Chương
3: Thành Phú Xuân hoàng tộc tranh quyền - Đất Quy Nhơn anh hùng hội tụ.
Nói
về chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, sau khi xa giá hồi kinh, phần tâm thần kinh
động vì việc bị thích khách, phần vừa giận vừa tiếc vì bị mất ngựa quý nên bệnh
trở nặng thêm. Chúa cho mời quan Quốc phó Trương Phúc Loan đến bảo:
-
Đời người ai cũng phải chết, nay số ta đã hết, có mấy điều căn dặn, khanh hãy
vì ta mà hứa hết lòng.
Phúc
Loan nước mắt dầm dề tâu:
-Xin
Chúa thượng hãy an tâm, xin thề có trời cao chứng giám, nếu thần phụ lòng Chúa
thượng thì sẽ bị trăm quan bắt giao cho kẻ địch xử tội bêu đầu.
Chúa
thều thào nói:
-Khi
trước Thế tử Nguyễn Phúc Hiệu mất, Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương mới chín tuổi
hãy còn nhỏ dại. Nay ta đã viết di chiếu truyền ngôi cho con thứ hai của ta là
Nguyễn Phúc Luân lên kế vị… Đây là gươm lệnh, khanh chớ sai lời.
Nói
xong chúa mất!
Sau
khi mai táng chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, Trương Phúc Loan cho gọi bá quan
văn võ thiết triều. Loan nói:
-Chúa
chẳng may lâm bệnh qua đời. Trước khi nhắm mắt Tiên vương phó thác cho ta lập
Thế tử Nguyễn Phúc Thuần lên kế vị. Đây là tờ di chiếu và ngọc ấn Tiên vương
giao cho ta. Hãy đọc cho các quan cùng nghe.
Di
chiếu truyền rằng:
Võ
vương Nguyễn Phúc Khoát truyền chỉ.
Nay
ta sắp theo về cùng các Tiên vương. Đúng lệ là Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương là
con Thế tử Nguyễn Phúc Hiệu lên kế vị. Nhưng quả nhân xét thấy Hoàng tôn mới
chín tuổi hãy còn nhỏ dại không thế đảm đương được quốc gia đại sự. Vậy nay
truyền chỉ phong Nguyễn Phúc Thuần làm Thế tử. Sau khi quả nhân qua đời Thế tử
Nguyễn Phúc Thuần sẽ lên thay quyền kế vị trị quốc an dân.
Nay
chiếu.
Chiếu
đọc xong, Hoàng tử Nguyễn Phúc Luân bước ra nói:
-Ngày
trước Thế tử mất, Phụ vương thường nói ngày sau sẽ cho ta kế vị, sao trước lúc
lâm chung lại có sự nhầm lẫn như thế? Vả lại, nói rằng Hoàng tôn mới chín tuổi
còn nhỏ nên không lập, mà lại lập Nguyễn Phúc Thuần cũng mới mười hai tuổi, ấy
chẳng phải là điều vô lý hay sao?
Trương
Phúc Loan giơ gươm lệnh lên nói:
-
Đây là gươm lệnh của Tiên vương. Thấy gươm như thấy chúa. Xin Hoàng tử đừng khi
quân phạm thượng.
Nguyễn
Phúc Luân đùng đùng nổi giận:
-Ngươi
có gươm lệnh thì làm gì được ta nào. Có mặt trăm quan ở đây há để cho ngươi làm
điều thoán đoạt hay sao. Bá quan nghĩ thế nào? Đây là tờ di chiếu giả.
Luân
nói chưa dứt lời liền bị Loan thét võ sĩ lôi ra chém. Thái úy Trương Văn Hạnh
bước ra nói:
-Xin
Quốc phó bớt giận, Hoàng tử dù buông lời nói càn, nhưng tiên chúa mới qua đời nếu
làm thế e thiên hạ dị nghị rằng: Mồ cha chưa xanh cỏ, con đã tranh giành nhau của
cải. Xin Quốc phó tha cho.
Loan
ngẫm nghĩ rồi nói:
-
Nể lời quan Thái uý không giết nhưng hãy giam vào ngục chờ chọn ngày lành tháng
tốt lập Thế tử Nguyễn Phúc Thuần lên kế vị, rồi xử trị thế nào do Tân vương định
đoạt.
Bỗng
hộ giá quan Ngô Mãnh bước ra nói:
-
Tôi thường ngày hộ giá Tiên vương, thường được xem văn thư của chúa. Vậy xin
cho xem di bút của tờ di chiếu.
Phúc
Loan thấy Mãnh đeo gươm bên hông bèn trỏ mặt Mãnh quát rằng:
-Ngô
Mãnh! Khi thiết triều trong cung điện không ai được mang vũ khí, sao ngươi dám
đeo gươm bên mình là có ý gì?
Ngô
Mãnh đáp:
-Lúc
Tiên vương còn tại thế tôi làm Đô thống chỉ huy cấm vệ quân. Tiên vương cho
phép tôi theo hầu ở bất cứ đâu, kể cả cung cấm của Tiên vương. Xin Quốc phó xét
cho.
Loan
cầm gươm lệnh giơ lên quát:
-Ngày
trước ngươi làm chưởng cấm vệ quân chứ há phải ngày nay. Gươm của ngươi lại bằng
gươm lệnh của chúa hay sao? Võ sĩ đâu lôi ra chém!
Võ
sĩ xông ra bắt Ngô Mãnh trói lại. Thái úy Trương Văn Hạnh can:
-Thưa
Quốc phó, Ngô Mãnh đeo gươm chẳng qua là sự vô tình. Nay Quốc phó đem ra giết
đi, chẳng phải là cố chấp hay sao? Vả chăng Ngô Mãnh muốn xem di bút của Tiên
chúa, Quốc phó chẳng cho xem lại mượn sự đeo gươm mà giết đi e thiên hạ dị nghị
rằng có điều mờ ám.
Văn
Hạnh nói chưa dứt câu, Phúc Loan lại vỗ đùi quát:
-Việc
mờ ám chính là ngươi đó!
Văn
Hạnh hỏi:
-Tôi
làm việc gì mà gọi là mờ ám?
Loan
đáp:
-Ngày
trước chúa xa giá vào Nam, Ngô Mãnh tiến cử cháu ngươi là Trương Văn Hiến theo
hộ giá để âm mưu hại chúa. Việc không thành Ngô Mãnh lại để mất ngựa quý nên
chúa buồn giận mà mất. Nay lại phạm luật đeo gươm vào triều, hai tội ấy không
đáng chết lắm sao? Nay ngươi còn đứng ra ngăn trở chẳng phải là đồng đảng đồng
mưu ư?
Nói
xong truyền quân giam Trương Văn Hạnh vào ngục và đem Ngô Mãnh ra chém.
Võ
sĩ lôi Ngô Mãnh ra ngoài cung điện, có người tùy tướng của Ngô Mãnh là Phan Văn
Long xông đến đâm chết mấy tên võ sĩ rồi cắt dây trói cho Ngô Mãnh. Long hối:
-Tướng
quân mau chạy đi, để tôi ở lại chặn binh triều.
Mãnh
than:
-
Đã đến nước này đằng nào cũng mang tiếng bất trung. Ta trốn đi đã đành nhưng
còn ngươi thì sao?
-Thần
đội ơn tri ngộ của tướng quân, nay dù có xương tan thịt nát là dịp để báo đền.
Binh triều kéo đến kìa, tướng quân mau về đem gia quyến trốn đi. Xin tướng quân
bảo bọc con thần là Phan Văn Lân thì thần yên lòng nhắm mắt. Một lạy này xin
vĩnh biệt tướng quân.
Nói
xong Long vung thương xông đến phía binh triều. Ngô Mãnh chạy thoát về nhà.
Phan Văn Long chặn binh triều giết chết trăm tên quân rồi trúng tên chết. Loan
sai Chữ Đức bằm thây trăm mảnh. Ngô Mãnh chỉ kịp dắt theo con Phan Văn Long là
Phan Văn Lân, và cháu nội mình là Ngô Văn Sở. Toàn gia quyến bị Loan bắt giết sạch.
Nguyên Sở và Lân là con nhà võ tướng nên mới mười ba tuổi đã thạo nghề cưỡi ngựa.
Ba ông cháu ra cổng Nam thành Phú Xuân nhắm hướng Nam mà chạy.
Ngô
Mãnh dắt hai cháu lội suối trèo đèo, đêm ngày không nghỉ, lần hồi đến Quy Nhơn
thì Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân ngã bệnh, Mãnh đành phải ra giữa chợ hành khất để
kiếm tiền chữa bệnh cho cháu. Bỗng có một phú nông họ Bùi đi ngang qua thấy lão
ăn mày quắc thước và hai thiếu niên khôi ngô tuấn tú đem lòng thương, xuống ngựa
hỏi Ngô Mãnh:
-
Tôi xem cụ và hai cháu đâu phải kẻ hèn, cớ sao đến nông nỗi này?
Ngô
Mãnh gạt lệ đáp:
-Tôi
quê ở Phú Xuân, rủi gặp nạn phải dắt cháu ăn xin độ nhật. Xin ông thương tình bố
thí để chữa bệnh cháu thơ.
Bùi
ông nói:
-Tôi
có thể giúp cụ, nhưng cháu bớt bệnh rồi thì tá túc vào đâu? Chi bằng cụ về tệ
xá tại ấp Tây Sơn ở tạm, thuốc men đã có thầy nhà.
Nói
rồi bèn đem ông cháu Ngô Mãnh về nhà mình đối đãi tử tế, lo thuốc men cho Sở và
Lân đến khi hồi phục.
Một
đêm kia Ngô Mãnh đang ngon giấc bỗng nghe la “cướp, cướp” liền tung cửa chạy
ra. Thì ra bọn cướp độ chừng vài chục tên hành hung người nhà Bùi ông, toan giở
trò đạo tặc. Ngô Mãnh nghĩ bụng, đây là lúc để ta đáp nghĩa ân nhân. Mãnh quát
lên như sấm:
-Lũ
cướp dừng tay!
Mãnh
tay không xông vào bọn cướp đến đâu chúng ngã lăn ra đến đấy, đứa vỡ đầu lọi cẳng
gãy tay, lạy lục xin tha. Ngô Mãnh khuỳnh tay quát:
-Ta
lấy đức hiếu sinh tha cho chúng bay một lần. Hãy cải tà quy chánh, chớ đem lòng
đạo tặc mà có ngày chuốc vạ vào thân.
Tha
bọn cướp xong, Bùi ông mời lão Ngô vào nhà hỏi.
-
Cụ tài đức vẹn toàn mà phải tha phương cầu thực ắt là có uẩn khúc chi đây? Nếu
không nghi ngại có thể bày tỏ cho vơi nỗi lòng được chăng?
Ngô
Mãnh đáp:
-
Giờ này chẳng dám giấu ân nhân. Tôi tên Ngô Mãnh làm Đô thống ở thành Phú Xuân
bị Quốc phó Trương Phúc Loan làm hại nên trốn vào đây, gặp ân nhân ra tay tế độ
lòng rất áy náy bấy lâu không biết lấy chi đền đáp.
Nói
xong quỳ lạy Bùi ông. Bùi ông đỡ dậy nói:
-Làm
việc nghĩa ai lại nghĩ đến chuyện trả ơn. Nhưng nếu cụ muốn trả ơn cũng chẳng
khó gì. Tôi có một con gái tên là Bùi Thị Xuân, tính ưa theo đòi cung kiếm, phiền
cụ chỉ dạy cho cháu phòng khi hữu sự.
Nói
xong gọi con ra bái Ngô Mãnh làm thầy, Ngô Mãnh thấy Bùi Thị Xuân mày tằm mắt
phượng, môi nhỏ má hồng, dáng vẻ thanh tao mà thần sắc oai phong trong bụng rất
mừng.
Từ
ấy ông ngày đêm ra sức dạy võ nghệ binh thư cho Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân và Bùi
Thị Xuân. Ngày qua tháng lại thấm thoát năm năm Xuân cùng Lân, Sở ba người đều
võ nghệ siêu quần, tài trí hơn người, tiếng lành đồn khắp gần xa.
oOo
Trong
khi Ngô Mãnh thoát chết trốn vào phủ Quy Nhơn tá túc nhà Bùi ông ở ấp Tây Sơn
thì Trương Văn Hạnh bị giam vào ngục, Phúc Loan lại cho quân vây nhà Văn Hạnh bắt
hết gia quyến, người tùy tướng là Trương Văn Hiến đơn thương độc mã đột phá
trùng vậy chạy thoát khỏi thành Phú Xuân nhắm hướng Nam mà chạy.
Lần
hồi đến Quy Nhơn phủ thấy núi non hùng vĩ cỏ cây sầm uất, Hiến nghĩ thầm:
-Nơi
đây là thành Đồ Bàn cũ của vua Chiêm, sau lưng dựa vào núi non hiểm trở, trước
mặt trông ra biển lớn, trong ngoài đều có đèo cao án ngữ, thật là đất dụng võ.
Thảo nào ngày xưa vua Chiêm là Chế Bồng Nga lập kinh đô ở đất này đã làm nên võ
công hiển hách. Địa linh ắt sinh nhân kiệt. Thôi thì ta tạm tìm nơi ẩn náu rồi
sẽ liệu sau.
Nghĩ
xong bỗng nghe tiếng binh khí chạm nhau loảng xoảng. Ngoảnh nhìn lại thấy một
thanh niên vừa đánh vừa lui, một mình chống đỡ hơn mười tên mặt mày hung tợn.
Xem người này yếu thế, đã thấm mệt, Hiến bèn xông ra nói lớn:
-Các
người sao lại ỷ đông hiếp yếu thì đâu phải là người hào kiệt.
Tên
đầu đảng quát:
-
Bọn ta là cướp, cần bạc vàng chứ đâu cần làm hào kiệt. Giết!
Chúng
vung đao chém bừa. Hiến chỉ múa vài đường roi bọn chúng văng vũ khí liền hò
nhau bỏ chạy. Người thanh niên quỳ lạy tạ ơn. Hiến đỡ dậy hỏi:
-Đây
là nơi hoang vắng, sao anh lại mạo hiểm đi một mình để gặp cướp thế này?
Người
ấy đáp:
-Tôi
tên Hồ Nhạc nhà ở ấp Kiên Thành thường đi buôn trầu ở Tây Sơn Thượng đem xuống
thành Quy Nhơn bán, rồi lấy vàng bạc xuống chợ Giả ở cửa Bể mua muối chở lên
bán cho người Thượng ở Tây Sơn Thượng. Nay giữa đường gặp cướp nếu không gặp ân
nhân mạng ắt chẳng còn. Nghe tiếng nói ân nhân không phải là người địa phương,
dám hỏi ân nhân quê quán ở đâu, vì sao phải đến chốn này?
Hiến
ngậm ngùi đáp:
-Tôi
tên Trương Văn Hiến quê ở thành Phú Xuân, thời loạn ly gặp đại nạn phải bỏ nhà
trốn tránh nơi đây.
Nhạc
hỏi:
-
Giờ ân nhân định đi về đâu?
Hiến
đáp:
-Giờ
đây là kẻ không nhà chưa biết phải về đâu?
Nói
xong khật khưỡng vừa đi vừa ca rằng:
Không
nhà chẳng biết đói no
Khá
khen tạo hóa bày trò trêu ngươi
Sự
đời chỉ một trận cười
Ta
theo trăng gió dạo chơi ngũ hồ.
Nhạc
chạy theo quỳ trước mặt Hiến thưa:
-Xin
ân nhân dừng bước. Tôi hiện còn một căn nhà trống ba gian, xin ân nhân hãy về ở
tạm. Tài văn võ của tiên sinh nếu mở trường dạy học thì chẳng những đã có kế
sinh nhai lại còn được người đời trọng vọng. Xin tiên sinh chớ chối từ.
Hiến
xúc động nói:
-Cảm
ơn tấm thịnh tình của anh. Nhưng ta từ phương xa đến đây, ai biết ta thế nào mà
cho con em theo học?
Nhạc
đáp:
-
Việc ấy xin tiên sinh chớ ngại. Tôi tuy tài hèn nhưng người quanh vùng đều mến
phục. Nay họ thấy tôi tôn tiên sinh làm thầy lo gì họ chẳng cho con em theo học.
Hiến
bèn theo Nhạc về nhà. Hôm sau Nhạc đến gặp Hiến nói:
-
Tôi vốn phụ thân đã mất nên phải thay cha lo kế sinh nhai. Hiện còn hai em
trai, nay đem đến bái sư xin nhờ thầy giáo huấn.
Hiến
nói:
-Anh
khách sáo làm gì, hãy cho trẻ vào ra mắt.
Nhạc
gọi hai em vào lạy chào. Nhạc trỏ hai em nói:
-Đây
là Hồ Huệ, tên tục là Thơm tuổi mới mười ba, còn kia là Hồ Lữ tuổi mới mười
hai.
Hiến
ngắm Lữ thấy tay chân vạm vỡ mặt mày hiền lương chân chất lòng rất cảm thương,
lại thấy Huệ tuy còn niên thiếu mà lưng hùm vai gấu, mặt vuông tai lớn, mắt sắc
như gươm, ánh nhìn như chớp thì lấy làm lạ bèn hỏi:
-Vì
sao Huệ lại có tên tục là Thơm?
Nhạc
bảo Huệ:
-
Em hãy bẩm với thầy xem.
Huệ
kính cẩn thưa:
-Bẩm
thầy, con nghe thân mẫu kể rằng lúc lâm bồn sanh con, hoa huệ trong vườn bỗng nở
thơm ngát nên thân phụ mới đặt tên chữ là Huệ, tên tục là Thơm.
Hiến
nghe tiếng nói của Huệ sang sảng như chuông, thất kinh nghĩ thầm, thằng bé này
về sau nhất định là bậc anh hùng quán thế, tài trùm thiên hạ chứ chẳng phải là
kẻ tầm thường.
Từ
ấy Trương Văn Hiến giữ Huệ và Lữ ở lại nhà truyền văn thụ võ.
oOo
Một
hôm Trương Văn Hiến có việc đi ngang qua núi Hoành Sơn. Khi đến chân núi, Hiến
gặp một cậu bé trạc mười hai, mười ba tuổi đang ngồi hí hoáy vẽ. Thỉnh thoảng cậu
bé đứng dậy đăm đăm nhìn lên núi rồi lại ngồi xuống chăm chú vẽ. Hiến lấy làm lạ
đến gần hỏi:
-
Cháu bé kia! Cháu vẽ gì thế?
Cậu
bé đáp:
-Cháu
vẽ núi!
Hiến
nhìn vào bản vẽ cười to bảo:
-Vẽ
núi thì phải có cỏ, có cây, có mây, có nước mới nên phong cảnh đẹp. Hình vẽ của
cháu chỉ có hình mấy dãy núi và quả núi, lại có mấy đường ngoằn ngoèo dẫn lên
núi thì cần gì mà quan sát kỹ lưỡng thế?
Cậu
bé cũng cười to đáp :
-Cỏ
cây mây nước của ông thì ai cũng nhìn thấy được, còn những đường ngoằn ngoèo của
cháu mắt phàm không thể trông thấy, nên cháu phải quan sát kỹ lưỡng là do thế.
Hiến
ngạc nhiên hỏi:
-
Những đường ấy là đường gì mà mắt phàm không thể nhìn thấy được?
Cậu
bé hỏi lại Hiến:
-Thế
ông nhìn lên núi có thấy những đường ngoằn ngoèo như trong bản vẽ của cháu
chăng?
Hiến
đáp:
-
Ta chỉ thấy cỏ cây chứ làm gì có những đường ấy!
Cậu
bé cười ngặt nghẽo nói:
- Ấy
mắt ông cũng là mắt phàm vậy.
Hiến
tò mò hỏi:
-Cháu
hãy nói xem những đường ấy là đường gì? Nếu nói hay ta sẽ thưởng.
Bấy
giờ cậu bé chỉ tay lên núi hỏi Hiến:
-
Núi non cỏ cây sầm uất đều xanh thẫm một màu, vậy còn vùng núi màu xanh lợt kia
là gì ông có biết không?
Hiến
cười đáp:
- Ấy
là trảng cỏ tranh bị cháy rồi nảy mầm non nên có màu xanh lợt. Việc ấy có gì mà
không biết.
Cậu
bé nói:
- Nai,
mang, mển trong rừng thường đến vùng cỏ mới cháy để ăn mầm non, nên cháu vẽ đường
lên trảng cỏ tranh ấy cho phường săn của ông Đặng Đồng Phụng đến bắt nai, mang.
Hiến
hỏi:
-
Cháu đã lên đấy chưa mà biết được đường?
Cậu
bé lại cười to đáp:
-Nếu
đã biết đường thì cần gì phải nhìn núi mà vẽ!
Hiến
lấy làm lạ hỏi:
-Không
biết đường sao vẽ được đường?
Cậu
bé lại cười đáp:
-
Cháu nhìn núi xem dốc đổ phía nào mà biết được dòng suối chảy vào mùa mưa. Nước
chảy tất phải trôi mất đất, mà không còn đất chỉ còn đá, tất cây không mọc được.
Tự nhiên nơi ấy sẽ thành đường đi trong rừng. Đó là cái mà ngoài cháu ra kẻ mắt
phàm không nhìn thấy được.
Hiến
mừng rỡ reo lên:
-
Đây thật là bậc kỳ tài trong thiên hạ. Quả nhiên đất Quy Nhơn địa linh sinh
nhân kiệt.
Đoạn
Hiến hỏi cậu bé:
-
Cháu tên gì? Nhà ở đâu?
-Cháu
tên Võ Văn Dũng! Nhà ở Tây Sơn Hạ!
-
Cháu có muốn làm học trò của ta chăng?
Văn
Dũng hỏi lại Hiến:
-
Ông có tài gì mà đòi làm thầy của cháu?
Hiến
chưa biết trả lời thế nào bỗng nghe sau lưng có tiếng quát lớn:
-
Ta định nhận Văn Dũng làm học trò, ngươi là ai mà dám giành học trò của ta?
Hiến
và Dũng giật mình quay lại thấy một ông già tuổi trạc lục tuần, tóc râu đã bạc
nhưng thân thể hãy còn tráng kiện lắm. Võ Văn Dũng nói:
-Ấy
là lão Đặng Đồng Phụng đầu phường săn.
Hiến
hỏi lão Phụng:
-
Vì sao tiền bối định nhận cháu Dũng làm học trò?
Lão
Phụng đáp:
-Ta
dạy võ nghệ cho nó mai sau lớn lên đi săn bắt thú rừng đem về thành bán cho
quan quân. Như vậy cũng được phú quý.
Hiến
hỏi Võ Văn Dũng:
-Còn
ta sẽ dạy cho con văn võ binh thư, mai sau khôn lớn vẽ bản đồ sông núi nước Nam
để dùng quân đánh đổ binh triều cứu nguy trăm họ. Vậy con muốn theo ai?
Võ
Văn Dũng đáp:
-Con
xin nhận thầy làm sư phụ.
Lão
Phụng thấy vậy giận lắm quát lên:
-Nếu
ngươi đánh thắng ta thì ta sẽ không giành học trò với ngươi nữa.
Quát
xong xông vào đánh liền, Trương Văn Hiến đưa tay đỡ đòn. Hai tay chạm nhau, Hiến
nghe tay mình đau buốt liền nhảy khỏi vòng chiến, Lão Phụng cả cười nói:
-Đặng
Đồng Phụng ta được chân truyền về môn cương công. Ta tập luyện hai cánh tay như
sắt, côn gỗ đánh vào còn không hề hấn gì thì tay ngươi sao chịu nổi. Vậy đã chịu
thua chưa?
Hiến
hỏi lại Lão Phụng:
-
Nếu tôi đánh lại được tiền bối thì thế nào?
Lão
Phụng cười to đáp:
-
Ta sẽ nhường học trò cho ngươi, không giành nữa.
Văn
Hiến mừng rỡ nói:
- Xin
tiền bối chớ quên lời, vậy tiền bối hãy ra tay trước.
Đặng
Đồng Phụng vung tay đánh Hiến. Hiến co ngón tay giữa nhô lên thành Độc giác chỉ
điểm mạnh vào huyệt Hợp cốc ở hổ khẩu và huyệt Khúc trì ở khuỷu tay lão Phụng.
Lão Phụng hai tay tê hại không cử động được, lão liền vung chân đá Hiến. Hiến lại
co ngón tay giữa, điểm mạnh vào huyệt Ủy trung ở nhượng chân và huyệt Thừa sơn ở
giữa bắp chân của lão Phụng. Lão Phụng cà nhắc một chân cúi đầu nói:
-Ông
võ nghệ cao cường tôi xin bái phục. Xin hỏi vừa rồi ông sử dụng môn võ gì?
Hiến
đáp:
-
Môn cương công của tiền bối đã luyện tay chân cứng như sắt thật là vô địch
thiên hạ. Muốn thắng được tiền bối tôi phải dùng nhu công điểm vào các yếu huyệt
làm cho tay chân tê dại mà thôi!
Lão
Phụng bảo Võ Văn Dũng:
-Ta
mừng cho cháu gặp được thầy hay - rồi quay sang Trương Văn Hiến, Lão Phụng nói
- Tôi có một đứa cháu nội tuổi trạc như Võ Văn Dũng tên là Đặng Văn Long. Cha
nó chẳng may mất sớm, mẹ con nó được tôi nuôi dưỡng, nay xin gửi thầy theo học
nghề văn võ mai sau giúp ích cho đời. Xin thầy vui lòng nhận cho.
Hiến
vui vẻ chấp thuận.
Từ
ấy hai cậu bé Võ Văn Dũng và Đặng Văn Long theo làm học trò Trương Văn Hiến.
Võ
Văn Dũng và Đặng Văn Long gọi Hồ Huệ là đại sư huynh, gọi Lữ là nhị sư huynh.
Huệ và Lữ gọi Văn Dũng là tam sư đệ và Đặng Văn Long là tứ sư đệ.
Trương
Văn Hiến đem hết sở học truyền cho bốn học trò. Ngày qua tháng lại thấm thoát
đã năm năm. Huệ, Lữ, Dũng, Long đã trở thành những trang thiếu niên anh kiệt.
Tiếng lành đồn khắp gần xa.
xem tiếp: * Chương 4: Thiếu quân lương, Huệ bày anh làm quan - Thuận ý trời, Hiến khuyên trò đổi họ
xem tiếp: * Chương 4: Thiếu quân lương, Huệ bày anh làm quan - Thuận ý trời, Hiến khuyên trò đổi họ
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...