Phúc
âm của John (20: 1-18) đã cho chúng ta biết Peter (Phêrô) là người đầu tiên nhặt
tấm vải liệm xác Jesus mà Joseph và Nicodemus đã bỏ lại tại nhà mồ.
Đối với mọi người, thường thì đó là một
vật ghê gớm chẳng ai dám mang về nhà, nhưng đối với các môn đệ và tín đồ sùng
kính Chúa Kitô thì nó lại là một thánh tích (holy relic) thiêng liêng vô giá.
Và quả thật, tấm vải liệm xác của Chúa Jesus cho đến nay vẫn là một di vật độc
nhất vô nhị có in hình khuôn mặt và thân thể Ngài. Nó cũng là một nhân chứng thầm
lặng (the silent witness) duy nhất nói lên tất cả sự thật về cái chết của Chúa
cũng như nói lên cái thực chất của đạo Kitô và Tòa Thánh La Mã.
Theo một cuốn sách của Thánh Nino (chết
năm 335) thì tấm vải liệm lúc đầu đã lọt vào tay bà vợ của quan toàn quyền La
Mã Pilate. Bà này rất có thiện cảm với Chúa Jesus và đã từng yêu cầu chồng đừng
giết Ngài. Theo cuốn Lịch Sử Hội Thánh của giám mục Eusebicus viết năm 325 thì
sau khi Chúa chết được ít lâu, một tông đồ thuộc vòng ngoài (outer circle) của
Chúa tên là Addai đã đem tấm vải liệm đến Edessa (Thổ Nhĩ Kỳ) để tặng cho vua xứ
này là Abgar V. Lúc Chúa Jesus còn sống, vua Ablgar đã nghe tin Chúa làm nhiều
phép lạ nên đã cho người đến mời Chúa sang Edessachữa bệnh cho vua. Nhưng Chúa
chưa kịp đi thì đã bị bắt và bị giết. Theo sách của Eusebicus, nhà vua có lòng
tin Chúa đã tôn thờ tấm vải liệm và đã được Chúa ban ơn khỏi bệnh (Ghi chú:
Phúc âm của Luke 10:1 cho biết Chúa Jesus có 12 tông đồ thuộc vòng trong và 70
tông đồ thuộc vòng ngoài). Khoảng năm 57, vua Abgar V chết, người con lên thay
là Abgar VI lại rất ghét đạo Kitô và ra lệnh cấm đạo. Các giáo dân ở Edessa đã
đem tấm vải liệm cất dấu cẩn mật, đến nỗi mấy thế kỷ sau tấm vải liệm biệt
tích.
Bỗng nhiên, vào năm 525, Edessa bị cơn
lụt lớn tàn phá khiến cho trên 3000 người bị chết đuối, nhiều nhà bị cuốn trôi
và cổng thành phía tây của hoàng cung bị sập. Lúc đó người ta mới thấy tấm vải
liệm được dấu trong hốc tường của cổng thành này. Vào thời kỳ đó, Edessa bị
lệ thuộc đế quốc La Mã. Hoàng đế La Mã Justinien hay tin rất mừng rỡ và ra lệnh
xây cất tại Edessa một thánh đường lớn, nay gọi là nhà thờ Haiga Sophia, để tôn
kính thánh tích tấm vải liệm.
Năm 639, Edessa bị quân Hồi Giáo
chiếm đóng nên tấm vải liệm được đem đi nơi khác cất giấu.
Năm 670, tấm vải liệm xuất hiện tại
Palestine. Nhân dịp đi hành hương tại Palestine, giám mục người Pháp tên Arcurf
Pirigeux thấy một đám đông kéo tới một ngôi nhà thờ để kính viếng tấm vải liệm.
Ông đi theo và đã được diễm phúc hôn lên tấm vải liệm này. Sau khi trở về Pháp,
ông đã viết sách kể lại chuyện trên.
Năm 944, không biết do nguyên cớ nào, tấm
vải liệm xuất hiện tại nhà thờ St. Mary ở Constantinople (Thổ Nhĩ Kỳ).
Năm 1203, thánh tích này được đưa về
nhà thờ Balachermal (Hy Lạp). Nhà thờ này mở cửa suốt ngày thứ sáu hàng tuần
cho mọi người vào kính viếng thánh tích.
Năm 1418, tấm vải thánh tích được chuyển
về pháo đài Monfort (Pháp) thuộc dòng họ Charny.
Năm 1452, Công chúa Magaret Charny tổ
chức một cuộc triển lãm cho công chúng đến chiêm ngưỡng tấm vải liệm tại lâu
đài Germolles. Cuối cùng vì quá cảm mến ông quận công Savoy, công chúa đã tặng
cho quận công tấm vải liệm thánh tích vô cùng quí giá này. Bù lại, quận công tặng
cho công chúa Magaret một lâu đài tráng lệ tại Genève và toàn bộ lợi tức bất động
sản của quận công tại thành phố Lyon. Quận công Savoy cho xây một
thánh đường tại Chambery để tôn thờ tấm vải liệm.
Năm 1506, Giáo Hoàng Julius II ban hành
sắc lệnh của tòa thánh công nhận tấm vải liệm là thánh tích thật của Chúa Jesus
và ra lệnh cho toàn hội thánh phải dâng lễ kính thánh tích này vào ngày 4 tháng
5 hàng năm. Đây là một ngày lễ chính thức của hội thánh La Mã (The Feast Day of
the Holy Shroud). Từ đó, thánh đường riêng của dòng họ Savoy trở
thành một nơi hành hương của các tín đồ Kitô Giáo khắp thế gíới.
Ngày 17.9.1578, quận công Philibert de
Savoy dời đô về Turin (nay thuộc nước Ý) và đặt tấm vải liệm tại nhà thờ chính
của thành phố này. Kể từ đó người ta gọi tấm vải liệm là "khăn liệm
Turin" (The Turin Shroud).
Nhân dịp mừng đám cưới của hoàng tử
Umberto Savoy vào tháng 5/1931, hoàng gia tổ chức cuộc triễn lãm thánh tích
trong 3 tuần lễ đã thu hút rất đông tín đồ từ khắp nơi kéo về chiêm bái.
Umberto sau đó lên làm vua nước Ý, đến
thế chiến thứ hai, ông bị lật đổ, phải lưu vong tại Bồ Đào Nha. Ngày 2.3.1983,
Giáo Hoàng John Paul sang Bồ Đào Nha gặp cựu hoàng Umberto để yêu cầu cựu hoàng
chuyển giao quyền sở hữu tấm vải liệm cho tòa thánh. Cựu hoàng đồng ý trao tặng
tòa thánh thánh tích quí giá này. Hai tuần sau, cựu hoàng qua đời vì quá già yếu.
Thế là phải đợi gần 2000 năm sau khi Chúa chết, di vật duy nhất của Chúa mới
thuộc về người đại diện Ngài ở thế gian này (Vicar of Christ)! Đối với niềm tin
tôn giáo, tấm vải liệm là một thánh tích thiêng liêng về công ơn cứu chuộc vô
cùng của Thiên Chúa đối với loài người. Nhưng đối với các nhà khoa học, tấm vải
liệm là một di vật quí giá sẽ nói lên những sự thật về con người của Chúa. Họ
coi đó là một nhân chứng thầm lặng có khả năng tố giác sự thật về cái chết của
Ngài. Các nhà khoa học không cần quan tâm đến các khía cạnh triết lý hay thần học.
Cái họ quan tâm duy nhất là đi tìm sự thật khách quan, với mục đích cuối cùng
là để phụng sự những lợi ích của nhân loại.
Nước Pháp là nơi đầu tiên có sáng kiến
điều tra sự thật về tấm vải liệm hoàn toàn trên phương diện khoa học.
Năm 1900, trường đại học Sorbonne
(Paris) thành lập một phái đoàn gồm các nhà sinh vật học (biologists), do giáo
sư Paul Vignon cầm đầu, đã tới Turin nghiên cứu và khảo nghiệm vải liệm. Ngày
21.4.1902, giáo sư Paul Vignon đã đến Viện Hàn Lâm Khoa Học Pháp để đọc bản tường
trình về hình ảnh của Chúa Jesus trên thánh tích vải liệm (The image of Christ
visible on the Holy Shroud of Turin). Trong đó có đoạn viết: "Về phương diện
y khoa, những vết thương và những dữ kiện khác trên tấm vải liệm thật là hoàn hảo,
không có chỗ nào hư hỏng và không có một nghệ sĩ nào có thể làm giả được".
(From a medical point of view, the wounds and the other data so automatically
flawless that it seemed impossible that the work of any artist). Để giải thích
nguyên nhân nào hình ảnh của Chúa Jesus đã được tạo thành trên tấm vải liệm,
giáo sư Paul Vignon khẳng định: "Tôi cho rằng hình ảnh trên tấm vải liệm
là của Chúa Kitô được cấu tạo bởi tiến trình vừa vật lý vừa hóa học trong lúc Ngài
nằm trong mộ". (I considered the shroud image to be of Christ, created by
a special physio-chemical process while he had laid in the tomb). Giáo sư
Vignon và phái đoàn sinh vật học của ông đồng nhận định: những dấu vết in trên
tấm vải liệm phù hợp với vóc dáng của một người cao lớn miền Địa Trung Hải. Hai
vai rộng và chân tay gân guốc phù hợp với nghề tay chân hay nghề mộc của Chúa.
Năm 1930, một cuộc điều tra thứ hai do
bác sĩ Barlet và một số các bác sĩ chuyên gia giải phẩu thuộc bệnh viện Saint
Joseph Paris thực hiện với kinh nghiệm lâu năm trong việc giải phẩu người sống
và xác chết, phái đoàn này đã đến Turin nghiên cứu tấm vải liệm và đưa ra nhiều
nhận xét tỉ mỉ: "Người để lại dấu vết trên vải liệm đúng là một tử tội bị
đóng đinh, tuổi từ 30 đến 35, cao 6 feet và nặng 175 pounds, thân hình rắn chắc
gân guốc" (Well-built and muscular). Phái đoàn của Barbet không tìm ra được
loại máu (blood type) hay tài liệu về răng (dental record), nhưng quả quyết các
dấu vết là máu người chứ không phải là sơn hay bất cứ một hợp chất nào khác.
Bác sĩ Barbet báo cáo thêm rằng: Trong
quá trình bị đóng đinh, xương cổ tay của nạn nhân đã bị gẫy (the wrist bones
would have been broken in the process). Điều này trái với lời tiên tri trong Cựu
Ước về Chúa Kitô: "Không một xương nào của Chúa sẽ bị gãy". (PS
34:20, EX 12:46) (Not a bone of his should be broken).
Tại Anh quốc, một hội nghị nghiên cứu tấm
vải liệm vào thập niên 1960 mang tên "Bristish society for the Turin
shroud" do học giả Ian Wilson làm chủ tịch. Sau nhiều năm sưu tra xuất xứ
của tấm vải liệm và nghiên cứu nhiều khía cạnh của đề tài, hội khoa học này cho
xuất bản cuốn The Shroud of Turin - The burial cloth of Jesus Christ (272
trang, Double Day and Co. USA. 1978). Cuốn sách thuật lại cuộc đời lưu lạc
của tấm vải liệm khá ly kỳ trong một thời gian kéo dài non hai mươi thế kỷ qua.
Cuốn sách cũng đưa ra những ý kiến và những nhận xét của các nhân vật nổi tiếng
về tấm vải liệm:
- Giáo Hoàng Paul VI cho biết Ngài đã đến
kính viếng thánh tích vào năm 1931. Đối với Ngài, thánh tích là rất thật, rất
sâu sắc, rất người và cũng rất thiêng liêng. Chúng ta không thể say mê thán phục
và tôn kính một hình ảnh nào khác được. (It seemed to me so true, so profound,
so human and so divine, such as we have been unable to admire and venerate in
any other image).
- Văn hào Pháp Paul Clauded tuyên bố:
"Một cái gì đó thật đáng sợ hãi và cũng tuyệt đẹp ẩn trong hình ảnh của
Chúa mà người ta không thể làm gì khác hơn là tôn thờ Ngài . (Something so
fightening and yet so beautiful lies in it that a man can only escape it by
worship).
- Bác sĩ Anh, David Wills đã từng tham
gia cuộc khảo nghiệm tấm vải liệm tuyên bố: "Các vết thương in trên tấm vải
liệm rất phù hợp với những điều được nói trong Tân Ước. Các vết sưng trên mặt,
má và mắt chứng tỏ Chúa đã bị đánh bằng tay (vả) trước khi bị đóng đinh".
- Tại Hoa Kỳ: Sự tổ chức công cuộc
nghiên cứu tấm vải liệm tuy muộn nhưng lại rất qui mô với sự tham gia của nhiều
ngành khoa học và với phương tiện kỹ thuật vừa dồi dào vừa tân tiến. Hoa Kỳ
thành lập kế hoạch nghiên cứu mang tên "American Scientists and the Shroud
of Turin Research Project". Kế hoạch này qui tụ các khoa học gia hàng đầu
của Mỹ trong các ngành nguyên tử và không gian (NASA), 15 học giả chuyên về các
vấn đề khoa học và 9 chuyên gia về lịch sử tôn giáo. Kết quả nghiên cứu của họ
được báo cáo tại hội nghị họp tại Albuquerque New Mexico vào tháng
3.1977.
Ngày 8.10.1978, tất cả các hội nghiên cứu
tấm vải liệm từ nhiều nước đã cùng qui tụ tại Turin để phối hợp trong một
nỗ lực chung nhằm khám phá sự thật về cái chết của Chúa Jesus. Riêng phái đoàn
Hoa Kỳ có 25 nhà bác học và hàng tấn hóa chất và dụng cụ máy móc tối tân. Một số
máy móc được chế tạo đặc biệt để dùng riêng cho cuộc giảo nghiệm này. Phía Tòa
Thánh La Mã có một số khoa học gia đại diện như nhà vật lý học Luigi Gonella,
chuyên gia kính hiển vi Giovani và nhà bệnh lý học Baina Bollone.
Tấm vải liệm được đưa đến tòa nhà rộng
lớn Palazzo ở cạnh nhà thờ Turin và được đặt trên một cái bàn rất lớn có
chắn kiếng an toàn. Tấm vải được phân ra 60 khu vực nghiên cứu. Sau hơn 2 tuần
lễ làm việc miệt mài với tinh thần khoa học vô tư, các nhà khoa học hàng đầu thế
giới đã đi đến những kết luận sau đây:
- Tấm vải được dệt bằng sợi bông Ai Cập
tại Syria cách đây 2000 năm với kỹ thuật dệt theo hình xương cá trích
(herring bone pattern).
- Các vết máu trên tấm vải liệm là máu
người.
- Hình mặt người trên tấm vải liệm được
cấu tạo bởi phản ứng hóa học và sự oxýt-hóa của chất nhờn da mặt (skin oil) mồ
hôi, dầu aloe và dầu Myrrh đã thấm vào sợi bông lâu ngày mà thành.
- Người nằm trên tấm vải là người bị
thương nặng và ở trong tình trạng hôn mê (coma) vì các vết máu trên tấm vải có
hai loại. Loại máu khô từ trước khi được đặt nằm trên tấm vải và loại máu tươi
chung quanh có vành huyết tương. Người chết không đổ loại máu này (chỉ có người
bị thương mới có loại máu này).
- Các vết máu của đầu, cổ, lưng, mông,
đùi và hai chân đều nằm trên một mặt phẳng chứng tỏ một tư thế nằm của người
còn sống. Một người chết không thể có một tư thế nằm như vậy.
Trên đây là kết quả của một nỗ lực lớn
lao của nền khoa học thế giới đã vén lên bức màn bí mật của đạo Kitô trong 2000
năm qua. Sự thật lịch sử đã được xác nhận: Jesus đã thoát chết sau khi bị đóng
đinh trên đồi Golgotha, do đó chẳng có chuyện Chúa chịu chết để chuộc tội cho
nhân loại. Cũng vì Jesus không chết nên cũng chẳng có chuyện Phục Sinh và lên
trời với Đức Chúa Cha.
Tấm vải liệm xác Chúa là một thánh tích
thiêng liêng và cao quí nhất của đạo Kitô suốt gần 2000 năm qua, nay bỗng một sớm
một chiều trở thành một trái bom nổ chậm có nguy cơ phá nát giáo hội từ căn bản
giáo lý. Khoa học quả là một tôn giáo chân chính duy nhất của chân lý! Khoa học
đã làm cho những nhân vật bảo thủ ở Vatican vô cùng lo sợ và tính đến việc thủ
tiêu thánh tích. Tuy nhiên, vì thánh tích này đã quá nổi tiếng và đã trở thành
một báu vật lịch sử chứng minh cái tội gian dối vĩ đại của Kitô Giáo, nó luôn
luôn được các giới khoa học và truyền thông quốc tế canh chừng. Vatican dù có
muốn thủ tiêu thánh tích nầy cũng khó có thể thực hiện được. Các hãng
thông tấn Reuter và UPI có những mật báo viên thường xuyên theo dõi sự an toàn
của tấm vải liệm.
Nước Mỹ tuy sinh sau đẻ muộn nhưng đã
và đang dẫn dầu thế giới trên lãnh vực khoa học. Cuộc giảo nghiệm quốc tế tháng
10.1977 nói trên đã đạt được kết quả vẻ vang phần lớn do công lao của các nhà
khoa học Mỹ. Các báo chí Mỹ cực lực hoan nghênh kết quả của cuộc giảo nghiệm.
Đài truyền hình ABC gọi cuộc giảo nghiệm quốc tế này là một nỗ lực lịch sử (a
historic effort).
Ông William Deerfield, chủ bút tờ Guide
Post viết: "Chúa Jesus đã để lại trong mộ của Ngài một hình ảnh màu vàng mờ
nhạt trên tấm vải mong manh, nhưng đó là cả một tờ khai lý lịch về Ngài".
(Jesus did leave something in the tomb on that First Easter Morning - a kind of
affidavit).
Tu sĩ dòng Tên người Anh Herbert
Thurston tuyên bố: "Bằng cớ khoa học đã làm sáng tỏ vấn đề là tấm vải liệm
là thật và Jesus đã được Kitô hóa". (The scientific evidence makes
abundantly clear that this shroud is not a fabricated fake and that Jesus was
Christed).
Cơ quan Truyền Hình Công Cộng Hoa Kỳ
(Public Television) thực hiện cuốn phim tài liệu mang tên "The Silent
Witness" nói về cuộc giảo nghiệm quốc tế trên tấm vải liệm để phổ biến nhằm
mục tiêu giáo dục quần chúng Hoa Kỳ.
Tạp chí National Geographic và Harper's
magazine đã phát hành những số báo đặc biệt nói về tấm vải liệm nhân dịp lễ Phục
Sinh trong tháng 4.1981 và tháng 4.1982.
Để đỡ bị mất mặt trước sức tấn công của
giới khoa học và giới truyền thông quốc tế, vào tháng 10.1988, tòa tòa thánh
Vatican tuyên bố tấm vải liệm là một vật giả mạo, được ngụy tạo trong thời
trung cổ vào khoảng các năm từ 1260 đến 1390! Tòa thánh không dám công bố điều
này tại Vatican mà chỉ công bố trong một cuộc họp báo thường tại London. Tuy
nhiên, khi phủ nhận tính cách xác thực của tấm vải liệm, tòa thánh La Mã đã
công nhiên xác nhận hai điều quan trọng về giáo lý:
1) Quyết định của Giáo Hoàng Julius II
năm 1506 là sai lầm khi Ngài công nhận tấm vải liệm là thánh tích đích thực của
Chúa Jesus và ra lệnh cho giáo hội làm lễ kính thánh tích vào ngày 4 tháng 5
hàng năm. Tòa thánh đã tự phủ nhận tín điều "giáo hoàng không thể sai lầm"!
2) Tòa thánh bác bỏ luận điểm khoa học
cho rằng Chúa Jesus đã thoát chết sau khi bị đóng đinh trên đồi Golgotha. Nói
khác đi, tòa thánh vẫn nhất mực cho rằng Chúa đã chết 3 ngày rồi sống lại và
lên trời. Trong khi đó giáo lý dạy rằng Thiên Chúa là "Đấng Hằng Sống",
chẳng lẽ "Đấng Hằng Sống" đã chết 3 ngày? Nếu đã không thể gọi Jesus
là "Đấng Hằng Sống" thì tại sao lại có thể gọi Ngài là Thiên Chúa?
Sau cuộc họp báo tại London tháng
10.1988, tòa Thánh Vatican chính thức bãi bỏ ngày lễ kính thánh tích hằng năm
vào ngày 4 tháng 5 do Giáo Hoàng Julius II lập ra từ 1506. Từ ngày 4.5.1999,
tòa thánh ra lệnh đóng cửa vĩnh viễn nhà thờ Turin và cắt đứt nguồn lợi du
lịch kếch xù của thành phố này. Những thế kỷ vinh quang của thành tích tấm vải
liệm lịch sử đã chính thức cáo chung trong niềm tủi nhục bất ngờ của Công giáo
La Mã.
Cuộc họp báo trơ trẽn của tòa thánh
Vatican tổ chức tại Lodon tháng 10.1988 là nguyên nhân thúc đẩy hai tác giả
Holger Kersten và Elma Gruber hoàn thành tác phẩm "The Jesus
Conspiracy" (đã nói trong chương 6). Các tác giả gọi cuộc họp báo nói trên
của tòa thánh là vụ bịp của thế kỷ (Fraud of the Century)!
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...