Chương
13: Lũy Trường Dục, Nguyễn Hữu Chỉnh lập công. - Thành Thăng Long, Trương Phúc
Loan đền tội.
Nói
về thủy quân Trịnh do Hoàng Đình Bảo thống lĩnh vào đóng ở cửa biển Nhật Lệ.
Quân bộ do Hoàng Ngũ Phúc thống lĩnh, thấy thủy quân mình vào cửa Nhật Lệ và
quân Nguyễn lui về lũy Trường Dục cố thủ, Ngũ Phúc liền cho quân vượt sông Linh
Giang lập doanh trại ở Nam châu Bố Chánh.
Hoàng
Ngũ Phúc dẫn các tướng ra các doanh trại chỉ vào lũy Trường Dục mà nói:
-
Thành Trường Dục lũy cao hào sâu, quân Nguyễn lại đặt súng đại bác cung tên rất
nhiều trên mặt thành. Theo các ngươi ta phải đánh thế nào mới hạ được thành?
Hoàng
Đình Thể nói:
-
Thưa thượng tướng, theo tôi ta nên tập trung súng đại bác bắn cho thành tan vỡ,
rồi cho quân tràn vào thì chắc rằng sẽ chiếm được lũy Trường Dục.
Tiền
Đình Hầu Hoàng Đình Thể vừa dứt lời, bỗng nghe tiếng nói lớn:
-
Nếu đánh thế không thể nào thắng được!
Mọi
người nhìn lại thấy một người vừa mới nói tuổi trạc ba mươi, dáng dấp ung dung,
mặt mày đĩnh ngộ. Hoàng Ngũ Phúc hỏi:
-
Ngươi là ai?
Huy
Đình Hầu Hoàng Đình Bảo bước ra nói:
-
Thưa tướng công người này ở Châu Lộc Nghệ An, tên Nguyễn Hữu Chỉnh văn võ song
toàn, năm mười sáu tuổi đã thi đỗ hương cống, lúc trước vẫn thường theo tôi đi
đánh giặc bể, rất giỏi thủy chiến, hiện đang ở dưới trướng của tôi.
Hoàng
Ngũ Phúc hỏi Chỉnh:
-
Vì sao ngươi lại nói rằng đánh như thế thì không thắng được?
Chỉnh
thi lễ rồi đáp:
-
Luỹ Trường Dục này là do Đào Duy Từ xây dưới thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên
chống nhau với quân ta đến nay đã hơn một trăm năm. Thành này kiên cố vô cùng,
vả lại súng đại bác của địch đặt trên mặt thành, đại bác của ta chưa bắn đến
thành thì đã bị súng địch bắn ta rồi vậy.
Ngũ
Phúc trầm tư nói:
-
Thành Trường Dục này kiên cố thế ư? - Đội nhiên Phúc hỏi Chỉnh - Đào Duy Từ là
người thế nào?
Chỉnh
đáp:
-
Đào Duy Từ lúc còn nhỏ chăn trâu thường ví mình như Gia Cát Lượng. Đến lúc chúa
Sãi rước về phong làm Nội Tán tước Khê Lộc Hầu. Chúa Sãi có làm bài thơ tặng
Đào Duy Từ rằng:
Vó
ngựa sườn non tuyết lạnh lùng
Cầu
hiền lặn lội biết bao công
Đem
câu tá Hán ra dò ý
Lấy
nghĩa tôn Lưu để ướm lòng
Bờ
cõi đón chia ba thế đất
Biên
thùy ngăn cách một dòng sông
Nếu
như không có lời Nguyên Trực
Thì
biết đâu mà đón Ngọa Long
Xem
thế đủ biết Chúa Sãi cũng ví Đào Duy Từ như Gia Cát Lượng đời Hán vậy.
Nguyễn
Hữu Chỉnh nói thao thao. Ngũ Phúc nghe xong cười rằng:
-
Việc hơn một trăm năm trước mà ngươi vẫn thuộc làu làu, thật là thông kim bác cổ.
Còn việc ngày nay theo ngươi thì phải đánh lũy Trường Dục như thế nào?
Chỉnh
đáp:
-
Quan trấn thủ thành Trường Dục tên Nguyễn Duy cũng là người quê ở Nghệ An vốn
cùng tôi là huynh đệ đồng môn. Nay tôi xin vào thành đem ba tấc lưỡi thuyết
Nguyễn Duy về hàng thì quân ta đã vào được cửa ngõ Thuận Hoá mà không tốn công
sức vậy.
Hoàng
Ngũ Phúc mừng rỡ khen:
-
Ngươi quả nhiên là đa mưu túc trí. Nếu đại sự mà thành thì ngươi là kẻ có công
đầu trong cuộc Nam chinh đó!
Nói
rồi cùng vào doanh trại truyền quân bày tiệc rượu khao Nguyễn Hữu Chỉnh đợi
ngày mai vào thành Trường Dục.
Ngày
hôm sau tướng Nguyễn giữ thành Trường Dục là Nguyễn Duy nghe quân vào báo:
-
Có một người từ quân Trịnh sang xưng tên là Nguyễn Hữu Chỉnh xin ra mắt tướng
quân.
Nguyễn
Duy liền cho võ sĩ cầm gươm trần đứng giăng hàng hai bên rồi cho mời Hữu Chỉnh
vào. Chỉnh vào đến trông thấy hàng võ sĩ mặt đằng đằng sát khí liền cười lớn:
-
Cách nhau đã mười năm giờ mới hội ngộ, sư huynh lại dằn mặt nhau đến thế. Xin hỏi
nếu sư huynh bệnh nặng, tôi mang thuốc đến sư huynh lại đối đãi tệ bạc đến thế
ư?
Nguyễn
Duy liền đuổi võ sĩ ra ngoài, mời Chỉnh ngồi rồi nói:
-
Tôi cùng sư đệ vốn rất hiểu lòng nhau. Nhưng tôi vẫn mạnh khoẻ như xưa, sao
Nguyễn đệ lại nói tôi bệnh nặng là ý làm sao?
Nguyễn
Hữu Chỉnh lại cười nói:
-
Hiện quân ở thành Trường Dục này của sư huynh chỉ có năm ngàn, còn quân Trịnh
tôi hùng binh bốn vạn. Vả lại quân ở kinh thành Phú Xuân đã đưa cả vào Quảng
Nam chống giặc Tây Sơn. Sư huynh ở cái lũy cỏn con này không binh cứu viện, ấy
chẳng phải là chứng bệnh nan y đó sao?
Nguyễn
Duy cũng cười lớn nói:
-
Đành rằng là như vậy nhưng lũy này của Khê Lộc Hầu Đào Duy Từ đắp, đạn bắn
không vỡ. Năm xưa Trương Phúc Phấn chỉ có mấy ngàn quân đánh nhau với đại binh
của Trịnh Tráng vẫn giữ vững thành trì. Nay ta cứ canh phòng nghiêm ngặt không
ra đánh thì quân Trịnh làm gì được ta?
Nguyễn
Hữu Chỉnh nghe Duy nói xong càng cười to hơn nữa, cười đến chảy nước mắt. Nguyễn
Duy ngạc nhiên hỏi:
-
Tại sao huynh lại cười mãi thế?
Chỉnh
nghiêm nét mặt nói:
-
Sư huynh nên xét lại. Thế cuộc mỗi ngày một khác nhau. Năm xưa quân Nguyễn trên
dưới đồng lòng, từ quân đến tướng muôn người như một. Vả lại mấy ngàn quân của
Trương Phúc Phấn liều mình chống giữ lũy Trường Dục vì tin rằng sớm chiều tất
có viện binh. Quả nhiên viện binh của chúa Nguyễn kéo ra liền đánh lui quân Trịnh
khỏi sông Linh Giang. Còn nay, trong triều thì Phúc Loan lộng quyền làm lắm điều
xằng bậy khiến lòng người ly tán. Vậy nên ở đất Quy Nhơn giặc Tây Sơn mới nổi dậy
đánh phá, chúa Nguyễn phải sai tướng đem toàn quân ở kinh thành cứu viện Quảng
Nam. Thành Trường Dục tuy rằng kiên cố, nhưng ba quân đã chán, chúa nản lòng
thì làm gì đem hết sức mà đánh giặc. Xem lại việc lúc thủy quân của chúa Trịnh
tôi vào cửa bể Nhật Lệ thì thủy quân của sư huynh liền vào chạy vào thành cố thủ,
ấy là minh chứng rõ ràng. Cái lẽ được thua ở thành Trường Dục này xem ra đã rõ.
Vả lại cơ đồ của nhà Nguyễn đã đến hồi mạt vận, trong thì mục nát, ngoài thì
hai đầu thọ địch, dẫu rằng Tôn Ngô sống lại cũng phải bó tay. Sư huynh là người
thông minh hơn người lại chẳng thấy điều đó hay sao?
Nguyễn
Duy buồn bã đáp:
-
Chẳng phải là tôi không biết việc ấy. Những muốn theo về chúa Trịnh, nhưng còn
phân vân người ta đối đãi với bại tướng ra sao...
Duy
nói đến đây bỏ lửng. Hữu Chỉnh tươi cười bảo:
-
Việc này sư huynh chớ lo, tôi xin tiến cử sư huynh lên thượng tướng công Hoàng
Ngũ Phúc, thì danh lợi nào kém gì làm quan cho chúa Nguyễn.
Nguyễn
Duy cả mừng nắm tay Chỉnh nói:
-
Ơn của sư đệ chẳng bao giờ dám quên. Phiền sư đệ về thưa cùng Hoàng tướng công
ngày mai tôi xin mở cửa ra hàng.
Hôm
sau, tháng mười hai năm Giáp Ngọ (1774) niên hiệu Cảnh Hưng thứ ba lăm, Hoàng
Ngũ Phúc lấy được thành Trường Dục không tốn một mũi tên hòn đạn. Phúc khen thưởng
Hữu Chỉnh rất hậu và vẫn để Nguyễn Duy ở lại giữ thành, còn mình đem đại binh
tiến lên đóng ở làng Hố Xá (Quảng Trị ngày nay).
Ngày
ấy Hoàng Ngũ Phúc họp các tướng nói:
-
Chúa Nguyễn vừa mới đưa thư cho ta hẹn trong mười hai ngày sẽ nộp Phúc Loan, và
yêu cầu quân ta sau khi bắt được Phúc Loan thì hãy lui quân trả đất cho họ Nguyễn.
Các ngươi thấy thế nào?
Hoàng
Đình Bảo khoát tay nói:
-
Mục đích của ta là chiếm đất nhà Nguyễn, diệt trừ Phúc Loan chỉ là cái cớ. Nay
vô lẽ bắt được Phúc Loan lại lui quân trả đất, thì thật là tốn công vô ích!
Hoàng
Đình Thể và Hoàng Phùng Cơ cùng nói:
-
Lời Huy Đình Hầu nói rất phải. Nếu bắt được Phúc Loan rồi ta cứ tiến binh thì
đã làm sao?
Ngũ
Phúc lắc đầu bảo:
-
Các ngươi nói sai rồi. Đại trượng phu phải lấy chữ tín làm đầu, huống chi ta
vâng lệnh Chúa thượng truyền hịch khắp nơi là chỉ diệt trừ Phúc Loan chứ không
xâm phạm đất đai của nhà Nguyễn. Nay nuốt lời tiến quân e rằng chúa ta mang tiếng
thất tín với thiên hạ. Ngộ nhỡ chúa bắt tội thì ta biết ăn nói ra sao? Chi bằng
ta án binh bất động rồi giải Phúc Loan về kinh đồng thời xin lệnh chúa thế nào!
Nguyễn
Hữu Chỉnh đứng dậy thưa:
-
Việc quân thành bại cốt ở thời cơ, nay thành Phú Xuân trống rỗng, ta mang đại
binh vào đánh một trận ắt thu phục được kinh thành nhà Nguyễn. Nếu chờ họ giao
nộp Phúc Loan rồi về kinh, lại chờ chiếu lệnh vào, mất ít thì cũng hơn một
tháng. Lỡ họ lùi được quân Tây Sơn rồi điều binh ra ngoài cứu viện thì thật khó
khăn cho ta. Theo ý tôi sau khi bắt được Phúc Loan, tướng công hãy truyền hịch
và thư cho chúa Nguyễn rằng: Tuy bắt được Phúc Loan nhưng miền Trong hãy còn giặc
Tây Sơn, ta xin đem quân vào Phú Xuân hợp sức dẹp giặc. Nếu chúa Nguyễn không bằng
lòng thì ta đã có cớ để tiến binh. Tôi chắc rằng Chúa thượng hay được chẳng những
không bắt tội mà còn trọng thưởng cho tướng công nữa.
Ngũ
Phúc mừng rỡ khen:
-
Hữu Chỉnh quả là cao kiến! Miễn làm sao có cớ để tiến quân, trên không mắc tội
với chúa, dưới không ngượng miệng với dân. Dù ai đàm tiếu mặc lòng.
Nói
xong truyền quân bày yến tiệc, lệnh cho tướng sĩ án binh bất động, chờ ngày
quân Nguyễn giao nộp Phúc Loan.
ooOoo
Khi
ấy ở thành Phú Xuân, chúa Nguyễn Định Vương sai quân bắt Phúc Loan bỏ vào tù xa
mang ra nộp cho Hoàng Ngũ Phúc. Lúc ra khỏi hoàng cung dân chúng trong kinh
thành đổ xô đến xem, người đông nghìn nghịt. Có kẻ mắng:
-
Chính do mày mà dân tình thống khổ, đất nước ngửa nghiêng. Nay mày dù chết đi
cũng chưa đền hết tội.
Kẻ
khác lại nhạo:
-
Ngày nào thì lên xe xuống ngựa, uy quyền tột đỉnh, muốn chém giết ai mặc lòng.
Nay bị người khác giết lại ấy cũng là quả báo mà thôi!
Trương
Phúc Loan nghĩ thầm:
-
Năm xưa ta có thề với Tiên vương rằng: Nếu mà gian dối thì sẽ bị trăm quan bắt
nộp cho địch quân xử tội bêu đầu. Nay lời thề xưa đã ứng. Thật là có quả báo
không sai!
Hoàng
Ngũ Phúc đã được Trương Phúc Loan rồi, sai quân giải về Thăng Long cho Trịnh
Sâm xét xử. Trịnh Sâm truyền đem ra chém.
Giao
nộp Phúc Loan xong chúa tôi nhà Nguyễn chờ tin quân Trịnh lui binh. Bỗng một
hôm nhận được thư Hoàng Ngũ Phúc, chúa Nguyễn Định vương đọc xong quăng thư xuống
đất nghiến răng trợn mắt quát:
-
Thằng Hoàng Ngũ Phúc thật là quân bội tín. Ta giao nộp Quốc phó cho chúng những
tưởng chúng sẽ lui quân, ngờ đâu nay chúng viết thư bảo: Trong Quảng Nam hãy
còn giặc Tây Sơn, chúng sẽ đem quân vào Phú Xuân hợp sức cùng quân ta dẹp giặc.
Thật là phường điêu ngoa dối trá. Nếu biết vậy cần gì phải hy sinh Quốc phó.
Thấy
chúa nóng giận, Nguyễn Đăng Trường can:
-
Xin Chúa thượng bớt giận, ta giao nộp quan Quốc phó ấy là kế hoãn binh chờ Tôn
Thất Tiệp và Nguyễn Văn Chính điều binh ở Quảng Nam ra cứu viện, thì không phải
là Quốc phó hy sinh vô ích. Nay có lẽ Tiệp và Chính cũng sắp về đến.
Trường
vừa dứt lời có quân vào báo:
-
Kính Chúa thượng, tướng quân Tôn Thất Tiệp và Nguyễn Văn Chính dẫn quân về đang
đợi lệnh ở cổng Nam kinh thành.
Chúa
Định Vương liền bảo:
-
Hãy mau truyền hai tướng vào ngay!
Tiệp
và Chính vào đến, chúa vội vàng nói:
-
Hai tướng về thật là đúng lúc. Nay Nguyễn Duy đã mở cổng thành Trường Dục đầu
hàng quân Trịnh. Quân địch chỉ cách kinh thành chừng vài trăm dặm, hai tướng
hãy kíp đem quân ra Bắc đánh giặc.
Tôn
Thất Tiệp thất kinh nói:
-
Thôi chết! Lâu nay ta chống nhau với quân Trịnh cốt nhờ vào thành Trường Dục,
nay thành đã mất e rằng khó giữ được kinh thành.
Nguyễn
Đăng Trường trấn an hai tướng:
-
Nhị vị tướng quân chớ nên lo sợ. Tuy thành Trường Dục đã mất, nhưng giặc chưa đến
sông Bái Đáp Giang, xin Tôn tướng quân mau dẫn bộ binh và Nguyễn tướng quân mau
đem thủy binh cùng đến sông Bái Đáp Giang (Bến Hải ngày nay) gắng sức chống giặc.
Chờ lão tướng Tống Phước Hiệp dẹp xong giặc Tây Sơn rồi hợp quân đánh Trịnh ắt
là khôi phục được cơ đồ.
Tiệp
và Chính cùng khóc lạy chúa, Chính nói:
-
Người xưa có nói: Nuôi quân ba năm dụng một giờ. Nhà chúng tôi đã mấy đời công
hầu thọ ơn sâu của chúa. Giặc đến, phận làm tướng phải liều mình vì xã tắc, dù
không thắng được giặc chúng tôi xin chết giữa sa trường để đền nợ quân vương.
Chúa
cũng cầm tay hai tướng khóc:
-
Nước loạn mới biết trung thần, nay xã tắc ngửa nghiêng, ta chỉ còn trông cậy
vào hai tướng mà thôi. Hai khanh nên gắng sức, mau báo tiệp khải hoàn cho an
lòng quả nhân.
Tiệp
và Chính lại khóc lạy, trước lúc ra đi còn bịn rịn không rời. Tôn Thất Tiệp dẫn
bộ binh một vạn đến đóng đồn bố trận ở bờ Nam sông Bái Đáp Giang, còn Nguyễn
Văn Chính dẫn thủy binh một vạn đến đóng thủy trại ở ngoài cửa bể Bái Đáp
Giang.
xem tiếp:* Chương 14: Bái Đáp Giang, Hoàng Ngũ Phúc điều binh. - Phú Xuân thành, Tĩnh Điệp Hầu cứu chúa.
xem tiếp:* Chương 14: Bái Đáp Giang, Hoàng Ngũ Phúc điều binh. - Phú Xuân thành, Tĩnh Điệp Hầu cứu chúa.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...