Hai mẹ con thảnh thơi bước chầm chậm trong
nắng ấm mùa xuân. Một lúc sau, Thúy An mới cất tiếng nói:
- Con thấy mẹ dạo này vui luôn và khỏe
ra.
- Một khi mình chuyển được cái tâm phiền
não, cố chấp thì được an.
Thúy An liếc nhìn mẹ rồi ngập ngừng hỏi:
- Tại sao mẹ đặt tên con là Thúy An?
Bác Tám vuốt tóc con, mái tóc óng ả, dài
mượt của cô thiếu nữ Việt Nam thuần túy:
- Ở Mỹ này, mẹ không biết mỗi cái tên có
ý nghĩa gì không chứ người Việt mình khi đặt tên con thường gửi vào đấy một ước
vọng. Vì thế, có người đặt tên cho con là Giàu, là Sang, hoặc Thành Tài, Thành
Danh, Phát Đạt v.v... Riêng ba mẹ đặt tên con là An, chỉ mong con luôn được
bình yên, tâm hồn không nổi sóng là tốt rồi.
Thúy An vẫn còn thắc mắc:
- Còn chữ Thúy ngụ ý là gì hả mẹ?
Bác Tám cười vì biết thế nào con gái
cũng hỏi tiếp như vậy:
- Thúy là màu xanh. Xanh là màu dịu mát,
tượng trưng cho hoàn cảnh thường ảnh hưởng đến tâm địa của con người nên ba mẹ
mong con gặp được những thuận cảnh để tâm hồn được an vui. Đối với các bậc tu
hành đạo lực cao thâm thì dù gặp cảnh thuận hay nghịch, tâm của các vị vẫn yên ổn,
kể cả khi đối diện với cái chết. Nhưng chúng ta thì không được như vậy, vì
chúng ta chưa làm chủ được cái tâm của mình.
Thúy An dừng bước, cúi đầu suy nghĩ:
“Chúng ta chưa làm chủ được cái tâm của mình. Phải rồi, vì vậy nên tâm này thường
hờn giận, sân si”.
Thúy An rụt rè nắm lấy tay mẹ:
- Mẹ à, thường thường tên và người ít
phù hợp với nhau. Con thấy nhiều tên Tuyết mà đen thui, tên Giàu mà phải chịu
nghèo, tên Đủ mà cứ thiếu hụt hoài....còn như con đây, tên An thì ít khi được
an vì tính con hay hờn giận.
Bác Tám ngồi xuống băng ghế dài dưới
bóng cây le, lá non xanh mơn mởn, bà dịu dàng nói:
- Mẹ biết rõ điều đó và luôn luôn tìm
cách giúp con; nhưng tánh tình của mỗi người là một cố tật, khó có thể sửa đổi
trong một thời gian ngắn. Mẹ nhớ hồi con mới năm, sáu tuổi, tánh sân đã phát khởi
rồi. Những lúc lên cơn giận, con dữ lắm, cứ đánh, đấm, cào cấu các em con,
không kể gì hết. Ngoại và mẹ vào rầy la can gián thì con lại càng tức tối thêm,
những khi ấy, hầu như con không biết phải trái là gì cả. Ngày này sang ngày
khác, mẹ đã kiên nhẫn khuyên nhủ con những điều hay lẽ phải và dạy con sự dịu
dàng mềm mỏng của thiếu nữ Á Đông. Nước chảy mãi, đá cũng mòn. Con càng lớn
lên, tánh nóng giận càng giảm bớt nhưng
thiệt tình mà nói, nó cũng còn gốc rễ, khi có cơ hội thì phát ra ngay. Thúy An
im lặng ngồi xuống cạnh mẹ, chăm chú lắng nghe. Bác Tám liếc nhìn con rồi tiếp
tục:
- Con phải biết rằng sân hận là một phiền
não lớn, do chính mình tạo ra và tự mình phải gánh chịu sự đau khổ cùng hậu quả
của nó. Lúc nóng giận, trong tâm như bị lửa thiêu đốt vậy và khi ấy, mình không
làm chủ được ý nghĩ cùng hành động của mình nữa; mình nói và làm những điều lố
bịch, xằng bậy khiến mọi người muốn lánh xa. Đức Phật có dạy rằng: “lửa sân hận thiêu hủy cả rừng công đức”, con
phải nhớ câu kim ngôn ấy.
- Nhưng mà lúc nổi sóng lên rồi, con
không còn nhớ gì nữa mẹ à. Trong con hình như có hai con người: một con người
bình thường và một con con ma hờn giận.
- Con nói đúng! Khi cơn giận khởi lên,
trong tâm con, loại nội ma chế ngự. Mình là con Phật, mình phải thắng ma, đừng
để ma sai khiến mình.
Thúy An cúi đầu:
- Con cũng hiểu như vậy nhưng làm sao để
ngăn chận một cơn giận?
Nếu để lòng sân khởi lên rồi thì khó
ngăn chận vì lúc ấy con không còn bình tĩnh và sáng suốt nữa. Nhưng khi tỉnh
táo, sáng suốt, con nên ngồi yên phân tích những nguyên nhân của sự hờn giận.
Nói chung, mẹ thấy con thường nổi giận vì bị hiểu lầm, hoặc có người làm sai ý.
Những chuyện như thế, đối với người bình thường, họ chỉ phiền hà chút đỉnh
thôi, nhưng với con, nó như cây que diêm châm vào xăng dầu vậy. Con phải biết rằng
trên đời này có rất nhiều nỗi khổ lớn lao: Nào cảnh chiến tranh gây chết chóc
điêu tàn, nào sự tù đày tra tấn, nào cảnh đói khổ cơ hàn, nào thương tích tật
nguyện, nào những tai họa do thiên nhiên mang đến như núi lửa, động đất, ngập lụt,
hạn hán v.v... Quán xét những sự đau khổ lớn lao ấy của nhân loại cùng tất cả
chúng sinh, con mới thấy rằng con là người quá may mắn và những chuyện mà con
cho là đau khổ và sinh hờn giận đó là chuyện nhỏ nhặt trẻ con, không đáng để ý
tới, đừng ôm giữ nó trong tâm làm gì. Giận hờn là một loại thuốc độc, chẳng những
nó làm cho con bị phiền muộn đau khổ trong kiếp này mà còn lưu lại cho những kiếp
sau nữa.
- Ồ! Tạo sao vậy mẹ?
- Để mẹ kể cho con nghe chuyện này thì
con biết ngay. Đây là một truyện tích có thật, được ghi trong quyển Cao Tăng
Truyện:
“Thưở xưa, vào đời Đường bên Trung Hoa
có ngài An Thế Cao là bậc tu hành đắc đạo. Ngài nhìn thấu chuyện quá khứ, thấy
rõ nghiệp báo nhơn quả của mình và người. Ngài nhớ khi xưa có người bạn đồng
tu, tánh hay hờn giận, ngài thường khuyên nhủ mà bạn vẫn không thay đổi. Người
bạn này, tuy có lòng từ bi, hay giúp đỡ và làm việc bố thí nhưng tanh sân hận rất
nặng nề. Tín đồ thập phuong đến chùa, lỡ có ai làm điều gì không phải như mang
giày dép vào chánh điện, hoặc trẻ con đùa nghịch quấy phá, hoặc người cố tình lạm
dụng của thường trụ thì liền nổi giận, la hét, rượt đuổi hay hờn giận cằn nhằn
mãi không thôi. Ngài An Thế Cao thấy rõ tiền căn, rồi nhìn lại hậu kiếp của bạn,
thấy người này bị đọa làm con mãng xà lớn nhưng nhờ phước đức trước đây đã tạo
nên được làm thần trấn giữ một địa phương, hưởng nhiều phước báu.
Mãng xà thần này hình dạng xấu xa lại to
lớn lắm, nó thường ẩn mình, không ai thấy được. Người trong vùng đi thuyền
ngang qua miếu, nếu ai lấy tay chỉ chỏ hay bàn nói về mãng xà thì lòng sông liền
nổi sóng gió lật úp thuyền ngay. Dân địa phương rất sợ hãi, thường đem lụa là,
vật báu, thực phẩm, hoa quả dâng cúng thần. Vật phẩm chất đầy cả gian phòng rộng.
Nếu ai nhìn thấy của cải trong miếu thần mà sinh lòng tham, trộm lấy một món
thì hộc máu chết ngay. Người người càng thêm kiêng nể.
Ngày kia, An Thế Cao quá giang thuyền
buôn đi đến đây. Thuyền vừa tới nơi thì thần ứng bảo: “Trong thuyền có thầy tu.
Thần mời lên”. Ngài An Thế Cao đi vào đền tối om om, không đèn đuốc chi cả.
Ngài lên tiếng: “Muốn gặp ta, sao không ra mặt?” “Thưa ngài hình dạng tôi xấu
xí, không dám cho ai thấy”.
“Ta với người, nào phải xa lạ chi đâu.
Trước kia chúng ta cùng tu ở chùa Từ Ân. Ta nhờ tinh tấn tu hành nên liễu sanh
thoát tử. Người tu phước cũng nhiều nhưng tánh hay hờn giận nên bị đọa như vầy.
Ta đến đây chỉ vì muốn cứu người thôi. Hãy ra cho ta xem”.
Nói xong, Ngài thắp đèn lên. Từ dưới án bò
ra một con mãng xà đầu xanh, có sừng, mắt lồi, răng tua tủa, lưỡi đỏ như máu; bề
ngang to như cái nia, bề dài không biết tới đâu vì nó khoanh tròn thành một chồng
cao.
Ngài An Thế Cao xoa đầu nó, giảng giải sự
lý nhân quả, nói pháp Tứ Vô Lượng Tâm, rồi đọc một bài kệ cảnh tỉnh. Mãng xà buồn
khóc như mưa, đầu cúi ba lượt rồi lùi ra, biến mất.
Đêm đó, ngài An Thế Cao trở xuống thuyền,
chờ hôm sau nhổ neo đi. Lúc ngài nằm nghỉ trong khoang thuyền chợt thấy một thầy
tu trẻ tuổi bước vào và cúi mình đảnh lễ. Ngài chưa kịp hỏi gì thì người thiếu
niên nói: “Thưa ngài, tôi là mãng xà, nhờ ngài giúp đỡ cho mới dứt được nghiệp
chướng. Tôi bỏ xác ở nơi đầm lầy cách đây ba dặm về hướng Tây. Nhờ ngài thương
cho thiêu xác tôi và làm lễ an táng theo phép của người xuất gia. Còn bao nhiêu
của cải tài sản trong đền, xin ngài vì tôi cúng dường thập tự và lập đàn chẩn tế
phát cho kẻ nghèo”. Nói xong, người thiếu niên sụp lạy rồi biến mất.
Sáng hôm sau, thuyền nhân theo lịnh
ngài, chạy về hướng tây, tới cái đầm rộng, quả thấy xác con mãng xà nằm cả một
vùng rộng lớn. Mọi người nhốn nháo bàn tán; Ngài trình bày sự việc cho dân
chúng nghe rồi xin phép viên chức địa phương để làm theo lời yêu cầu của mãng
xà. Nơi an táng có dựng bia đá, nay còn di tích....
Câu chuyện hết rồi mà Thúy An vẫn còn ngồi
im suy nghĩ. Chặp sau, cô mới hỏi:
- Người tu hành phước đức nhiều mà vẫn
phải bị đọa sao mẹ?
- Phước đức không cứu được mình, nó chỉ
giúp chúng ta hưởng một cuộc sống sung túc về vật chất thôi.
- Vậy cái gì có thể cứu được mình?
- Ngoài tha lực và nguyện lực của chư Phật
thì chỉ có trí tuệ mới giúp mình thăng hóa thôi.
Thúy An mở to đôi mắt:
- Trí tuệ giúp mình như thế nào hả mẹ?
- Hai chữ Trí tuệ bao hàm ý nghĩa rất rộng
lớn, nói ra sợ con chưa hiểu được. Mẹ chỉ phân tích sự việc cho con biết chút đỉnh
thôi nhé! Như trường hợp của thần Mãng xà, nhờ gặp nhà sư nhắc nhở nên kịp thời
thức tỉnh, sám hối lỗi lầm nên bỏ được thân rắn. Thức tỉnh, ăn năn là sự bắt đầu
của trí huệ; bỏ sự cố chấp là hành động của Trí Huệ. Kẻ thù của Trí Huệ là
tham, sân, sân vì nó làm mờ ám tâm linh mình. Kẻ trí luôn luôn làm chủ được
chính họ vì họ không bị lòng tham thúc đẩy, không bị sự giận dữ sai khiến,
không bị sự si mê cố chấp che lấp. Cụ thể hơn cả là người trí có thể chuyển phiền
não thành Bồ đề, đổi đâu khổ thành hạnh phúc.
- Thật sao mẹ? Xin mẹ nói rõ hơn.
- Như tánh hay hờn giận của con, nếu là
người trí, họ sẽ dùng phép quán Từ Bi để phá trừ.
- Quán Từ bi là sao hả mẹ?
- Đây là phép quán tưởng đứ tánh Từ Bi.
Đối với chúng sanh đem lòng thương xót, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ, cứu giúp
làm cho người được an vui. Thường quán tưởng hạnh Từ bi sẽ dứt trừ được oán thù
và lòng sân hận. Nói cụ thể hơn, khi quán tưởng Từ bi, chúng ta chỉ nghĩ tới
người, không nghĩ về mình. Thí dụ như con có người vì hiểu lầm nên dùng lời lẽ
không tốt đẹp với con, thay vì nghĩ rằng mình bị xúc phạm, bị chạm tự ái, con
hãy quán nghĩ thương người kia vì tánh hồ đồ thiếu sáng suốt mà phạm khẩu nghiệp,
nghĩ vậy rồi tìm lời lẽ ôn hòa nhã nhặn để giúp người rõ sự thật mà lòng không
chút muộn phiền. Nếu nói mãi mà người không tin, không nghe thì cứ để thời gian
phơi bày đen trắng. Chuyện gì còn có đó, hơi sức đâu giận hờn.
Còn như có người chọc phá, nếu con tỏ ý
giận dữ, người ta còn có hứng thú để chọc thêm. Những khi ấy, con hãy quán Từ
Bi, thương người chưa biết huân tập Từ tâm lại thích tạo nghiệp dữ. Có thể sự
an nhẫn của con làm người ta hồi tâm hoặc là khi có dịp thuận tiện, con làm
lành với người, giúp đỡ người khi họ cần tới con. Như thế đôi bên đều vui vẻ cả.
Ngày xưa, khi đức Phật bị ngoại đạo cho voi dữ uống rượu say chạy ùa tới để giết
Ngài, đức Phật đã dùng Từ tâm để điều phục được voi say. Thú vật cuồng trí mà Từ
tâm còn nhiếp phục được huống chi con người. Con phải biết Từ tâm có sức mạnh
không thể nghĩ bàn được. Mẹ thấy con cũng có mối Từ tâm. Con thương tất cả loài
vật nhỏ nhít, con săn sóc những con thú lạc đến sân nhà mình, thương những người
bịnh hoạn bơ vơ.... Đó là những hạt giống Từ bi, hãy nuôi dưỡng nó, đừng để lửa
sân hận thiêu đốt những nhân tố tốt đẹp ấy.
Thúy An ngẩng nhìn mẹ bằng đôi mắt biết
ơn. Cô nắm tay mẹ rồi thật thà bày tỏ:
- Những lời mẹ khuyên, con rất trân trọng.
Nhưng, cái gì khó thì làm sao thực hiện được, mẹ à.
- Chuyện gì cũng vậy, muốn thành công phải
vận dụng ý chí mình, ngoài ra, con có thể thầm niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm,
Ngài sẽ gia hộ con.
Thúy An chấp hai tay lại như hình búp
sen, cô mỉm cười rạng rỡ:
- Dạ con xin hứa!
Bác Tám cũng cười hoan hỉ:
- Nhưng còn một điều này nữa, mẹ muốn con
lưu ý kẻo lại vướng vào lỗi lầm khác. Khi quán Từ bi, con phải có trái tim
thương yêu và khoan thứ, lại phải quên mình. Vì sao? Vì nếu chỉ dùng lý trí mà
xét nét lỗi lầm của người khác thì dễ sinh kiêu mạn. Chỉ có lòng thương yêu thật
sự mới cảm hóa được người và sửa đổi được mình. Thôi, trời cũng trưa rồi, mẹ
con mình vào sửa soạn bữa cơm.
Thúy An liến thoắng nói đùa:
- Bữa nay con không ăn cũng no rồi mẹ ạ!