Chương
17: Thương vua Lê, Vũ Trần Thiệu bỏ mình gián chúa. - Lo xã tắc, Lê Quý Đôn cầu
thuốc danh y.
Nói
về quân Trịnh sau khi Tây Sơn bỏ đất Quảng Nam lui về giữ Quảng Ngãi, Hoàng Ngũ
Phúc đem quân vào thành Quảng Nam bỏ trống truyền ba quân mở tiệc khao thưởng
tướng sĩ. Rượu ngà ngà say, Phúc đắc ý nói:
-
Ta vâng chiếu chỉ đem quân đánh một trận là thu phục được đất Thuận Hóa, chiếm
lấy Phú Xuân, đuổi chúa Nguyễn chạy vào Gia Định. Rồi đối đầu với giặc Tây Sơn,
giặc chưa đánh đã bỏ Quảng Nam mà chạy. Oai danh vang dội khắp thiên hạ. Thật từ
trước đến nay trong đời làm tướng của ta chưa bao giờ thỏa nguyện như bây giờ.
Nay đang là mùa hè nóng bức, gió Nam khô róc, quân ta là người phương Bắc,
không quen phong thổ. Ta có nghe tướng Nguyễn là Tống Phước Hiệp từ Gia Định
kéo ra chiếm lại đất Phú Yên, đuổi Tây Sơn chạy về Quy Nhơn. Vậy đang khi trái
gió trở trời ta án binh bất động dưỡng uy sức nhuệ chờ quân Nguyễn và Tây Sơn
đánh nhau, một bên chết, một bên tất bị thương, khi ấy ta chỉ ra một trận oai
hùm thì một dải đất Nam Hà kia không thuộc về chúa ta hỏi còn ai vào đây nữa?
Hoàng
Phùng Cơ, Hoàng Đình Bảo, Hoàng Đình Thể, Nguyễn Hữu Chỉnh cùng nâng ly khen:
-
Thượng tướng công thật liệu việc như thần.
Cuộc
vui chưa tàn bỗng có quân vào báo:
-
Thưa thượng tướng công, quân ta bỗng nhiên sinh chứng đau bụng tả lỵ rất nhiều.
Xin vào bẩm báo.
Phúc
bảo:
- Ấy
chẳng qua là do rượu thịt no nê nên tích nhiệt tại nơi trường vị sinh bệnh tả lỵ
mà thôi. Truyền quân từ nay về sau không được uống rượu.
Nói
xong bảo quân hầu dẹp ngay bàn tiệc của mình để làm gương, rồi thân ra các trại
xem xét bịnh trạng quân sĩ.
Mấy
hôm sau số binh sĩ bị bệnh càng tăng, Hoàng Ngũ Phúc lấy làm lo lắng, cho mời
các tướng vào thương nghị. Bỗng có quân canh vào báo:
-
Thượng tướng công, có sứ giả của quân Tây Sơn xin vào yết kiến.
Phúc
cho mời vào. Đến nơi, Nguyễn Thung thi lễ nói:
-
Thưa tướng quân, tôi là sứ giả của Tây Sơn. Xin ra mắt tướng quân.
Không
thèm ngó mặt Nguyễn Thung, Phúc ngoảnh nơi khác bảo:
-
Hai bên đang đánh nhau, quân Tây Sơn các ngươi bỏ Quảng Nam mà chạy. Nay Nguyễn
Nhạc sai ngươi đến đây để cầu hòa chăng?
Thung
nhìn thẳng mặt Phúc đáp lớn:
-
Hai đàng binh hùng, tướng mạnh như nhau, muốn tránh cho sanh linh khỏi nạn binh
đao mới giảng hòa với nhau. Còn Tây Sơn tôi là những người dân nghèo khổ bởi
chúa Nguyễn áp bức mới nổi dậy đấu tranh, đâu dám tự cho mình bằng quý quốc mà
nói chuyện giảng hòa!
Phúc
quay lại hỏi:
-
Vậy Nguyễn Nhạc sai ngươi đến đây để làm gì?
Thung
đáp:
-
Chủ tướng tôi vốn biết uy danh của tướng quân. Vả lại nghĩ phận mình là con dân
trong nước do vua Lê Thái Tổ khởi binh sáng lập. Thêm trong lòng mến phục Tĩnh
Đô Vương nên dám đâu chống lại binh trời. Nay chủ tướng tôi sai tôi đến đây có
ít lễ vật dâng lên tướng quân gọi là chút lòng thành, nhờ tướng quân tâu cùng
chúa Tĩnh Đô Vương xin cho chủ tướng tôi được làm tiên phong đánh Nguyễn. Về
sau diệt được nhà Nguyễn non sông đều quy về một mối thì công lớn này không phải
của tướng quân sao? Và chủ tướng tôi khi ấy được làm một chức quan nhỏ thì ơn của
tướng quân tạc dạ ghi lòng dù chết cũng để bụng mang theo.
Nói
rồi gọi người mang lễ vật vào. Ngà voi năm cặp, vàng bạc trăm cân, lụa gấm
nghìn thước. Hoàng Ngũ Phúc thấy lễ vật rất nhiều, lại thêm Nguyễn Thung nói lời
khiêm tốn dễ nghe, luôn miệng tán dương công đức danh uy của mình, trong lòng rất
đẹp. Phúc vui vẻ bảo:
-
Được! Ngươi cứ về tâu lại Nguyễn Nhạc, ta sẽ hết lòng dâng sớ xin phong. Nếu
chúa Tĩnh Đô Vương thuận ý, ta sẽ sai người đem ấn kiếm vào cho Nguyễn Nhạc
lãnh chức tiên phong.
Nguyễn
Thung mừng rỡ bái tạ ra về. Nguyễn Hữu Chỉnh bước ra thưa:
-
Nguyễn Nhạc tuy là kẻ cùng đinh nổi dậy, nhưng xét việc hắn làm, lúc yếu thế
thì mượn tiếng tôn phò Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương. Nay trong thì Tống Phước Hiệp
đánh ra, ngoài thì quân ta đánh vào nên mới giảng hòa với ta, để rảnh tay đối
phó với Tống Phước Hiệp. Người như thế không phải là kẻ tầm thường, xin thượng
tướng công hãy khá đề phòng.
Phúc
cười nói:
-
Điều này ta há chẳng biết sao? Ta cứ tương kế tựu kế chờ cho ngao cò tranh
nhau, ta làm ngư ông thủ lợi, đợi thời cơ bắt hết cả hai nào có nhọc sức gì?
Nói
rồi liền lấy giấy bút viết thư sai người hỏa tốc mang về Thăng Long thỉnh ý
chúa Trịnh Sâm.
ooOoo
Lúc
ấy ở kinh thành Thăng Long, Trịnh Sâm ngày đêm mê đắm phi tần Đặng Thị Huệ. Thị
Huệ sắc đẹp nghiêng thành, tiếng nói thánh thót như tiếng chim hót.
Hôn
ấy, trong vườn thượng uyển trên lầu ngũ giác, Trịnh Sâm cùng Đặng Thị Huệ đờn
ca xướng họa, chén tạc chén thù. Sâm vòng tay ôm Thị Huệ vào lòng, bỗng Thị Huệ
lấy từ trong ngực của Sâm ra một viên ngọc. Thị Huệ nũng nịu hỏi:
-
Thưa Chúa thượng đây là ngọc gì vậy?
Sâm
vội đỡ lấy tay Thị Huệ đáp:
- Ấy!
Đây là viên ngọc Minh Châu ban đêm thường phát ra ánh sáng, ta yêu quý vô cùng
lúc nào cũng mang theo trong người. Nàng hãy cầm nhè nhẹ tay.
Thị
Huệ rất lấy làm thích, cầm viên ngọc ngắm nghía mãi. Sâm nhắc:
-
Nàng hãy nhè nhẹ tay kẻo xước viên ngọc quý của quả nhân.
Thị
Huệ vùng quăng ngọc xuống sàn dậm chân khóc rằng:
-
Chúa thượng nói yêu thiếp hơn tất cả mọi thứ trên đời. Vậy mà thiếp vừa cầm
viên ngọc mới có một tý đã sợ hư ngọc. Hóa ra là chúa quý vật hơn người, thôi
thì để thiếp chết đi cho rồi.
Nói
xong chạy ra thành lầu toan lao đầu xuống đất. Trịnh Sâm chạy theo níu lại năn
nỉ:
-
Nàng làm gì mà mau hờn dỗi thế! Chẳng qua ta muốn giữ ngọc cho đẹp để tặng nàng
ấy mà.
Nói
rồi liền cầm ngọc giao cho Thị Huệ. Thị đổi giận làm vui, kéo Trịnh Sâm vào giường
trong ân ái. Thừa lúc Trịnh Sâm đang vui Thị Huệ thủ thỉ:
-
Nước ta từ lúc nhà Lê Trung Hưng đến nay, tuy tiếng là họ Lê làm vua, nhưng vua
Lê thật là bất tài nhu nhược, việc gì cũng trông cậy vào nhà chúa. Nay ân đức của
chúa đã thấm nhuần khắp trong ngoài, sao chúa không lên ngôi Thiên tử cho xứng đáng với công đức của mình, tội gì cứ làm kẻ giữ chùa để cho thiên hạ đem lễ vật
vào dâng lên bàn Phật?
Sâm
cao hứng nói:
-
Lời nàng rất hợp ý ta, nếu sau này ta lên ngôi Thiên tử thì ngôi Chánh cung
hoàng hậu nhất định sẽ dành cho nàng đó!
Thị
Huệ mừng rỡ lạy tạ. Trịnh Sâm liền về dinh phủ gọi Phạm Ngô Cầu đến bảo:
-
Ngày trước ta bức tử Thái tử Lê Duy Vỹ không có ai dám làm. May nhờ có khanh một
lòng trung với ta nên mới đem thuốc độc vào ngục ép Thái tử uống. Nay ta có một
việc muốn nhờ khanh, chẳng hay khanh có vui lòng chăng?
Ngô
Cầu quỳ lạy nói:
-
Ngô Cầu này một lòng trung với chúa, việc giết Thái tử còn dám làm thay. Có điều
gì xin Chúa thượng cứ xuống lệnh, Ngô Cầu dù chết chẳng từ nan.
Trịnh
Sâm mừng rỡ vẫy Ngô Cầu đến gần bảo:
-
Ngày mai là đến hạn thiết triều, trước bá quan văn võ khanh hãy nói như vậy...
như vậy... nếu việc mà thành thì ngôi tể tướng là của khanh đó.
Cầu
mừng rỡ lạy tạ xin vâng.
Hôm
sau thiết triều nơi phủ chúa, Sâm hỏi bá quan văn võ:
-
Trong nước có việc gì quan trọng, các khanh cứ mạnh dạn tâu trình.
Các
quan đều thưa:
-
Muôn dân no ấm, bốn phương thiên hạ thái bình không có việc gì lạ cả!
Bỗng
Tạo Quận Công Phạm Ngô Cầu đứng lên nói:
-
Xin hỏi các quan, muôn dân no ấm, thiên hạ thái bình, bờ cõi lại mở mang về
phương Nam chiếm lấy đất Thuận Hóa, kinh thành Phú Xuân của họ Nguyễn, đuổi Định
Vương chạy vào Gia Định là nhờ công đức của ai?
Bá
quan bất ngờ nghe hỏi, lại thấy Trịnh Sâm lộ vẻ hài lòng, liền đồng thanh đáp:
- Ấy
chính là nhờ công đức của Chúa thượng!
Ngô
Cầu hăm hở nói tiếp:
-
Nay vua Lê ở ngôi ba mươi sáu năm, tuổi đã già, sức đã yếu, mà không có công đức
gì cho trăm họ. Mọi việc lớn nhỏ trong nước đều do nơi Chúa thượng của ta, vua
Lê chỉ ngồi không mà hưởng lộc, ở trên đời sao lại có việc bất công như thế.
Chi bằng chúng ta sẵn dịp đông đủ trăm quan kéo qua điện vua Lê, bảo nhà vua
thoái vị nhường ngôi Thiên tử cho chúa thì lẽ cương thường mới gom về một mối.
Chứ trong nước đã có vua lại còn có chúa, từ quan đến dân đều theo lệnh chúa
thì vua ngồi đó để làm gì? Trăm quan nghe thử lời tôi nói có đúng chăng?
Bây
giờ quan trong triều phần đông đều là tay chân của Trịnh Sâm nghe vậy đồng thanh
nói:
-
Lời Tạo Quận Công rất phải, chúng ta hãy qua điện vua bảo vua Lê thoái vị cho rồi!
Nói
xong đồng loạt đứng dậy toan đi. Bỗng có một người bước ra nói lớn:
-
Việc ấy không nên!
Mọi
người giật mình nhìn lại, hóa ra kẻ vừa nói là quan Thị lang Vũ Trần Thiệu. Ngô
Cầu nổi giận mắng Thiệu:
-
Ngươi chỉ là một chức quan nhỏ dám kháng lệnh chúa hay sao?
Vũ
Trần Thiệu bình thản đáp:
-
Chúa chưa xuống lệnh sao gọi là kháng lệnh? Vả lại người xưa có câu: “Quốc gia
hưng vong thất phu hữu trách”. Nay thấy họa diệt vong của chúa lẽ nào tôi nhắm
mắt làm ngơ.
Trịnh
Sâm giận lắm nhưng cố nén hỏi:
-
Ngươi nói thử xem họa diệt vong của ta là ở chỗ nào?
Thiệu
bình thản đáp:
-
Khải Chúa, tuy rằng truất ngôi vua Lê là điều trên thuận ý trời, dưới hợp lòng
dân. Nhưng từ xưa đến nay người nước Tàu bao giờ cũng lăm le chờ có cơ hội là
sang xâm chiếm nước Nam ta đặt làm quận huyện. Nếu Chúa thượng phế ngôi vua, ngộ
nhỡ vua Càn Long nhà Thanh mượn cớ ấy đem quân sang đánh, thì không phải là bá
quan đem cái họa diệt vong về cho chúa hay sao?
Sâm
đổi giận làm vui hỏi:
-
Lời khanh rất đúng! Vậy theo khanh thì phải thế nào?
Thiệu
hiến kế:
-
Theo ý thần thì ta nên viết một tờ cáo đại ý rằng: Muôn dân ở nước Nam đều mong
ngóng nhà chúa được lên ngôi Thiên tử trị vì trăm họ, hoàng tộc nhà Lê không
còn ai xứng đáng để làm vua nữa, rồi bá quan đồng ký tên vào tờ cáo ấy. Thần
tuy bất tài cũng xin cầm tờ cáo ấy đi sứ sang Tàu trình với vua Càn Long nhà
Thanh, xin được phong cho chúa làm An Nam quốc vương, khi ấy ta truất phế vua
Lê để Chúa thượng lên ngôi hoàng đế đã muộn màng gì?
Trịnh
Sâm nghe xong khen:
-
Ý của khanh thật là chu đáo. Nếu việc lớn mà thành thì công của khanh không nhỏ.
Nói
rồi liền sai Vũ Trần Thiệu viết tờ cáo, rồi bảo các quan đều ký tên vào. Xong
việc, Trịnh Sâm truyền bãi triều. Ra ngoài Phạm Ngô Cầu bảo Vũ Trần Thiệu:
-
Lúc nãy ta hiểu lầm ý ông nên buông lời không phải. Thật không ngờ ông trung với
chúa chẳng kém gì ta.
Thiệu
cười nói:
-
Ông không nghe người xưa nói rằng: “Gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức trung
thần” hay sao?
Nói
rồi liền quay lưng về nhà thu xếp chờ ngày đi sứ sang Tàu.
Vũ
Trần Thiệu và đoàn tùy tùng đi rồi, Trịnh Sâm ngày đêm trông ngóng tin vui, mơ
ngày lên ngôi Cửu Ngũ.
Ngày
kia Trịnh Sâm thiết triều, quân canh vào báo:
-
Khải Chúa, sứ đoàn đã trở về xin vào ra mắt.
Sâm
mừng khấp khởi bảo:
-
Mau mau cho vào!
Sứ
đoàn vào đến. Không thấy Vũ Trần Thiệu, Sâm hỏi:
-
Vũ Trần Thiệu đâu rồi?
Viên
phó sứ sợ hãi quỳ thưa:
-
Xin Chúa thượng tha tội!
Sâm
gắt:
-
Việc thế nào hãy nói mau?
Quan
phó sứ vẫn quỳ mọp đáp:
-
Khải Chúa! Lúc sứ đoàn đi đến Động Đình Hồ thuộc đất Lưỡng Quảng thì quan Chánh
sứ Vũ Trần Thiệu đem tờ cáo đốt đi rồi uống thuốc độc mà chết. Quan chánh sứ để
lại một bức thư phong kín cẩn thận, ngoài đề gửi cho Chúa thượng. Hạ thần không
biết làm thế nào đành phải quay về. Đây là thư của Vũ Trần Thiệu xin Chúa thượng
duyệt lãm.
Trịnh
Sâm nghe qua như sét đánh ngang mày tiếp thư đọc, thư đại ý rằng: Ngày trước
chúa giết chết Thái tử, nay lại toan làm điều soán nghịch. Trăm quan trong phủ
chúa đều là tay chân của chúa, biết bụng chúa mới hòng truất phế nhà vua. Nhưng
ngoài trăm họ đều nhớ ơn vua Lê Thái Tổ, Thái Tông. Nếu không như thế thì ngày
xưa sao Bình An Vương Trịnh Tùng có thể dứt được nhà Mạc mà lập nên nhà Lê
Trung Hưng? Nay chúa hòng giẫm lên bước chân của Mạc Đăng Dung ngày trước, trên
cãi ý trời, dưới nghịch lòng dân thần e rằng chúa phải mang tiếng bất nhân và
gây họa binh đao làm khổ cho bách gia trăm họ. Hôm ấy sống không thể mở miệng
can ngăn, nay thần lấy cái chết để viết lời khuyên giải. Tuy rằng chúa tiếng
không phải là vua, nhưng quyền thì đã nghiêng thiên hạ. Đừng quá tham danh
trong một lúc, mà để hại cho nước non dân tộc về sau. Dưới tuyền đài khuyên
chúa hãy bình tâm suy xét lại.
Sâm
đọc xong vò nát thư nắm trong tay, vừa giận vừa thẹn bảo quan phó sứ:
-
Truyền cho ngươi lui! Từ nay về sau cấm không ai được nhắc đến việc này nữa.
Quan
phó sứ liền lui ra mồ hôi toát đầm đìa!
Xong
việc ấy quân canh lại vào báo:
-
Khải Chúa! Có thư của Bình Nam thượng tướng từ Quảng Nam gửi về, trình chúa duyệt
lãm.
Trịnh
Sâm tiếp thư đọc xong nói:
-
Thượng tướng Hoàng Ngũ Phúc dâng biểu xin phong cho Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm trấn
thủ hai phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi để Nhạc đem quân đánh Nguyễn ở phương Nam. Chờ
chúng đánh nhau cho kiệt sức ta sẽ đem quân thôn tính toàn cõi Đàng Trong. Các
quan thấy thế nào?
Quan
đại học sĩ Lê Quý Đôn bước ra thưa:
-
Tâu Chúa thượng, nay nhân lúc Tây Sơn đang ở thế lưỡng đầu thọ địch, chúng phải
chia quân ra giữ hai mặt Bắc và Nam, tất lực lượng phải bị phân tán, Chúa thượng
nên lệnh cho Hoàng Ngũ Phúc lập tức tấn công tiêu diệt. Nếu ta lầm kế giảng hòa
của Nguyễn Nhạc để chúng rảnh tay tập trung lực lượng đánh Nguyễn xong, rồi Nhạc
lại đem toàn quân ra Bắc chống nhau với ta thì e rằng ta bỏ lỡ thời cơ hiếm có.
Vả lại trong dân gian có truyền câu sấm rằng: “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công”.
Xin Chúa thượng hãy khá đề phòng giặc Tây Sơn.
Trịnh
Sâm nói:
-
Nhưng trong thư Hoàng Ngũ Phúc tâu rằng, chiếm Quảng Nam xong, gặp lúc mùa hè
nóng nực quân ta bị bệnh, dịch tả lỵ rất nhiều không thể ra trận được. Còn những
câu sấm kia, ấy chẳng qua là chuyện hoang đường lấy gì cho là thực? Từ trước đến
nay các Tiên vương đánh nhau với họ Nguyễn bảy lần đã có lần nào vượt khỏi sông
Linh Giang chưa? Nay tướng của ta mới ra oai một trận đã chiếm đất Thuận Hóa
thu phục kinh thành Phú Xuân, đuổi chúa Nguyễn chạy vào Gia Định. Gặp Tây Sơn
chưa đánh, giặc nghe tiếng đã bỏ Quảng Nam mà chạy trốn vào Quảng Ngãi. Nay đang là mùa hè nóng nực cứ để quân ta dưỡng uy sức nhuệ, chờ chúng đánh nhau
tay chân sứt mẻ, rồi ta đem quân khỏe đến bắt vào có khó gì? Quân bay đem bút
nghiên ra, ta viết chiếu phong quan cho Nguyễn Nhạc.
Lê
Quý Đôn quỳ xuống can:
-
Xin Chúa thượng hay mau diệt Tây Sơn rồi thống nhất sơn hà!
Sâm
bực tức quát rằng:
-
Không làm vua được thì cần gì phải thống nhất sơn hà! Ý ta đã quyết, ai còn can
ngăn, chém!
Đôn
sợ hãi lui ra. Viết chiếu phong quan cho Nguyễn Nhạc, rồi sai người mang trao
Hoàng Ngũ Phúc xong, Sâm truyền bãi triều. Ra ngoài phủ chúa Lê Quý Đôn lập tức
đến nhà danh y Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn Ông. Đôn nói với Trác:
-
Xin thầy viết cho toa thuốc trị bệnh tả lỵ.
Hữu
Trác cười vuốt hàm râu bạc phơ, hỏi Đôn:
-
Đại quan ngồi cho tôi xem mạch chẩn đoán định bịnh rồi bốc thuốc về nhà uống, cần
gì mà phải viết toa?
Đôn
đáp:
-
Không phải tôi bị bệnh!
Trác
cười nói:
-
Nếu người nhà bị tả lỵ, tôi xin bốc thuốc biếu đại quan, đem về không cần phải
viết toa.
Đôn
suy tư đáp:
- Bệnh
tả lỵ này cả hàng mấy ngàn người mắc phải, liệu tủ thuốc của danh y có đủ
không?
Trác
giật mình hỏi:
-
Nếu nói vậy ắt ở địa phương nào bị dịch tả lỵ chăng?
Đôn
gật đầu đáp:
-
Tướng quân Hoàng Ngũ Phúc đem bốn vạn quân vào đến Quảng Nam thì quân bị dịch tả
lỵ nên tôi mới đến xin toa thuốc của danh y, cứu nguy quân ta.
Lê
Hữu Trác nhẩm tính:
-
Năm nay là năm Ất Mùi thuộc âm kim. Đại trường (ruột già) ứng kim có bệnh. Mùa
hè hành hỏa nhiệt thịnh, Tiểu trường (ruột non) ứng hỏa tích nhiệt, gặp phải thấp
khí bốc lên ứng vào hành thổ của tỳ vị (dạ dày, lách). Nếu trong năm nay vào
mùa hè ở địa phương nào có nhiều thấp khí bốc lên, nhất định là thấp nhiệt tích
nơi trường vị mà sinh dịch bệnh tả lỵ triền miên.
Lê
Quý Đôn lo lắng hỏi:
-
Vậy danh y có thuốc gì chữa khỏi bịnh này chăng?
Hữu
Trác đáp:
-
Có ba loại cỏ thường mọc khắp nước Nam ta ấy là Lệ trường thảo, Thủy tinh thảo
và Mã xĩ thảo. Hái lá tươi giã nhỏ vắt lấy nước mà uống lập tức khỏi ngay.
Nhưng theo tôi có hai điều khó, một là từ Thăng Long mang bài thuốc vào đến Quảng
Nam có nhanh nhất cũng hết mười ngày, thì số người đang mắc bệnh ắt phải tử
vong, hai là nếu nơi ấy ban đêm khí trời nóng bức, ban ngày màu nắng vàng vọt
là thấp khí vẫn bốc lên nhiều, thì phải lập tức rời khỏi vùng đất ấy ngay mới
mong bảo toàn tánh mạng.
Lê
Quý Đôn ngửa mặt than:
-
Nếu thế là số trời đã giúp quân Tây Sơn rồi vậy!
Nói
xong Đôn vòng tay cáo từ Lê Hữu Trác ra về. Đến nhà Đôn lập tức viết thư sai
người thân tín ngày đêm đi gấp vào Quảng Nam trao cho Hoàng Ngũ Phúc.
xem tiếp: * Chương 18: Lừa Đông cung, Nguyễn Huệ dùng kế nghi bình. - Lầm Tây Sơn, Tổng Phước Hiệp thua quân bỏ mạng
xem tiếp: * Chương 18: Lừa Đông cung, Nguyễn Huệ dùng kế nghi bình. - Lầm Tây Sơn, Tổng Phước Hiệp thua quân bỏ mạng
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...