Cuộc gặp gỡ Brahmananda và
Sudeih Babu đã thay đổi tất cả. Cho đến lúc đó, phái đoàn mới công nhận rằng đằng
sau khu rừng mê tín dị đoan, còn có những chân lý cao siêu đáng học hỏi và
nghiên cứu.
Sự
hiện diện của một vị Chân sư bí mật gửi thông điệp bằng tư tưởng cho
Brahmananda và Sudeih Babu, làm phái đoàn phấn khởi, tin tưởng rằng cuộc khảo cứu
sẽ còn vượt xa hơn điều họ dự tính.
Cuộc
tiếp xúc với Sudeih Babu đã khiến mọi người bắt đầu cởi bỏ các thành kiến dị biệt,
các quan niệm bảo thủ và lòng tự hào của người Âu, để bắt đầu quan sát, học hỏi
thêm về nền minh triết bí truyền của Á châu.
Phái
đoàn bắt đầu cuộc hành trình nhắm hướng Rishkesh trực chỉ. Lúc đầu, đường xá
còn tốt nên sự di chuyển còn nhanh chóng, nhưng về sau có những đoạn đường bị
ngắt quãng, phái đoàn phải dùng lừa, ngựa hoặc đôi khi phải đi bộ qua các eo
núi . Sự kiện một nhóm người Âu, di chuyển trên những con đường độc đáo, hẻo
lánh là một điều chưa hề xảy ra. Các sĩ quan quân lực Hoàng Gia đã hết sức ngăn
cản vì lý do an ninh. Mặc dù Ấn độ là thuộc địa của Anh, nhưng nhiều địa phương
vẫn không hợp tác với chính quyền. Việc di chuyển đòi hỏi sự hộ tống của lực lượng
quân đội võ trang đầy đủ. Có nhiều vùng, ngay cả dân địa phương cũng ít dám qua
lại, vì có những đảng cướp hoạt động mạnh mẽ. Để đề phòng, phái đoàn đã võ
trang cẩn thận, nhưng trong suốt thời gian di chuyển, không hề có một sự kiện
đáng tiếc nào xảy ra. Toàn thể mọi người có cảm tưởng như được che chở bởi một
quyền năng mạnh mẽ vô hình.
Trên
đường, phái đoàn đi qua một đền thờ của đạo Jain. Căn bản của tôn giáo này xây
dựng trên chủ trương mở rộng lòng từ bi (Ahimsa). Tín đồ đạo Jain thực hành lý
tưởng Ahimsa triệt để, đôi khi có vẻ quá khích. Đạo Jain được thành lập hơn
2000 năm, do đức Mahavira, một vị hoàng tử đã từ bỏ cung vàng, điện ngọc vào rừng
tu hành và đắc đạo. Ngay khi bước chân vào đền, người ta đã thấy ngay pho tượng
đức Mahavira ngồi thiền, trên trán có gắn một viên kim cương lớn. Trước khi vào
đây, du khách phải cởi thắt lưng, giày dép, những vật gì làm bằng da thú, sừng,
ngà voi,.v..v… Tất cả các vật do sự giết chóc mà ra. Sở dĩ phải làm thế, vì
giáo lý Ahimsa dạy các tín đồ phái này không được sát sinh, ăn thịt cá, mà ngay
trong nhà cũng không được chứa một thứ gì của sự giết chóc. Các giáo sĩ đạo
Jain mặc toàn đồ trắng, trên mặt bịt một miếng vải thưa chỉ chừa đôi mắt. Họ
làm thế để tránh loài ruồi, muỗi khỏi bay lọt vào mũi, miệng. Vì lòng từ bi
(Ahimsa) bao trùm tất cả, lỡ có sâu bọ nào vô phúc bay lọt vào rồi nằm lì trong
đó thì phạm tội sát sinh. Không những thế, các giáo sĩ đạo Jain mỗi năm phải nhập
thất một lần trong suốt ba tháng hè, vì thời gian đó côn trùng sinh sản nhiều,
nếu di chuyển sợ dẫm lên chúng.
Đối
với người Âu, việc thực hành Ahimsa có vẻ quá khích, và vô lý, nhưng phần đông
phái này thực hành giới luật rất nghiêm chỉnh. Họ tin rằng nếu các giới luật mà
không giữ được thì không hy vọng gì đi xa hơn trên đường tu học.
Một
số giáo sĩ Jain còn “quá khích” hơn nữa. Sau một thời gian tu ở trong đền, họ
phát nguyện vào rừng tu và sống loã thể. Họ chỉ uống nước suối, ăn trái cây, và
dành trọn thời giờ thiền định. Họ quan niệm rằng khi còn ăn cơm gạo, mặc y phục
là còn mang nợ xã hội. Còn hưởng những vật dâng cúng của tín đồ là còn mang nợ
loài người. Khi tu là phải ly khai với đời, từ bỏ tất cả, không bận tâm đến bất
cứ chuyện gì của thế gian, như của cải, vật chất, và ngay cả mảnh vải che thân.
Đạo Jain cho rằng xuất gia phải tuyệt tất cả ý niệm sở hữu, vì sở hữu bất cứ gì
đều là ràng buộc, níu kéo đưa đến sự quyến luyến, gây chướng ngại cho việc tu
hành giải thoát. Ngay cả các đền thờ đẹp đẽ cũng phải từ bỏ để vào rừng lấy đất
làm giường, lấy trời làm nhà, và thú rừng làm bạn. Họ dành tất cả thời giờ để
thiền định về ý niệm mở rộng lòng thương đến muôn loài. Nhiều tu sĩ ngồi thiền
mà thú rừng kéo đến quấn quít chung quanh, không hề sợ hãi. Các học giả người
Âu đã gọi tôn giáo này là phái “Loã thể”, vì quan niệm từ bỏ triệt để này. Điều
đáng tiếc là danh từ “Loã thể” thường bị đồng hoá với các sự kiện xấu xa, mọi rợ,
thiếu văn minh. Khi người Anh đến cai trị xứ này, rất nhiều tu sĩ đạo Jain đã bị
bắt giam vì tội xâm phạm thuần phong mỹ tục, mặc dù họ chỉ sống trong rừng
không tiếp xúc với xã hội. Khi gác bỏ các thành kiến dị biệt, phong tục và tập
quán, phái đoàn thấy đạo Jain chủ trương rất thực tế. Giaó phái này tin tưởng rằng
sức mạnh của tình thương có thể san bằng mọi khó khăn, trở ngại. Tuy nhiên,
tình thương phải hết sức tuyệt đối. Mục đích của nó không giới hạn vào một hạng
người nào riêng biệt, mà phải được ban rải đồng đều cho tất cả, không phân biệt
giai cấp, chủng tộc hay tín ngưỡng. Đây là một cải cách hết sức lớn lao vì
phong tục Ấn độ vốn rất thiên vị, và chủ trương dị biệt giai cấp. Tín đồ đạo
Jain tin rằng, con người dù mạnh hay yếu, sang hay hèn, trung lưu hay hay hạ
lưu, bình dân hay vua chúa, đều thụ hưởng lòng thương như nhau. Lòng thương chẳng
những phải bao la, mà còn nồng nàn như tình mẹ con, không quản ngại khó khăn,
nguy hiểm. Lòng thương phải chân thành, thâm thuý phát ra từ đáy lòng, không thể
giả dối , hay vị nể một hoàn cảnh nào. Sau khi ban rãi tình thương khắp đồng loại,
còn phải ban rãi đến loài vật, từ con voi to lớn đến các côn trùng nhỏ nhen. Do
đó, họ tránh sát sinh đã đành mà còn không sử dụng bất cứ vật dụng gì do sự giết
chóc mang lại. Đạo Jain cho rằng chiến thắng kẻ thù bằng sức mạnh là một thú
tánh cần loại trừ, nhưng chinh phục bằng tình thương là đường lối duy nhất để
giải quyết mọi việc.
Đạo
Jain có khá đông tín đồ, phát triển mạnh tại miền bắc Ấn độ, nhưng không đi đến
các nơi khác, vì gặp phải sức chống đối của Ấn độ giáo và Hồi giáo. Lịch sử Ấn
độ ghi nhận Hồi giáo đã tiêu diệt Phật giáo và đạo Jain một cách hết sức dã
man. Hơn nữa, quy luật khắc khe của tôn giáo này không mấy ai theo nổi, và các
tu sĩ bịt mặt, loã thể dễ bị người đời ngộ nhận. Có lẽ thế, nên tôn giáo này chỉ
bành trướng trong các vùng hẻo lánh miền sơn cước.
Ashmah
là một làng nhỏ, nằm sát chân núi. Phái đoàn dừng chân ở đây một thời gian cho
lừa, ngựa nghỉ ngơi. Một lý do nữa là gần đó có một di tích lịch sử quan trọng:
Ngôi đền yên lặng.
Đó là một ngôi đền kiến trúc bằng đá trắng, xây cất hơn 4000 năm nay. Trong đền không có hình tượng gì, mà chỉ là một căn phòng to lớn, trang nghiêm. Bước vào ngôi đền yên tĩnh, tất cả mọi người đều thấy trong lòng bỗng lắng xuống một cảm giác bình an khôn tả. Tục truyền, hoàng đế Rapoor mang quân đi chinh phục các nước láng giềng, đã gặp một vị đạo sĩ nơi đây. Đạo sĩ khuyên vua nên bỏ ý định chinh phục bằng sức mạnh, mà chỉ nên lấy nhân nghĩa mà đối xử với người. Nhà vua nghe theo, ra lệnh bãi binh, khuyến khích dân chúng sống theo đạo hạnh. Từ đó vương quốc Rapoor được hưởng một nền thái bình, thịnh trị.
Đó là một ngôi đền kiến trúc bằng đá trắng, xây cất hơn 4000 năm nay. Trong đền không có hình tượng gì, mà chỉ là một căn phòng to lớn, trang nghiêm. Bước vào ngôi đền yên tĩnh, tất cả mọi người đều thấy trong lòng bỗng lắng xuống một cảm giác bình an khôn tả. Tục truyền, hoàng đế Rapoor mang quân đi chinh phục các nước láng giềng, đã gặp một vị đạo sĩ nơi đây. Đạo sĩ khuyên vua nên bỏ ý định chinh phục bằng sức mạnh, mà chỉ nên lấy nhân nghĩa mà đối xử với người. Nhà vua nghe theo, ra lệnh bãi binh, khuyến khích dân chúng sống theo đạo hạnh. Từ đó vương quốc Rapoor được hưởng một nền thái bình, thịnh trị.
Thời
gian trôi qua, đến nay chẳng còn mấy ai biết đến thời đại của hoàng đế này,
nhưng ngôi đền xây cất để kỷ niệm sự tỉnh ngộ của nhà vua vẫn còn tồn tại. Khi
bước chân vào đây, không ai được nói một lời nào, mà phải tuyệt đối giữ yên lặng.
Lý do ngôi đền không có hình tượng gì là để nói lên cái chân lý tuyệt đối vốn
vô hình, vô tướng. Vị đạo sĩ giữ đền đã giải thích cho phái đoàn.
-
Đền yên lặng là nơi chỗ của quyền năng, vì yên lặng đồng nghĩa với quyền năng.
Khi con người đạt đến chỗ im lặng trong tư tưởng thì họ đã đến chỗ mà tất cả đều
là sự hợp nhất với quyền năng thiêng liêng. Con người có sức mạnh tư tưởng
nhưng vì vô ý thức, họ đã để cho nó hao tán. Qưyền năng hao tán là Động, còn tập
trung là Tĩnh. Khi tập trung mọi sức mạnh tư tưởng vào một trung tâm sinh lực
duy nhất, con người tiếp xúc với thượng đế. Khi hợp nhất với đấng thiêng liêng,
ta hợp nhất với mọi quyền năng và đó là di sản tâm linh tối hậu. Phương pháp
duy nhất để hoà hợp với đấng thiêng liêng, là tiếp xúc với ngài một cách ý thức,
từ bỏ ngoại cảnh, để quay về với nội tâm, vì đấng thiêng liêng ẩn tàng trong
tâm con người. Khi con người từ bỏ ảo giác của kiêu mạn, bản ngã, nhận thức sự
vô minh, hèn kém của mình và sẵn sàng học hỏi, sửa đổi, đó là tu thân. Người ta
không thể dạy bảo điều gì cho những cá nhân kiêu căng, tự phụ, vì chỉ có người
khiêm tốn mới thấy được chân lý. Đấng thiêng liêng không nghe các lời cầu xin ồn
ào, lập đi lập lại mà chỉ nghe những lời cầu nguyện chân thành của những kẻ đến
với ngài bằng trái tim, sùng kính ngài bằng tâm hồn và sự im lặng. Kẻ nào tiếp
xúc với ngài trong ầm thầm sẽ nhận biết quyền năng của ngài do sự thực hiện các
điều mong muốn của họ.
-
Nhưng nếu không cầu nguyện theo mọi sách vở, thánh kinh làm sao tín đồ có thể
hiểu biết về tôn giáo mà họ đang theo đuổi?
-
Minh triết phát sanh từ sự yên lặng. Thượng đế không cần ta phải tuyên dương
ngài một cách ồn ào hay bằng một ngôn ngữ gì. Khi một tín đồ thành tâm trong
tĩnh lặng, y sẽ hoà hợp tư tưởng với ảnh hưởng thiêng liêng; và ảnh hưởng này
chỉ có thể nhận biết được khi lòng ta vắng lặng. Khi tâm hồn hoàn toàn an tĩnh,
ta có thể tự phân tích mình, trau dồi phẩm hạnh và đón nhận những mặc khải từ
cõi trên. Chỉ trong sự vắng lặng, con người mới ý thức năng lực trong mình, và
chung quanh mình. Chỉ trong yên lặng các quyền năng tiềm ẩn mới phát sinh và nẩy
nở. Tâm có an thì việc bên ngoài mới không vọng động, dục vọng mới chịu yên
tĩnh. Con người có giải thoát các ồn ào, náo nhiệt bên ngoài, thì mới đón nhận
được các hoà âm tuyệt diệu đến từ cõi vô biên. Con người cần khám phá rằng hạnh
phúc ở trong tâm mình. Hiện nay phần lớn đều tìm kiếm hạnh phúc bên ngoài,
nhưng ngoại cảnh chỉ đem lại các giải trí trong chốc lát, thay vì hạnh phúc vô
biên. Tất cả phương pháp tìm kiếm bên ngoài đều vô vọng. Con người phải biết
quay về nội tâm vì mọi hình tướng, nghi thức đều là sự áp chế.
-
Nhưng làm sao tìm thấy điều gì khi ngồi yên lặng?
-
Con người sẽ dần dần ý thức được chính mình. Dĩ nhiên, điều này đòi hỏi một thời
gian. Họ sẽ tìm thấy ở mình một thứ hạnh phúc không lệ thuộc ngoại vật, cũng
không lệ thuộc tha nhân. Một tâm trạng giải thoát không ai có thể cướp được, đó
là tâm trạng “tôn giáo”, kết tinh bởi sự nẩy nở, thăng hoa các ý thức sâu kín
trong nội tâm. Con người sẽ tự mình tìm thấy câu giải đáp khi họ ý thức thực chất
của chính mình, và ảnh hưởng cao cả của thượng đế. Chỉ khi đó, mọi sự tìm kiếm ở
ngoại cảnh sẽ chấm dứt.
-
Những điều ông nói rất hay, nhưng nếu không có sách vở chỉ dẫn, làm sao con người
biết đâu mà tìm để đạt đến trạng thái đó?
-
Đa số người Âu chỉ quen hoạt động và ỷ lại vào một phương pháp, giáo lý hướng dẫn
cuộc đời. Do đó, họ dễ bị hướng dẫn sai lạc, lầm lẫn. Phải tự mình suy gẫm và
tìm lấy con đường cho chính mình mới là phương pháp đứng đắn. Con đường giải
thoát đòi hỏi can đảm và nổ lực cá nhân, vì không đường nào giống đường nào. Lịch
sử cho thấy có biết bao tôn giáo rao truyền chân lý cực kỳ tốt đẹp, nhưng có mấy
tín đồ nghiên cứu tường tận? Đa số đều ỷ lại vào các giáo sĩ chỉ dẫn. Chính các
giáo sĩ còn chưa giải thoát chính mình, thì còn cứu độ cho ai nữa? Đó là lý do
hoàng đế Rapoor xây dựng ngôi đền yên lặng và trong đó không có một pho tượng,
một hình ảnh hay ngôn ngữ nào, để tránh đi vào con đường của các tông phái Ấn
giáo. Thượng đế ở khắp mọi nơi và tuyệt đối, ngôn ngữ, hình ảnh không thể diễn
tả được. Chỉ trong sự im lặng hoàn toàn phá bỏ tất cả hình tướng, nghi thức,
con người mới tự do sống bình an với nhau, hiểu sự liên quan giữa y và những
người đồng loại. Con người thường suy tư về sự liên hệ giữa người với người,
nhưng sự suy tư này ít nhiều đều thiên vị. Nó luôn luôn sai lạc nếu nó khảo sát
sự vật xuyên qua bản ngã. Tư tưởng con người chỉ chân chính khi họ giải thoát
khỏi các thành kiến, điều kiện bao bọc bên ngoài. Tự do tư tưởng không phải chỉ
là muốn nghĩ thế nào thì nghĩ, mà còn là giải thoát ta ra khỏi các áp lực bắt
ta phải suy nghĩ theo một lề lối riêng. Đây là một chân lý chỉ tìm thấy trong sự
yên lặng, trong sự cởi bỏ mọi nghi thức, hình tướng, ngôn từ, các thành kiến dị
biệt, các cưỡng bách tư tưởng, các sợ hãi bắt nguồn từ vô minh. Chỉ khi nào
hoàn toàn tự do, con người mới thực sự bình an và giải thoát.
Phái
đoàn từ giã vị giáo sĩ coi đền. Cuộc viếng thăm tuy ngắn ngủi nhưng đã gây một ấn
tượng tốt đẹp với mọi người. Hình như có một luồng từ điện vô hình phảng phất
quanh ngôi đền, khiến ai cũng thấy trong lòng dào dạt một sự bình an khó tả. Lối
tu trong yên lặng không còn là một vấn đề trừu tượng, vô ích như họ nghĩ. Quả
thật xứ Ấn còn rất nhiều điều để cho người Âu học hỏi và suy nghĩ.
xem tiếp: * Chương V: Thành phố thiêng liêng
xem tiếp: * Chương V: Thành phố thiêng liêng
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...