên xưng đức tin Hồi Giáo". Muhammad tươi cười trả lời:
"Tất nhiên là mụ đã được trả tự do".
Muhammad
đã tha tội chết cho mụ Hind một phần vì mụ đã nhận theo Hồi, nhưng phần quan trọng
hơn là vì chồng của mụ (Abu Sufyan) đã có công lớn trong việc thuyết phục thành
phốMecca không chống cự Muhammad nên ông mới có thể chiếmMecca một
cách dễ dàng như vậy. Muhammad đã thưởng công rất lớn cho kẻ thù cũ
là Abu Sufyan bằng cách giao cho y và gia đình nắm giữ các chức vụ quan trọng của
thành phố Mecca. Sau này con cháu của Sufyan đã lập nên triều đại Ummayad,
đóng đô tại Damacus (Syria) và truyền ngôi qua 14 đời vua.
Một
nhân vật khác bị Muhammad thù ghét và lên án tử hình là Abdallah, anh nuôi của
Uthman. Khi biết mình có tên trong sổ đen của Muhammad, Abdallah đã đến nhờ
Uthman can thiệp xin tha mạng. Uthman là người thân tín của Muhammad đã dẫn
Abdallah đến gặp chủ tướng. Muhammad chẳng những tha mạng mà còn tin dùng
Abdallah. Về sau, Abdallah trở thành một nhân vật quan trọng trong Hồi Giáo.
Sau khi
chiếm thành phố Mecca vào tháng giêng năm 630, Muhammad sáp nhập quân
của thành phố này với quân củaMedina để thành lập một đạo quân Hồi Giáo
lên tới 30.000 ngưòi. Tháng 10 năm 630, Muhammad cùng Abu Sufyan dẫn đoàn quân
này đến thành phố Tabuk, cách Medina 250 dặm về phía bắc. Muhammad
cho quân nghỉ dưỡng sức 10 ngày tại thành phố này. Sau đó, Muhammad và Sufyan
xua quân tấn công một tiểu quốc của đế quốc Byzantine. Vua của tiểu quốc này là
Yuhunna xin đầu hàng và xin thần phục Muhammad. Các cộng đồng Ả Rập và Do Thái
tại Jarba và Adruh (tức xứ Jordan ngày nay), đều xin làm chư hầu của
Muhammad.
Tháng
giêng năm 631, tất cả các bộ lạc trên bán đảo Ả Rập bao la (gấp 8 lần diện tích
Việt Nam) đều được đặt dưới sự cai trị của Muhammad.
Đến đầu
năm 632, nhiều chiến sĩ Hồi Giáo cảm thấy mỏi mệt vì những cuộc chinh chiến
liên miên trong nhiều năm qua. Muhammad cổ võ tinh thần mọi người với lý luận
cho rằng những cuộc chinh chiến đó cốt để thực hiện Ý Chúa (God's Will). Việc
thực hiện ý Chúa trong lịch sử loài người không bao giờ ngừng nên người Hồi
Giáo phải luôn luôn tiếp tục chiến đấu.
Cuộc
chiến đấu để truyền đạo lúc đầu luôn luôn bằng phương tiện quân sự và chính trị
để dẫn đến sự phục tòng tôn giáo. Hồi Giáo có nghĩa là phục tòng (Islam means
submission). Khi Hồi Giáo toàn trị trên một xã hội phục tòng tôn giáo thì đó là
một xã hội hòa bình, nói đúng hơn là Hòa Bình Hồi Giáo (Pax Islamica). Muhammad
chú ý thực hiện cuộc chiến đấu trên cả hai mặt: quân sự và tôn giáo.
Về quân
sự, Muhammad trông cậy vào Abu Sufyan và Khalid. Về tôn giáo, Muhammad chú trọng
thuyết giảng cho bốn người chủ yếu là Abu Bakr, Umar, Uthman và Ali. Trong bốn
người này, Muhammad yêu thương nhất Ali vì Ali là con út của ông chú Abu Talib
đã nuôi Muhammad từ nhỏ đến lớn. Cũng vì yêu thương Ali nên ông đã gả con gái
út là Fatimah cho Ali. Vợ chồng Ali có hai đứa con trai tên là Hassan và
Husayn. Muhammad cũng rất yêu thương hai đứa cháu ngoại này. Ông thường làm ngựa
cho hai đứa cháu cưỡi trên lưng chạy khắp nhà. Sau này, hai đứa cháu ngoại của
Muhammad bị phe Hồi Giáo Sunni giết chết và trở thành hai vị đại thánh tử đạo của
giáo phái Shiite. Người Chàm ở Việt Nam theo đạo Hồi có nơi thờ Ali
và đọc kinh cầu nguyện xưng tụng Ali là con của Thiên Chúa (Son of God).
Đầu năm
632, đứa con trai út của Muhammad với cô gái Ai Cập Myriam bị bệnh chết.
Muhammad khóc lóc thảm thiết. Ông cũng linh cảm sắp chết nên nói với mọi người:
"Tôi sắp đoàn tụ với đứa con trai yêu quí của tôi". Cuối tháng 2 năm
632, Muhammad yêu cầu mọi người cùng các bà vợ đưa ông đến viếng đền thờ Kaaba ở Mecca lần
cuối cùng.
Sau khi
viếng Kaaba, ông yêu cầu mọi người đưa ông lên núi Arafat. Tại đây ông giảng
bài giảng giã từ (Farewell Sermon) nhấn mạnh: Mọi tín đồ Hồi Giáo là anh em
(Muslims are brethen).
Sau đó,
Muhammad được đưa trở về Medina. Từ đó ông bị chứng đau đầu
liên miên. Chứng đau đầu có thể do hậu quả của lần ông bị thương nơi đầu trong
trận Uhud trước đây. Các bà vợ đều lo lắng chăm sóc Muhammad nhưng ông yêu cầu
đưa ông về phòng của Aisha. Lúc này Aisha vừa tròn 18 tuổi. Nàng đặt ông gối đầu
lên đùi của nàng và nàng yêu cầu cha ruột là Abu Bakr đọc kinh cầu nguyện cho
tiên tri.
Ngày 18
tháng 6 năm 632, Muhammad trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay của Aisha.
Khi hay
tin Muhammad qua đời, nhiều phụ nữ tại Medinathan khóc thảm thiết, nhiều
người khác hướng mặt về đền thờ cầu nguyện.
Trước
khi Muhammad qua đời, ông không hề dự liệu cắt cử người kế nhiệm. Nay sự việc
ông mất xảy ra quá đột ngột đã khiến cho cả cộng đồng lúng túng không biết phải
bầu chọn ai. Ali là người thân của Muhammad nhưng vì quá trẻ nên không được bầu.
Abu Badr lớn tuổi và có uy tín nhất đã được cộng đồng bầu lên làm người đầu
tiên kế vị Muhammad. Abu Badr được coi như là vị giáo chủ giáo phái Sunni (Đa Số)
của Hồi Giáo.