Chương
40: Nhờ tình mẫu tử, Nguyễn Huệ lập kế can anh. - Mượn nghĩa tôi thần, Nguyễn Hữu
Chỉnh xin quân đánh giặc.
Về
đến Quy Nhơn vua Thái Đức liền thiết triều. Vua giận dữ bảo các quan văn võ rằng:
-
Nguyễn Huệ thật khinh ta quá lắm! Nó ỷ có quân đông tướng mạnh, dám ngang nhiên
cãi lệnh ta không về Quy Nhơn mà đóng binh nơi Thuận Hoá. Các tướng mau kiểm điểm
binh mã cùng ta cất quân đánh Thuận Hoá hỏi tội Nguyễn Huệ mới hả cơn giận của
ta.
Nguyễn
Lữ bước ra khóc nói:
-
Xin Hoàng huynh bớt giận, hiện Long Nhương huynh có trong tay hai vạn tinh
binh, các tướng giỏi từ lúc Tây Sơn Thượng dấy nghĩa như Ngô Văn Sở, Phan Văn
Lân, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Vũ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Nguyễn Văn Tuyết,
Nguyễn Văn Lộc đều theo về dưới trướng. Vả lại tướng của ta ở kinh thành chỉ
còn lại hai cha con Lê Trung, Lê Chất, quân sĩ của ta từ trước đến nay đều sợ
ơn uy của Long Nhương huynh. Nay nếu Hoàng huynh gây cuộc binh đao huynh đệ
tương tàn, em e rằng đã không thắng được mà tiếng nhơ còn để ngàn sau. Xin
Hoàng huynh xét lại.
Vua
Thái Đức quát lớn:
-
Nhưng nó khinh ta ra mặt hỏi ta nhịn sao cho nổi.
Thái
giám Vũ Tâm Can bước ra thưa:
-
Tâu Bệ hạ, ngày trước cha thần vì phạm tội uống rượu phải tự đâm cổ mà chết để
tỏ rõ là quân pháp bất dị thân. Huống hồ nay Long Nhương đã hai lần kháng mệnh,
khi quân phạm thượng. Nếu Bệ hạ không cử binh vấn tội, thần e lòng người bất phục.
Nghe
nói vậy, vua Thái Đức càng quả quyết bảo các quan rằng:
-
Các khanh mau về kiểm điểm binh mã, chuẩn bị lương thảo đạn dược, ta sẽ thân
chinh hỏi tội Nguyễn Huệ. Ý ta đã quyết không ai được can ngăn.
Nói
xong vua truyền bãi triều. Các quan văn võ đều ra về thu xếp công việc. Quan ngự
sử Nguyễn Thung vừa đi vừa nghĩ rằng, nếu Hoàng thượng cất binh ra đánh Long
Nhương tướng quân thì hai bên đều hao binh tổn tướng, lòng người tan rã. Nhà
Tây Sơn phen này nguy mất. Ta phải có cách gì ngăn vua mới được.
Về
đến nhà, Nguyễn Thung cứ đi đi, lại lại nhăn trán cau mày mà chưa nghĩ ra cách
gì. Bỗng có người tâm phúc vào thưa rằng:
-
Thưa đại quan, tháng trước đại quan sai tôi đem mật thư ra Thăng Long cho Long
Nhương tướng quân báo tin rằng Hoàng thượng ra bắt tội Long Nhương. Nay tôi đã
hoàn thành sứ mạng xin về báo cho đã quân được rõ.
Nguyễn
Thung hỏi:
-
Long Nhương tướng quân có dặn điều gì chăng.
Người
tâm phúc Nguyễn Thung đáp:
-
Long Nhương có thư bảo trao cho đại quan.
Nguyễn
Thung đọc thư xong mừng rỡ nói:
-
Long Nhương tướng quân liệu việc không sai, ta phải mau theo kế ấy thi hành mới
mong cản được vua dấy động can qua.
Nói
rồi Nguyễn Thung liền tìm gặp Nguyễn Lữ. Thung hỏi Lữ:
-
Long Nhương vì sợ tội nên không dám theo Hoàng thượng về Quy Nhơn. Hoàng thượng
nghĩ rồi Long Nhương khi quân phạm thượng mà đem quân vấn tội. Nếu để hai người
đánh nhau e rằng nhà Tây Sơn ta nguy mất. Tiết chế là anh em cốt ruột là không
can được Hoàng thượng sao.
Nguyễn
Lữ đáp:
-
Chức Ngự sử là dùng để can vua. Ông ở chức ấy mà không can được vua, việc này
là việc nước chứ chẳng phải việc nhà ông trách ta sao được. Vả lại Hoàng huynh
đang giận lắm, tôi không dám can ngăn.
Nguyễn
Thung nói:
-
Nay Tiết chế có thể nhờ một người can được Hoàng thượng sao Tiết chế không làm.
Nguyễn
Lữ cười báo:
-
Người mà ông định nói ta đã biết. Phụ mẫu ta có thể can được Hoàng huynh. Nhưng
dù sao cũng phận đàn bà cao tuổi, không nghĩ xa nên Long Nhương huynh phải phạm
thêm tội bất hiếu!
Nguyễn
Thung hỏi:
-
Vì sao Thái hậu can không cho Hoàng thượng đánh Long Nhương thì Long Nhương lại
phạm tội bất hiếu?
Nguyễn
Lữ đáp:
-
Phụ mẫu ta can được Hoàng huynh rồi tất muốn anh em phải hoà hiếu với nhau, người
ắt gọi Long Nhương huynh về giải hoà cùng Hoàng huynh. Long Nhương huynh tội với
vua quá nặng sao dám về, thì có phải là Long Nhương thêm tội bất hiếu nữa
chăng. Vì lẽ ấy ta còn đắn đo chưa cho mẹ hay.
Nguyễn
Thung nói:
-
Tiết chế hãy thưa cùng Thái hậu thế này... thế này... ắt Thái hậu sẽ không gọi
Long Nhương về, thì không sợ Long Nhương mang tội bất hiếu!
Nguyễn
Lư khen:
-
Quan Ngự sử thật là cao kiến.
Nói
xong Nguyễn Lữ liền đi tìm gặp mẹ.
Hôm
sau nghe báo có Thái hậu thân hành đến tìm, vua Thái Đức ra ngoài nghênh đón, lạy
chào mẹ xong vua hỏi:
-
Những lần trước muốn gặp con, Thái hậu đều sai người đến gọi. Lần này có việc
chi hệ trọng mà mà lại thân hành đến tìm con?
Thái
hậu nhỏ nhẹ đáp rằng:
-
Ta nghe con định cắt ruột của mẹ, nên đến cầu xin con tha cho mẹ?
Vua
Thái Đức thất kinh hỏi:
-
Sao mẹ lại nói lời như thế?
Thái
hậu mắng rằng:
-
Các con đều là khúc ruột của mẹ, nay con định giết em con thì chẳng phải là cắt
ruột mẹ sao?
Vua
quỳ không dám ngẩng mặt lên. Vua nói:
-
Do nó dám ra mặt phản con, nếu không trị thì còn gì phép nước. Xin mẹ hiểu cho!
Thái
hậu hỏi:
-
Vì sao con bảo rằng thằng Huệ phản con?
Vua
đáp:
-
Con thân hành ra Bắc bảo nó về Quy Nhơn thọ tội. Nó phản con cãi lệnh không về
mà đóng quân lại Thuận Hoá.
Thái
hậu lại hỏi:
-
Nó tội gì mà con phải đích thân ra Thăng Long bắt nó về Quy Nhơn thọ tội?
Vua
đáp:
-
Con sai nó mang quân đánh Thuận Hoá, nó cãi lệnh con đánh tới Bắc Hà.
Bây
giờ Thái hậu mới lên tiếng rằng:
-
Thuận Hoá và Bắc Hà đều của quân Trịnh, nó đánh giặc chưa báo cho mày, mày liền
bắt tội. Vậy mà toan giết em mày mà không báo cho ta thì là tội gì?
Vua
Thái Đức cả sợ cúi mặt làm thinh. Thái hậu vừa khóc vừa nói tiếp rằng:
-
Thằng Huệ tài cao quyết đoán nhưng tính tình cương trực thẳng thắn, lúc nào
cũng một lòng hiếu đễ, bởi tại con đem lòng ngờ vực nó, thân ra Thăng Long bắt
tội nên nó sợ mà chẳng dám theo về. Nếu nó có lòng phản Chúa phụ anh thì mấy
phen đem đại binh vào Gia Định nó lại không làm phản được sao? Từ ngày Tây Sơn
khởi nghĩa đến nay nhờ nó đánh Nam dẹp Bắc, xông pha nơi hòn tên mũi đạn đưa
mày lên ngôi vua, công sao mày không thưởng lại nhân lúc em mày đánh giặc chưa
kịp báo tin liền ra bắt tội. Ta hỏi mày nó có tội gì mà mày phải bắt?
Vua
Thái Đức thấy mẹ giận càng sợ lắm không dám mở lời. Thái hậu quát:
-
Ta nói mày có nghe không?
Vua
Thái Đức giật mình đáp:
-
Thưa mẹ, con xin vâng lời mẹ đây.
Thái
hậu bảo:
-
Hãy truyền lệnh cho tướng sĩ lập tức bãi binh. Mày mau viết chiếu phong thằng
Huệ làm Bắc Bình Vương trấn thủ Phú Xuân, Thuận Hoá. Phong thằng Lữ làm Đông Định
Vương trấn thủ Gia Định, Sài Côn. Mỗi đứa cai trị một nơi khỏi động chạm sinh
ra xích mích. Nếu con coi ta là mẹ thì chớ cãi lời. Anh em bất hoà đều do tính
đố kỵ của mày mà ra cả. Xong việc rồi đến báo cho ta hay.
Nói
rồi Thái hậu quày quả trở về hậu cung. Thái hậu đi rồi vua Thái Đức nói với thái
giám Vũ Tâm Can rằng:
-
Thường ngày Phụ mẫu ta không mang đến việc quốc gia. Sao nay lại biết phong
Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương trấn thủ Phú Xuân, Thuận Hoá, phong Nguyễn Lữ làm
Đông Định Vương trấn thủ Gia Định, Sài Côn? Việc này ắt là có kẻ bày kế cho
đây.
Vũ
Tâm Can tâu:
-
Thường ngày quan Ngự sử Nguyễn Thung thường hay bênh vực cho Long Nhương tướng
quân. Việc này có lẽ do quan Ngự Sử bày ra cho Thái hậu chăng.
Vua
Thái Đức bảo:
-
Ngày trước Nguyễn Thung và cha ngươi là anh em kết nghĩa cùng theo ta tụ nghĩa
Tây Sơn. Và ngươi hãy lấy tình bác cháu gần gũi Nguyễn Thung dò xét hắn xem
sao.
Vũ
Tâm Can vâng lệnh lui ra.
***
Mùa
đông năm Bính Ngọ (1786) niên hiệu Thái Đức thứ chín, vua Thái Đức phong Nguyễn
Huệ làm Bắc Bình Vương cai quản từ ải Hải Vân trở ra Bắc, phong Nguyễn Lữ làm
Đông Định Vương cai quản từ ải Vân Phong (Đèo Cả) trở vào Nam. Vua Thái Đức tự
xưng là Trung ương Hoàng đế cai quản bốn phủ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quy Nhơn và
Phú Yên. Ba anh em nhà Tây Sơn từ ấy thoả thuận nhau chia ba lãnh thổ trị vì.
Nhắc
lại ở Bắc Hà, khi quân Tây Sơn rút về Nam rồi vua Lê Chiêu Thống xuống hịch cần
vương gọi quân các trấn về bảo vệ kinh thành. Lúc bây giờ ở Kinh Bắc có quan Bồi
tụng tên là Dương Trọng Tế nhận được hịch của vua, Tế bên lập vương thân là Trịnh
Lệ lên làm Chúa rồi kéo quân về thành Thăng Long. Quân của Trịnh Lệ và Dương Trọng
Tế vừa đến nơi liền truyền hịch phò vua và xuống lệnh chiêu an bá tánh. Đồng thời
Tế lại bố cáo cùng thiên hạ lập ngôi chúa Trịnh phù trợ nhà Lê định yên xã tắc.
Vua
Lê Chiêu Thống biết việc ấy liền bàn cùng các cận thần rằng:
-
Nguyễn Huệ dù vì lợi mượn tiếng tôn phò kéo đến đây nhưng cũng nhờ đó mà lật đổ
được họ Trịnh đã hiếp đáp ta suốt hai trăm năm này. Điều may chưa kịp mừng thì
thằng nghịch thần Dương Trọng Tế mượn tiếng phò vua hòng dựng lại ngôi chúa định
áp bức ta nữa sao. Ta nay vừa mới lên ngôi, nước nhà loạn lạc, thực quyền không
có vậy phải làm thế nào?
Trần
Công Xán bàn rằng:
-
Lúc trước họ Trịnh áp chế các Tiên đế vì họ Trịnh nắm hết quyền hành trong nước.
Nay họ Trịnh đã đổ, Dương Trọng Tế muốn dựng lại ngôi chúa cho Trịnh Lệ ắt còn
phải dò xét xem ý quân các trấn thế nào, vì còn cần Bệ hạ làm bức bình phong
cho Trịnh Lệ. Nay Bệ hạ cứ cương quyết hạ chiếu chỉ quở trách Trịnh Lệ không
cho lập lại ngôi chúa chắc Trịnh Lệ nhất thời không dám cãi lệnh. Xem thử ý Trịnh
Lệ như thế nào rồi sẽ liệu sau.
Vua
Chiêu Thống khen phải, nói:
-
Phen này ta lên kế vị phải cương quyết lấy là oai quyền thiên tử, điều hành vận
mệnh nước nhà. Nếu về sau trẫm lấy lại được đế quyền thì bọn nghịch thần như Trịnh
Lệ và Dương Trọng Tế phải giết hết không tha!
Nói
xong vua liền viết chiếu chỉ sai sứ giả để sang phủ chúa Trịnh. Dương Trọng Tế
và Trịnh Lệ quỳ nghe chiếu, sứ giả đọc chiếu xong, Dương Trọng Tế đứng phắt dậy
giật tờ chiếu trên tay sứ giả. Tế xe tờ chiếu làm mấy mảnh quăng ngay trước mặt
sứ giả rồi nói lớn:
-
Mấy trăm năm nay nhà vua nhờ Chúa lo việc quốc gia nên mới ngồi không mà hưởng
lộc. Quân Tây Sơn vừa đến giết hai chúa, nước không có chúa liền sinh ra loạn lạc.
Ta lập lại ngôi chúa cho yên xã tắc vì sao vừa lại quở trách. Nhà vua mới lên
ngôi còn nhỏ nên nghe lời xàm tấu của bọn văn nho. Ngươi hãy về thưa cùng Bệ
hạ, ta sẽ đến điều tra cho rõ kẻ nào bày điều quấy cho vua liền đem ra chém tức
thì.
Sứ
giả thấy Dương Trọng Tế nổi giận liền vội và lui ra. Dương Trọng Tế quay lưng
toan bước đi, Trịnh Lệ hỏi:
-
Tướng quân định đi đâu?
Tế
đáp:
-
Tôi sang điện vua hỏi cho rõ việc này.
Tế
vừa dứt lời xảy quân hớt hải vào báo:
-
Thưa tướng quân. Có biến, có biến!
Dương
Trọng Tế giật mình hỏi:
-
Biến thế nào?
Quân
đáp:
-
Thạc quận công Hoàng Phụng Cơ và Liễn trung hầu Đinh Tích Nhưỡng phò Côn quận
công Trịnh Bồng làm Chúa đem quân từ Sơn Tây về kinh, hiện đến cách cửa Tây
thành hai mươi dặm.
Trịnh
Lệ kinh hãi nói:
-
Đinh Tích Nhưỡng trước làm trấn thủ Nam Sơn giỏi thuỷ chiến, Hoàng Phụng Cơ là
cháu Hoàng Ngũ Phúc cũng là tướng tài cả. Nay hai người này theo phò Trịnh Bồng
tranh ngôi chúa với ta, e rằng ta không địch nổi, vậy ta phải làm sao.
Dương
Trọng Tế đáp:
-
Xin Chúa thượng chớ lo, thần xin đem quân chặn đánh chúng ở ngoài thành.
Nói
rồi liền kéo quân đi. Quân Dương Trọng Tế ra khỏi thành liền gặp Trịnh Bồng,
Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng Phụng Cơ vừa dẫn quân tới. Hai bên xáp chiến. Dương Trọng
Tế ít quân lại ô hợp, địch không nổi bị quân Trịnh Bồng giết chết rất nhiều.
Dương
Trọng Tế bèn dẫn quân chạy vào thành, Trịnh Bồng xua quân đuổi theo. Quân Dương
Trọng Tế tan vỡ cả. Trọng Tế chỉ kịp ghé qua phủ Trịnh gọi Trịnh Lệ, cả hai chỉ
còn lại trăm quân hầu cận chạy ra cửa Bắc thành trốn về Kinh Bắc (nay là Bắc
Ninh).
Trịnh
Bồng vào thành rồi, lại sai người xé bỏ cáo thị của Trịnh Lệ, dán hịch truyền
chiêu an bá tánh phò vực vua Lê, rồi cùng Hoàng Phụng Cơ và Đinh Tích Nhưỡng
sang cung vua yết kiến vua Chiêu Thống. Thi lễ xong Hoàng Phụng Cơ tâu với vua
rằng:
-
Quân Tây Sơn kéo quân đến đây mượn tiếng phò vua giết chúa, rồi lại lấy hết kho
tàng lương thực kéo quân về để nước ta loạn lạc. Vậy xin Bệ hạ hãy phong Côn quận
công tước vương, lập lại ngôi chúa cho an lòng muôn dân, mới mong lập lại kỷ
cương cho xã tắc.
Vua
Chiêu Thống gạt đi bảo:
- Nếu
các khanh một lòng phò vua giúp nước không vì lợi ích thì việc gì phải đòi
phong vương. Hay cũng muốn lập lại ngôi chúa dựng riêng triều đình nắm quyền
hành để áp chế ta.
Hoàng
Phụng Cơ đáp:
-
Oai đức của nhà vua là để an lòng trăm họ, quyền hành nhà chúa là để hiệu triệu
trăm quân. Xưa nay vẫn thế, nếu Bệ hạ muốn yên xã tắc thì không thể làm khác được.
Vua
Chiêu Thống cương quyết nói:
-
Nếu vậy ngươi hãy tự phong vương cho mình cần gì phải xin mệnh của ta.
Nói
rồi vua liền đứng lên quày quả vào hậu cung bỏ mặc bọn Trịnh Bồng, Hoàng Phụng
Cơ và Đinh Tích Nhưỡng. Trịnh Bồng về phủ chúa hỏi Hoàng Phụng Cơ và Đinh Tích
Nhưỡng:
-
Nay vừa không chịu phong vương và lập lại ngôi Chúa cho ta, vậy phải làm thế
nào?
Đinh
Tích Nhưỡng đáp liều rằng:
-
Ta cho quân sang vây điện vua nói dối rằng bảo vệ Hoàng cung, không cho vua và
Hoàng tộc ra ngoài đề phòng vua trốn ra khỏi thành xuống hịch cần vương chống lại
ta. Rồi thần xin vào điện vua bức vua phải hạ chỉ phong vương. Có mệnh vua,
Chúa thượng mới hiệu triệu được quân các trấn.
Trịnh
Bồng bảo:
-
Nếu muốn lập lại nhà chúa ta chỉ còn có cách đó mà thôi.
Nói
rồi liền theo kế của Đinh Tích Nhưỡng mà làm.
***
Nhắc
lại vua Lê Chiêu Thống lui vào hậu cung, Trần Công Xán hỏi vua rằng:
-
Hoàng Phụng Cơ và Đinh Tích Nhưỡng đều là bọn võ tướng ngu phu. Nay Bệ hạ căng
thẳng quá e vũ phu ấy tham quyền làm liều thì sao?
Vua
Chiêu Thống hỏi lại:
-
Theo ý khanh thì phải thế nào. Không lẽ ta lập lại ngôi chúa cho bọn chúng hiếp
đáp ta ư?
Trần
Công Xán hiến kế:
-
Theo thần nếu bọn Trịnh Bồng dùng uy vũ ép vua, Bệ hạ hãy vờ nghe theo lời hắn
phong vương lập lại ngôi Chúa. Rồi Bệ hạ nên mật chiếu với một người mang quân
về cứu giá diệt Trịnh Bồng.
Vua
vội vàng hỏi:
-
Người ấy là ai?
Xán
đáp:
-
Người ấy là Nguyễn Hữu Chỉnh hiện đang theo lệnh vua Thái Đức nhà Tây Sơn trấn
thủ Nghệ An.
Vua
Chiêu Thống hỏi:
-
Nguyễn Hữu Chỉnh đã phản ta theo vua Tây Sơn thì làm gì nghe chiếu chỉ của ta
mang quân về cứu giá.
Xán
đáp:
-
Năm xưa kiêu binh giết Huy quận công Hoàng Đình Bảo phế vương tử Cán lập vương
tử Khải lên làm Chúa, Nguyễn Hữu Chỉnh là tay chân của Hoàng Đình Bảo nên sợ tội
mà trốn theo vua Tây Sơn, thật lòng không muốn phản. Mới đây Chỉnh xui Nguyễn
Huệ mượn tiếng tôn phò đem quân đến đây, ý muốn mượn tay Tây Sơn diệt Trịnh. Diệt
được Trịnh rồi Chỉnh lại xin Tiên đế gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ và nhờ
Tiên đế xin cho Chỉnh mượn quân ở lại Bắc Hà giúp vua. Không ngờ vua Thái Đức
nhà Tây Sơn bất ngờ ra Bắc buộc Nguyễn Huệ phải kéo quân về, bỏ Hữu Chỉnh ở Bắc
Hà không quân không tướng, làm đảo lộn mọi kế hoạch của Chỉnh và khiến cho Chỉnh
suýt chết dưới tay dân chúng ở Thăng Long. Hữu Chỉnh lần thứ hai bất đắc dĩ phải
theo vua Tây Sơn nhưng trong lòng rất oán. Nay Bệ hạ mật chiếu đến vời, Nguyễn
Hữu Chỉnh nhất định nhân dịp này sẽ bỏ Tây Sơn đem quân về cứu giá.
Trần
Công Xán vừa dứt lời, nghe quân vào báo:
-
Tâu Bệ hạ, Đinh Tích Nhưỡng đem quân vây kín Hoàng cung chẳng rõ là có ý gì?
Trần
Công Xán trấn an vua:
-
Xin Bệ hạ bình tâm, Đinh Tích Nhưỡng chỉ mong Bệ hạ phong vương cho Trịnh Bồng mà
thôi. Xin Bệ hạ cứ theo lời thần dặn mà làm!
Quả
nhiên, Đinh Tích Nhưỡng vào đến, không lạy mà vịn tay vào đốc kiếm hỏi vua
Chiêu Thống rằng:
-
Việc Côn quận công xin phong vương, Bệ hạ định thế nào?
Vua
Chiêu Thống vờ hoảng sợ nói:
-
Quả nhân ngay bây giờ xuống chiếu phong vương.
Nói
xong liền đem nghiên bút viết chiếu phong Trịnh Bồng làm Yến Đô Vương giữ chức
nguyên soái, rồi trao cho Đinh Tích Nhưỡng. Nhưỡng cầm tờ chiếu trên tay cười lớn
nói:
-
Phải như thế! Chứ lẽ đâu có cái gương của Thái tử thời Tiên đế, Bệ hạ lại chẳng
thấy hay sao (ý Đinh Tích Nhưỡng muốn nói việc Thái tử Vỹ là cha vua Lê Chiêu
Thống bị Trịnh Sâm giết chết).
Nói
xong Nhưỡng bỏ ra ngoài. Vua Lê Chiêu Thống nghe những lời của Nhưỡng, uất ức
mà thổ huyết. Quân hầu đỡ vua dậy. Vua gạt đi bảo:
-
Hay mang một tấm lụa đến cho ta.
Quân
mang lụa đến. Vua Chiêu Thống ngồi xuống nền điện cho huyết thổ ra, lấy tay chấm
vào huyết ấy mà viết mật chỉ. Viết xong vua bảo:
-
Hãy lập tức sai người tâm phúc lén vào Nghệ An trao mật chiếu này cho Nguyễn Hữu
Chỉnh.
***
Nói
về Nguyễn Hữu Chỉnh lúc ấy đang cùng Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức trấn thủ
Nghệ An. Nhận được mật chỉ của vua Lê Chiêu Thống, Chỉnh bảo sứ giả rằng:
-
Ngài quay về trước tâu vua hãy hạ mình giữ gìn long thể. Tôi điểm binh rồi lập
tức về kinh cứu giá.
Sứ
giả vâng mệnh đi ngay. Nguyễn Viết Tuyển nói với Nguyễn Hữu Chỉnh rằng:
-
Có mật chiếu của vua là ta có thể khiến được thiên hạ ở Bắc Hà. Vậy tướng quân
mau đem binh về kinh.
Nguyễn
Hữu Chỉnh bảo:
-
Ta trấn thủ Nghệ An cùng Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức tất trên danh nghĩa vẫn
là tôi nhà Tây Sơn. Nay nếu đem quân ra Bắc cũng phải xin lệnh của Bắc Bình
Vương mới được.
Nguyễn
Viết Tuyển hỏi:
-
Ta đã muốn bỏ Tây Sơn thì cần gì phải xin mệnh Bắc Bình Vương.
Chỉnh
đáp:
-
Người cơ trí phải biết đường tiến thoái. Nếu ta tự tiện đem quân ra Thăng Long
mà không xin lệnh Bắc Bình Vương, ngộ nhỡ không thắng còn quay lại được sao.
Tuyển
lại hỏi:
-
Nếu ta xin lệnh trước mà Bắc Bình Vương không cho đi thì làm thế nào?
Chỉnh
đáp:
-
Bắc Bình Vương có hai lẽ phải một dạ phù Lê. Nay nghe vua Lê hạ chiếu cần vương
tất phải cho ta ra Bắc.
Tuyển
hỏi:
-
Vì hai lẽ gì mà Bắc Bình Vương phải một dạ phù Lê?
Chỉnh
đáp:
-
Lẽ thứ nhất Bắc Bình Vương là rể của họ Lê, nay nghe bên vợ kêu cứu lẽ nào mà
không giúp. Lẽ thứ hai là Bắc Bình Vương lần trước ra Bắc mượn tiếng phò Lê diệt
Trịnh, nào ngờ vua Thái Đức ra bắt về khiến Nguyễn Huệ thất tín với thiên hạ, bẽ
mặt với Ngọc Hân công chúa. Nay được dịp để chứng tỏ lòng thành, lấy lại uy tín
thì làm gì không một một lần nữa truyền hịch phò Lê diệt Trịnh.
Viết
Tuyển lại hỏi:
-
Nhưng tôi vẫn e rằng Nguyễn Huệ không cho tướng quân cầm binh ra Bắc.
Chỉnh
hỏi:
-
Vì sao?
Tuyển
đáp:
-
Vì Nguyễn Huệ rất rõ chí của tướng quân.
Chỉnh
cười đáp:
-
Nguyễn Huệ biết rõ chí ta. Nhưng ta cũng biết rõ Nguyễn Huệ tất phải để ta đi
không thể khác được, thế mới lạ kỳ.
Nói
rồi liền viết mật thư sai người tâm phúc lập tức mang vào Phú Xuân trình Bắc
Bình Vương Nguyễn Huệ.
Nguyễn
Huệ ở thành Phú Xuân nhận được thư Nguyễn Hữu Chỉnh liền hỏi Trần Văn Kỷ rằng:
-
Ta nay đã được trọn quyền lo mọi việc từ đèo Hải Vân ra Bắc, không phải chịu mệnh
của Hoàng huynh. Quả như ta dự đoán khi theo Hoàng huynh rút khỏi Thăng Long là
Bắc Hà sinh loạn. Nay Trịnh Bồng lấy lại ngai Chúa bức bách ấu Vua. Vua Chiêu
Thống mới lấy máu viết mật chỉ vời Nguyễn Hữu Chỉnh về kinh cứu giá. Nguyễn Hữu
Chỉnh lại viết thư vào xin lệnh của ta, vậy theo ý Trung Thư ta phải thế nào?
Trần
Văn Kỷ đáp:
-
Theo ý tôi Chúa công chớ nên cho Hữu Chỉnh cầm quân ra Bắc.
Huệ
hỏi:
-
Vì sao?
Kỷ
đáp:
-
Chí Hữu Chỉnh là muốn làm bá vương nơi đất Bắc, dùng sông Linh Giang chia cắt
trời Năm. Nếu để Hữu Chỉnh ra Bắc phen này ắt hắn dựa vào tiếng phò Lê trước
sau gì mà chẳng phản ta. Chi bằng ta sai tướng khác cầm quân ra Bắc vậy.
Nguyễn
Huệ nói:
-
Việc này không được.
Trần
Văn Kỷ hỏi:
-
Xin hỏi Chúa công vì sao lại không được?
Huệ
đáp:
-
Trên danh nghĩa đối với thiên hạ, Tây Sơn ta và Bắc Hà là hai nước hai vua. Vua
Lê chỉ mật chiếu vời Hữu Chỉnh về cứu giá. Nay nếu ta giữ Hữu Chỉnh lại Nghệ
An, sai tướng khác truyền hịch tôn phò đem quân ra Bắc, e rằng vua Lê sẽ hoảng
sợ mà trốn khỏi kinh thành hạ chiếu cần vương mộ quân đánh lại Tây Sơn ta thì
ta trở thành kẻ xảo ngôn vậy.
Trần
Văn Kỷ lại hỏi:
-
Dám hỏi Chúa công vì sao sai tướng khác ra phò Lê, giữ Hữu Chỉnh ở lại Nghệ An
thì vua Lê phải hoảng sợ mà trốn khỏi kinh thành.
Huệ
đáp vẻ nuối tiếc:
-
Lần trước Hoàng huynh ra Bắc triệu ta về Quy Nhơn thọ tội, khiến Tây Sơn ta phải
thất tín với vua Lê và thiên hạ Đàng Ngoài. Vua Lê bây giờ tất sinh lòng ngờ vực,
lại thấy ta giữ Hữu Chỉnh ở Nghệ An sai tướng khác cầm quân Bắc tiến, dù có
truyền hịch phò Lê thì vua Lê ắt sẽ nghĩ ta thừa dịp mà đem quân cướp nước lại
chẳng trốn khỏi Hoàng cung ư? Vì lẽ ấy nên trước kia ta để Chỉnh trấn thủ Nghệ
An tất vua Lê sẽ gọi về cứu giá. Bởi chỉ mình Chỉnh mới đủ chính nghĩa phò Lê
sau khi Tây Sơn ta thất tín ở Bắc Hà mà thôi.
Trần
Văn Kỷ nói:
-
Lời Chúa công rất phải. Vậy ta bất đắc dĩ phải để Hữu Chỉnh đem quân ra Bắc. Nếu
về sau hắn ra mặt chống lại ta thì sao.
Huệ
cười đáp:
-
Nguyễn Hữu Chỉnh có tài làm tướng mà lập chí bá vương, sớm muộn gì cũng sinh ra
biến loạn ở Bắc Hà. Khi ấy ta sẽ danh chánh ngôn thuận thống nhất sơn hà.
Nói
rồi Nguyễn Huệ liền viết thư thuận ý cho Nguyễn Hữu Chỉnh cầm quân Bắc tiến,
sai người ra Nghệ An trao cho Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Hữu Chỉnh nhận được thư
của Nguyễn Huệ bèn cười to bảo Nguyễn Viết Tuyển rằng:
-
Nguyễn Huệ đã thuận ý cho ta ra Bắc Hà diệt Trịnh phò Lê. Ngươi thấy ta liệu việc
thế nào, ở sánh cùng Nguyễn Huệ được chưa?
Nguyễn
Viết Tuyển đáp:
-
Tướng quân liệu việc như thần. Thực tài nào có kém gì Nguyễn Huệ.
Hữu
Chỉnh nghe Tuyển khen thích thú lắm cười nói:
-
Ta ra Bắc phen này ắt cái chí dùng sông Linh Giang chia đôi thiên hạ với nhà
Tây Sơn đã thành rồi vậy.
Nói
xong bèn họp các tướng bàn việc quân. Chỉnh nói với Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh
Đức rằng:
-
Nay Bắc Bình Vương sai tôi ra Bắc diệt Trịnh phò Lê. Tôi đi chuyến này nếu diệt
được Trịnh Bồng ắt vua Lê Chiêu Thống không cho tôi về. Xin chia tay trước với
hai ông vậy.
Nguyễn
Duy thất kinh nói:
-
Tôi trước bỏ Nguyễn theo Trịnh, sau bỏ Trịnh theo Tây Sơn đều làm theo ý của sư
đệ cả. Nay sư đệ ra Bắc không về, Bắc Bình Vương tất nghĩ tôi với sư đệ thông đồng
với nhau, ông ấy lại dùng tôi sao. Nếu sư đệ ra Bắc không về là đã hại tôi rồi
vậy.
Nguyễn
Huỳnh Đức hiểu bụng của Nguyễn Hữu Chỉnh và Nguyễn Duy liền xen vào nói:
-
Theo tôi, nếu hai ông liên kết lại làm thế môi răng thì không ai có thể hại được
hai ông!
Nguyễn
Duy hỏi:
-
Ông nói vậy là ý thế nào?
Huỳnh
Đức đáp:
-
Nay ông Chỉnh mang quân ra Bắc là vâng mệnh của Bắc Bình Vương. Nếu thua binh
thì chạy về và nương náu dưới quyền Bắc Bình Vương, nếu thắng thì tung hoành
nơi đất Bắc, ông Duy đâu phải lụy đến thân. Vậy tại sao ông Chỉnh không dùng ông
Duy lấy lại đất Nghệ dùng sông Linh Giang làm ranh giới đối chọi Bắc Bình
Vương, ấy không phải là thượng sách ư?
Nghe
Huỳnh Đức nói xong, Nguyễn Hữu Chỉnh tuốt gươm khỏi vỏ quát lên rằng:
-
Quân bay mau bắt Nguyễn Huỳnh Đức lại, ta giải về cho Bắc Bình Vương trị tội.
Võ
sĩ xông vào trói Huỳnh Đức. Đức cười lớn hỏi:
-
Tôi có tội gì mà ông bắt tôi cho Bắc Bình Vương trị tội.
Chỉnh
trợn mắt quát:
-
Lòng ngươi mưu phản Bắc Bình Vương lại còn chối nữa hay sao.
Đức
điềm nhiên đáp:
-
Ngày xưa tôi bị Bắc Bình Vương bắt sống ở miền đất Gia Định. Bắc Bình Vương
khuyên hàng đã có điều giao ước, ngày sau nghe Chúa Nguyễn Phúc Ánh ở đâu thì
đi hay ở là tuỳ ý sở cầu. Mới đây vua Thái Đức đem Bắc Bình Vương về Quy Nhơn
thọ tội, tôi bèn xin ông ấy cho ở lại Nghệ An với hai ông để tiện đường về với
chúa. Nay tôi bày kế cho hai ông cũng là vì chúa của tôi. Bắc Bình Vương là người
quang minh chính đại, lý gì mà bắt tội tôi được.
Nguyễn
Hữu Chỉnh hỏi:
-
Ông vừa nói bày kế cho hai ta là vì chúa của ông. Vậy nếu đại sự mà thành thì
chúa ông có lợi gì.
Nguyễn
Huỳnh Đức đáp:
-
Sau khi thua trận ở Trường Đồn, Rạch Gầm, Chúa tôi đã sang ẩn náu ở Xiêm La Quốc
mưu việc khôi phục cơ đồ nhà Nguyễn ở Đàng Trong. Nay anh em Nhạc, Huệ, Lữ đã
chia ba lãnh thổ ra mà cai trị. Lãnh thổ của Nguyễn Huệ chỉ vỏn vẹn có vùng Phú
Xuân, Thuận Hoá đất hẹp dân nghèo. Nếu ông là Chúa ở Bắc Hà đất rộng dân đông
thì Bắc Bình Vương ở Thuận Hoá không phải là đối thủ của ông. Khi ấy ông cho
tôi mượn quân đánh đổ Tây Sơn ở Đàng Trong dựng lại cơ nghiệp cho Chúa tôi.
Khi diệt được Tây Sơn rồi ta lại dùng Linh Giang làm ranh giới, ông Đàng Ngoài,
Chúa tôi Đàng Trong đời đời giao hiếu thế chẳng tốt hay sao?
Nguyễn
Hữu Chỉnh mừng rỡ cởi trói cho Nguyễn Huỳnh Đức rồi nói:
-
Từ xưa đến nay chỉ có mình ông nói ra điều mưu phản là không sợ tội mà thôi.
Tôi vẫn biết ông có thế đặc biệt thế, nên mới giả vờ như vậy để ông nói ra hầu
rõ lòng nhau mà thôi. Ngày sau nếu được như vậy thì Nguyễn Duy sư huynh muốn lấy
tình sư đệ mà theo tôi học lấy nghĩa chúa cũ, theo chúa Nguyễn là tuỳ ý sở cầu
như Huỳnh Đức đã giao ước với Nguyễn Huệ vậy.
Nguyễn
Hữu Chỉnh nói xong, ba tướng cùng bắt tay nhau thích thú cười vang. Bàn bạc
xong Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức ở lại trấn thủ Nghệ An, còn Nguyễn Hữu Chỉnh
đem năm ngàn quân truyền hịch diệt Trịnh phò Lê lên đường ra Bắc.
xem tiếp: * Chương 41: Mộng Bá Vương, Bằng Trung Công mượn tiếng phò vua. - Vì đại nghĩa, Bắc Bình Vương cất quân đánh anh.
xem tiếp: * Chương 41: Mộng Bá Vương, Bằng Trung Công mượn tiếng phò vua. - Vì đại nghĩa, Bắc Bình Vương cất quân đánh anh.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...