Kinh
thánh Do Thái Genesis (18:23)* kể rằng: Sau khi Abraham và Isaac chết, nước
Israel dưới sự cai quản của Jacob bị lâm vào nạn hạn hán mất mùa khiến nhiều
người chết đói.
Jacob dẫn dân Israel di cư đến vùng đồng
bằng phì nhiêu Goshen, phía Bắc Ai Cập giáp Địa Trung Hải. Họ định cư tại đây
và toàn dân đoàn kết nhất trí theo một tôn giáo thờ Thiên Chúa Elohim (Bull).
Cuộc sống của họ diễn ra trong hòa bình và thịnh vượng, kéo dài được hơn 300
năm. Vào năm 1580 trước Công Nguyên, đất nước của họ bị Ai Cập xâm chiếm và đô
hộ. Hơn hai thế kỷ sau, vào đầu thế kỷ 13 trước Công Nguyên, vua Ramses của Ai
Cập (1304-1237 TCN) với tham vọng xây dựng Kim Tự Tháp và nhiều đền đài dinh thự
đã ra lệnh bắt toàn dân Israel làm nô lệ. Dân tộc Israel bỗng nhiên trở thành một
tập đoàn lao công khổ sai dưới những lằn roi và gươm giáo của lính Ai Cập. Vào
khoảng năm 1250 TCN, Moses (Thánh Mai-sen) xuất hiện như một vị anh hùng dân tộc
Do Thái. Moses củng cố sức mạnh dân tộc bằng cách hô hào toàn dân Do Thái đoàn
kết trong niềm tin vào một Thiên Chúa Duy Nhất (Unity God). Toàn dân Do Thái chỉ
có một tôn giáo gọi là "đạo của người Do Thái" (Israelite religion) dựa
trên căn bản một Giao Ước Tưởng Tượng (Convenant/Testament) giữa Thiên Chúa và
Dân tộc. Theo giao ước này thì dân tộc Do Thái chỉ tôn thờ một Thiên Chúa, ngược
lại Thiên Chúa sẽ chọn Do Thái làm dân riêng của Ngài (Chosen People).
Giao ước giữa Thiên Chúa và dân tộc Do Thái được tóm tắt như sau: Thiên Chúa
ban ơn hoặc trừng phạt dân tộc Do Thái tùy theo sự trung thành của họ đối với
Thiên Chúa (God bless or punish them according to their faithfulness to Him).
Quan niệm về sự giao ước giữa Thiên Chúa và con người là một nét đặc thù của đạo
Thiên Chúa. Sau này, đạo Kitô đưa ra một giao ước bịa đặt mới: Jesus là con một
của Thiên Chúa xuống thế làm người và chịu chết để chuộc tội thiên hạ. Ai tin
Ngài sẽ được cứu rỗi, ai không tin điều này sẽ bị sa hỏa ngục đời đời. Người
Kitô Giáo gọi giao ước này là Tân Ước (New Covenant, New Testament) và gọi giao
ước của đạo Do Thái là Cựu Ước (Old Testament).
Trước khi Moses xuất hiện, tư tưởng về
một Thiên Chúa Duy Nhất (The Only God) chỉ có ý nghĩa tiềm ẩn (implicit) mà
thôi. Từ thời Abraham đến thời Moses (2000-1250 TCN), người Do Thái thờ Thiên
Chúa Elohim vì họ tin Ngài tuy không là vị thần duy nhất nhưng là "vị-thần-cao-nhất"
trong tất cả các thần.
Moses (mai-sen) đưa ra ý niệm: Dân tộc
Do Thái với Thiên Chúa có một sự giao ước thiêng liêng và cực kỳ nghiêm ngặt được
ràng buộc bằng máu. Tới đời Mai-sen, tư tưởng Độc Thần Giáo (monotheism) vẫn
chưa thực sự thành hình. Phải đợi nhiều thế kỷ sau, nhiều thần học gia Do Thái
(thường được gọi là các tiên tri) đưa ra những ý niệm về Thiên Chúa Duy Nhất một
cách rõ ràng hơn, lúc đó Độc Thần Giáo, hoặc Nhất Thần Giáo (Monotheism) tức
Thiên Chúa Giáo mới thực sự ra đời.
Điều quan trọng nhất là Moses đã biến đạo
Do Thái của các tổ phụ thành một "Tôn giáo của Luật". Căn bản Thánh
Kinh của đạo Moses là "Torah" có nghĩa là Luật (law) được tóm tắt
trong kinh Mười Điều Răn (The Ten Commandments). Hai điều đầu tiên quan trọng
nhất:
1. Tôn thờ một Thiên Chúa trên hết mọi
sự và kính mến Ngài hơn bất cứ ai.
2. Không được kêu tên Ngài (Elohim) và
không được thờ ảnh tượng của Ngài (tượng con bò đực bằng vàng hoặc mạ vàng).
Thay vì gọi tên Ngài là Elohim thì gọi Ngài bằng "Jehovah", tiếng Do
Thái có nghĩa là "Thiên Chúa của các tổ phụ" (God of Fathers).
Jehovah không phải là tên mới của Thiên Chúa mà chỉ là một cách "nói về
Ngài mà không phải kêu tên của Ngài" (tên húy). Trong khi cầu nguyện, người
Do Thái thường cũng không gọi Ngài là Jehovah mà dùng tiếng Adonai, có nghĩa là
Chúa (Lord).
Kinh Mười Điều Răn được triển khai
trong kinh Torah và nhiều kinh khác biến thành những bộ luật lên tới 500 - 600
điều khoản. Có những điều khoản rất chi tiết chi phối đời sống người Do Thái.
Chẳng hạn:
- Không ai được đến Đền Thờ Cầu Chúa mà
đi tay không (None may visit me empty-handed)
- Khi dâng cúng hiện vật phải chọn hoa
trái đầu mùa, thú vật đầu lòng (cừu, dê đầu lòng).
- Khi tế lễ phải lấy máu súc vật (vật
hy sinh) rưới lên bàn thờ và phải đọc sách kinh thánh cho mọi người cùng nghe).
Moses đã đưa ra một khuôn mẫu của nghi
lễ tôn thờ Thiên Chúa mà sau này đạo Kitô, nhất là Công Giáo La Mã, đã bắt chước
gần giống hệt. Moses thiết lập bàn thờ, thường ở chân núi, giết súc vật tại chỗ
lấy máu rưới lên bàn thờ và lên mọi người. Ông đọc một đoạn Kinh Thánh cho mọi
người nghe rồi nói: Đó là lời Chúa đã ra lệnh, chúng ta phải vâng lời (All that
the Lord has directed, we will obidiently do). Sau đó, Moses nói tiếp: Đó là
máu của sự giao ước mà Thiên Chúa đã đặt ra trên căn bản của những luật lệ
(Behold the Blood of the Covenant which the Lord has made with you on the basis
of all these regulations). Hành động rưới máu lên bàn thờ và lên mọi tín đồ ngụ
ý hai thứ máu đó là Một, không thể tách rời. Luật của Chúa là sự ràng buộc giữa
mọi tín đồ đối với Thiên Chúa được thiết lập bằng sinh mạng. Đạo Công Giáo La
Mã không giết súc vật để tế vì chính Chúa Jesus đã là một của lễ hy sinh cao quí
nhất. Chúa Jesus là con của Thiên Chúa đã chịu chết để chuộc tội thiên hạ* nên
Chúa Jesus được vinh danh là Con Chiên Thiên chúa (The Lamb of God). Bánh lễ ở
nhà thờ được thay thế cho thịt, và rượu nho thay thế cho máu của Chúa Jesus.
Khi truyền phép Mình Thánh và Máu Thánh Chúa trong buổi lễ, các linh mục cũng đọc
: "Đây là giao ước mới..."
Truyền thuyết về cuộc đời của Moses được
thuật lại trong sách Exodus (Ê-dịp-tô ký) và Numbers (Dân số ký) được viết vào
các thế kỷ từ 8 đến 6 TCN (tức sau khi Moses chết từ 4 đến 6 trăm năm) như
sau:*
Khoảng thế kỷ 13 trước Công nguyên, số
dân Do Thái nô lệ ở Ai Cập tăng lên rất đông, Vua Pharaoh của Ai Cập sợ dân Do
Thái sẽ nỗi loạn nếu lỡ xảy ra chiến tranh giữa Ai Cập với các nước khác. Để
tránh dân Do Thái kết hợp với kẻ thù chống lại Ai Cập, Pharaoh ra lệnh giết hết
các bé trai Do Thái mới sinh bằng cách ném xuống sông Nil. Lúc đó Moses được 1
tháng tuổi. Cha mẹ của Moses không thể giấu con được nên đã đặt Moses nằm trong
cái thúng đan bằng cây sậy (papyrus reeds) thả xuống sông Nil. Vừa đúng lúc con
gái của vua Ai Cập cùng đoàn tỳ nữ ra sông tắm đã phát giác ra đứa bé và mang về
nuôi. Công Chúa Ai Cập đặt tên cho đứa bé là Moses, có nghĩa là VỚT ĐƯỢC (Drawn
out). Sau này lớn lên, Moses trở thành một thiếu niên tuấn tú, cao lớn vạm vỡ
và rất thông minh. Một hôm tình cờ thấy 1 lính Ai Cập đánh đập một người Do
Thái, Moses nổi giận giết chết tên lính đó. Vì sợ bị bắt về tội giết người,
Moses bỏ trốn bằng cách bơi qua Hồng Hải sang nước Midian. Trong lúc đang bơ vơ
nơi xứ lạ, Moses may mắn gặp tu sĩ người Midian tên là Jethro và được tu sĩ này
dẫn về nhà nuôi. Ít lâu sau, Moses lấy con gái của Jethro tên là Zipporah và có
2 con với cô này. Moses được bố vợ giao cho một đàn dê cừu đem lên núi Sinai để
chăn nuôi. (Núi Sinai ở Tây Nam Biển Chết, hiện ở chân núi có một giáo đường
Công Giáo La Mã). Câu chuyện huyền thoại được kể tiếp, một hôm, trong khi đang
chăn bầy gia súc, Moses bỗng nghe có tiếng nói lạ trong bụi rậm: "Moses!
Moses! Ta đây! Ngươi chớ đến gần Ta. Hãy cởi dép ra vì đây là Đất Thánh".
Moses sợ hãi không dám nhìn vì biết đó là tiếng nói của Thiên Chúa Elohim
(E-lô-him). Thiên Chúa nói tiếp: "Ta đã nhìn thấy cảnh khốn cùng của Dân
riêng ta ở Ai Cập. Ta đã nghe tiếng la khóc của Dân ta dưới sự áp bức của quân
thù. Ta từ trời xuống đây để cứu Dân ta ra khỏi Ai Cập và đưa các con ta đến
vùng đất rộng rãi tốt đẹp, vùng đất có nhiều sữa và mật ong, đó là vùng đất của
người Canaanites. Nay ta sai con đến gặp Pharaoh và giao nhiệm vụ cho con phải
dẫn dân của ta, Israel, ra khỏi Ai Cập để về miền đất ta đã hứa".
Moses hỏi Thiên Chúa: "Con phải
cho dân Do Thái biết Ngài là ai, vậy con phải nói tên Ngài là gì? Thiên Chúa trả
lời: "Con hãy nói nói họ rằng THIÊN CHÚA CỦA TỔ PHỤ CÁC NGƯỜI đã sai con đến
với họ" (The God of your Fathers has sent me to you). Thiên Chúa của các tổ
phụ Do Thái là Elohim, nhưng Moses rất sợ Thiên Chúa nên không dám kêu tên
Ngài. Thiên Chúa đã dạy cho Moses gọi Ngài là Thiên Chúa của các tổ phụ, tiếng
Do Thái là Yahweh (ya-wê), Hy lạp phiên âm thành Jehovah (Gê-hô-va). Moses hỏi
vặn Chúa để được biết thêm về Ngài thì Chúa trả lời: Ta là Ta, Đấng Tự Hữu (I
am what I am, I am HE that causes to be). Thấy Moses không thỏa mãn về câu trả
lời của Chúa, Ngài phán thêm: "Vậy con hãy nói với dân Do Thái ta là
Yahweh (Jehovah) đã sai con đến với họ". Khi Chúa nói Ta là Ta, đấng Tự Hữu
(I am what I am, I am He that causes to be) là ám chỉ Ngài là Đấng Tạo Hóa
(Creator).
Đây là một bước tiến mới trong quan niệm
về Thiên Chúa. Với Abraham, Elohim là vị thần mạnh nhất trong các thần. Với
Moses, Elohim (tức Jehovah, Thiên Chúa của Abraham, Isaac, Jacob) là Đấng Tạo
Hóa.
Câu chuyện được kể tiếp: Tuân lệnh
Thiên Chúa, Moses vội vàng từ Midian vượt Hồng Hải trở về Ai Cập thuyết phục
toàn dân Do Thái thực hiện kế hoạch VƯỢT BIỂN (Passover). Moses đến gặp vua
Pharaoh (Pha-rao) để yêu cầu vua cho dân Do Thái tự do rời khỏi Ai Cập. Vua
Pharaoh từ chối, Moses cầu xin Chúa cứu giúp, Chúa sai thiên thần xuống giết chết
hết các đứa con đầu lòng của Ai Cập (Egypt's first born children). Vua Pharaoh
sợ quá vì chính vua cũng là con đầu lòng nên miễn cưỡng cho phép dân Do Thái ra
đi. Moses dẫn dân Do Thái vượt qua Biển Đỏ để sang phần đất hứa là Canaan.
Lúc đoàn dân Do Thái tới Hồng Hải thì vua Pharaoh cho quân lính rượt theo.
Thiên Chúa hóa phép cho nước biển Hồng Hải rẽ ra thành đường đi an toàn cho
đoàn dân Do Thái vượt qua. Đoàn quân của Ai Cập thấy vậy cũng chạy xuống con đường
đó, nhưng tới khi toàn bộ đoàn quân đang ở dưới đáy biển thì nước hai bên ập lại
khiến tất cả đều bị chết đuối. Toàn dân Do Thái vượt biển an toàn đến miền đất
Do Thái hiện nay. Từ đó ngày lễ Vượt Qua (Passover) là ngày lễ lớn nhất của Do
Thái để kỷ niệm biến cố này. Moses và dân Do Thái tung hô cảm tạ ơn Chúa và
vinh danh Ngài là Thiên-Chúa-Của-Các-Đạo-Binh (God of the Armies) tương tự như
thần Chiến Tranh (Mars) của Cổ Hy Lạp. Sách kinh Công Giáo cũng bắt chước lời cầu
nguyện này của người Do Thái nên mới có câu: "Thánh , thánh , thánh, Chúa
là Thiên Chúa các đạo binh. Đất trời đầy vinh quang Chúa. Hoan hô Chúa trên các
tầng trời."
Thiên Chúa của Do Thái và Công Giáo rất
ích kỷ và tàn bạo vì chỉ biết bênh vực những kẻ thờ Ngài và thẳng tay tàn sát
những kẻ ngoại đạo. Vậy mà người ta vẫn luôn luôn ca ngợi Thiên Chúa "lòng
lành vô cùng"! Thảo nào Chúa và tín đồ đạo Chúa đều tàn bạo và độc đoán giống
nhau... như đúc !
Câu chuyện dân Do Thái được Thiên Chúa
rẽ nước Hồng Hải để cứu họ thoát ách nô lệ Ai Cập chỉ là chuyện thần thoại.
Theo lịch sử của Ai Cập, vào thế kỷ 13 TCN, quân của vua xứ Lybia kéo đến tàn
phá Ai Cập. Trong khi đó thì bọn cướp biển từ Bắc Âu (tổ tiên của Vikings) đem
hàng đoàn thuyền vào chiếm đóng các cửa sông trông coi đám nô lệ Do Thái và tạo
cơ hội cho họ bỏ trốn.
Câu chuyện Vượt Biển (Passover) gắn liền
với chuyện Mười Điều Răn (The Ten Commandments) được kể lại trong Kinh Thánh
Exodus (Ex. 34) như sau:
Một hôm, Chúa phán với Moses: "Con
hãy lấy hai tảng đá đem lên núi Sinai. Không một ai được cùng đi với con. Không
một súc vật nào được ăn cỏ quanh núi". Moses tuân lệnh đi tìm hai tảng đá
và báo cho dân Do Thái biết ông ta sẽ lên núi chờ lệnh Thiên Chúa vào sáng hôm
sau. Sáng sớm hôm sau, Moses tắm rửa sạch sẽ rồi mang hai tảng đá lên núi
Sinai. Khi leo tới đỉnh núi, Moses thấy Thiên Chúa từ trời xuống theo đám mây.
Moses sợ hãi cúi rạp xuống đất thờ lạy Chúa. Chúa dùng ngón tay của Ngài viết
10 điều răn lên hai tảng đá, mỗi tảng ghi 5 điều. Nhận hai tảng đá ghi luật của
Chúa xong, Moses ở lại cảm tạ ơn Chúa trong nhiều ngày. Dân Do Thái qui tụ đông
đảo ở gần chân núi Sinai đón chờ Moses, nhưng đã nhiều ngày không thấy ông ta
xuống. Đám đông dân chúng chạy về nhà kiếm người anh trai của Moses là Aaron
(the elder brother of Moses) để yêu cầu Aaron lãnh đạo Do Thái thay thế Moses.
Aaron nhận lời và ra lệnh cho mọi người: "Hãy tháo mọi đồ nữ trang từ tai
các con gái và vợ của các ngươi rồi gom hết lại nộp cho ta". Mặc khác,
Aaron ra lệnh lập một lò đúc và khuôn rồi cho hết số vàng thu góp được vào lò nấu
chảy. Cuối cùng, dân Do Thái đúc được một tượng con bò đực to hoàn toàn bằng
vàng thật.
Aaron ra lệnh lập một bàn thờ ở chân
núi Sinai và đặt tượng bò lên. Aaron tuyên bố ngày hôm sau sẽ là ngày đại lễ để
dân Do Thái tạ ơn Chúa Elohim. Sáng hôm sau, khi dân Do Thái qui tụ đông đảo
trước bàn thờ bò, Aaron chỉ vào con bò vàng và nói: "Đây là Thiên Chúa của
các người, hỡi dân Irael, đó là Đấng đã mang các ngươi ra khỏi Ai Cập!"
(Here is your God, Oh Israel, who brought you out of the land of Egypt).
Dân Do Thái cúng tế Thiên Chúa Bò Vàng, sau đó nhảy múa ca hát hết sức vui vẻ.
Vừa lúc đó, Moses mang hai tảng đá từ trên núi Sinai đi xuống. Moses thấy dân
Do Thái thờ bò vàng bèn nổi giận ném hai tảng đá phá hủy tượng bò. Moses dùng
quyền uy của mình cấm dân chúng không được tôn thờ ảnh tượng bò và không được gọi
tên Thiên Chúa là Elohim nữa. Từ đó, người Do Thái gọi Thiên Chúa là Jehovah có
nghĩa là "Thiên Chúa của các tổ phụ". Mặc dầu Moises gọi Thiên Chúa
là Jehovah nhưng ai cũng biết Jehovah là Elohim, tức Thiên Chúa Bò Vàng của các
tổ phụ Do Thái (kiêm tổ phụ Công Giáo Việt Nam) là Abraham, Isaac, Jacob!
mời xem tiếp: Truy Tìm "Jesus" Thật
mời xem tiếp: Truy Tìm "Jesus" Thật
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...