Thành phố Benares là một
nơi có nhiều di tích lịch sử và có rất nhiều tu sĩ. Bất cứ một người Âu Mỹ nào
đến đây cũng ngạc nhiên về thành phố dân cư đông đúc, nhà cửa san sát và khắp
nơi nhan nhản những đền thờ, lăng tẩm đồ sộ.
Có
những ngôi đền trông thì thật cổ kính, trang nghiêm nhưng khi bước vào trong bạn
sẽ thấy gì? Một số tín đồ hành lễ ngây ngô vừa cầu nguyện, vừa rung một cái
chuông nhỏ để lời cầu xin của họ thấu đến tai các vị thần. Một số khá đông đạo
sĩ ngồi trong các tư thế du già (yoga) cực kỳ lạ lùng, khó tập luyện để tín đồ
đến bỏ tiền vào trong bát nhỏ bầy trước mặt họ. Chúng tôi có cảm tưởng như họ
làm xiếc biễu diễn kiếm ăn hơn là thực hành một pháp môn tu hành chân chánh.
Trong
khi mọi người trong phái đoàn đang quay phim những đạo sĩ ngồi trên bàn đinh,
các đền thờ to lớn, thì giáo sư Spalding thong thả đi dạo ngoài bờ sông. Ông
nhìn thấy một đạo sĩ vóc người lực lưỡng đang đi gần đó. Như có một mãnh lực vô
hình nào đó thúc đẩy, Spalding muốn vượt lên để nhìn cho rõ, ông bèn rẽ qua một
lùm cây rậm rạp, để bắt cho kịp vị đạo sĩ nọ. Vừa đi được vài bước, ông đã giựt
mình vì gặp một con rắn hổ mang to lớn chận lối. Rắn hổ là một loại rắn cực độc,
hàng năm có hàng ngàn người bị rắn cắn chết, vì ở xứ Ấn giống rắn này có nhiều
vô kể, xuất hiện khắp nơi. Tiến thoái lưỡng nan, chưa biết phải làm gì thì con
rắn đã trườn tới ngẩng cao cổ phun phì phì. Bất ngờ, vị đạo sĩ ở đâu đi đến,
ông chẳng nói gì chỉ bước thẳng vào giữa con rắn và giáo sư Spalding. Vị đạo sĩ
dơ tay vuốt nhẹ, con rắn từ từ bò vào trong bụi rậm, mất hút trước sự ngạc
nhiên của giáo sư Spalding. Vị đạo sĩ mỉm cười thong thả tuyên bố:
-
Cái phàm ngã hữu hình, hữu hoại không thể làm việc này mà đó là cái Chân Ngã
thâm diệu, cái mà ta gọi là thượng đế ngự trong tôi và muôn loài đã khiến con rắn
bỏ đi, khi hoàn toàn gạt bỏ cái phàm ngã bên ngoài để cho cái Chân Ngã tự biểu
lộ, và hành động thì không chuyện gì có thể xảy ra nữa. Bằng cách phát triển
toàn vẹn tình thương và bác ái của thượng đế cho nó xuyên qua mình và ban rải
cho muôn loài ta sẽ cảm hoá được các thú dữ. Khi ông vừa gặp con rắn, một tư tưởng
sợ hãi phát ra, và tôi đã nhận được tư tưởng này; ngoài ra hình như ông có ý muốn
gặp tôi?
Giáo
sư Spalding ấp úng:
-
Chúng tôi đang suy tầm các hiện tượng huyền bí Á châu – thú thật là tôi đang cảm
thấy hoang mang và thất vọng về những điều nhìn thấy ngoài chợ nhưng khi vừa
nhìn thấy ông, tôi linh cảm có một sự gì khác thường - Hình như có một mãnh lực
vô hình nào xui khiến.
Đạo
sĩ chăm chú nhìn giáo sư rồi ra dấu cho ông này ngồi xuống bên gốc cây cổ thụ gần
đó. Đạo sĩ lên tiếng:
-
Sáng nay trong cơn thiền định, tôi nhận được một thông điệp về các ông, do đó
tôi mới rời am thất đi dạo bên ngoài. Phải chăng các ông muốn tìm hiểu về phép
tu Du Già (Yoga)? Đáng lý không bao giờ tôi tiết lộ điều này, nhưng tôi đã nhận
thông điệp phải giúp đỡ các ông vậy thì ông cứ hỏi, tôi sẽ cố gắng trả lời tuỳ
theo sự hiểu của mình.
-
Xin ông cho chúng tôi được biết về khoa Du Già (Yoga).
Đạo
sĩ yên lặng trong chốc lát và lên tiếng:
-
Không ai biết rõ pháp môn Du Già (Yoga) bắt đầu từ lúc nào trong lịch sử. Kinh
sách Ấn độ giáo (Hinduism) nói rằng thần Shiva truyền dạy môn này cho hiền triết
Gheranda. Nhà hiền triết dạy lại cho các đệ tử của ông nhưng chỉ có Marteyanda
là lãnh hội được các tinh tuý và phổ biến trong giới trí thức thời đó.
Du
Già (Yoga) là một khoa học bao gồm nhiều thứ từ: thiên văn, địa lý, triết học,
toán học, .v..v... Pháp môn tôi được truyền dạy gọi là Hatha Yoga, chỉ là một
phần nhỏ của toàn bộ Yoga. Theo lời sư phụ tôi thì trong thời cực thịnh, Yoga
phát triển khắp nơi và lôi cuốn giới hiền triết, trí thức rất đông. Theo thời
gian, thời hoàng kim đã qua, nhân loại đã sa vào hố thẳm của sa đọa vật chất, bị
lôi cuốn vào các cám dỗ xác thịt. Để chống lại sự phá sản tâm linh này, các hiền
triết đã hội thảo để tìm một giải pháp. Sau cùng họ đi đến kết luận là cho phép
truyền dạy một phần của môn Yoga cho quần chúng, nhằm đem lại một giải pháp cho
giai đoạn lúc đó. Phần được truyền dạy này trích ở chương Yuj (cái ách) gồm các
phương pháp trói buộc tinh thần lẫn thể xác trong một kỷ luật khắc khe để đạt mục
đích tập trung Tâm và Thân làm một với bản thể trời đất. Từ đó phần này được
truyền bá khắp nơi và tồn tại đến ngày nay. Vì trích ở chương Yuj, nên nó được
gọi là Yoga. Nên nhớ đây chỉ là một phần rất nhỏ của môn Yoga nguyên thuỷ, vậy
mà phần nhỏ này cũng chỉ rất ít người hiểu rõ một cách đứng đắn. Đa số đã hiểu
sai nên mới có các lối tập luyện kỳ dị, các lối tu khổ hạnh điên rồ, các tư thế
lố bịch. Như các ông thấy, có các đạo sĩ nằm bàn đinh, dơ cánh tay lên trời cho
đến khi nó khô liệt. Sự luyện tập như thế không có ích gì mà cũng chả mang lại
một kết quả gì. Đó là những kẻ làm hoen ố danh dự một môn khoa học như Yoga. Đối
với đa số, Yoga đã bị hạ thấp xuống thành một môn thể dục để thân thể khoẻ mạnh
cường tráng.
Tuy
thế, nếu luyện thế đúng cách nó vẫn mang lại nhiều kết quả tốt cho thể xác.
Nhưng các đạo sĩ (Yogi) lại khác, họ biết rằng luyện tập môn này sẽ giúp họ
khám phá các năng lực tiềm tàng, mầu nhiệm, giúp họ đạt các phép thần thông biến
hoá.
Để
luyện ý chí, họ tập trung năng lực vào các việc như hành xác, bắt nó chịu các thử
thách cực độ như phơi nắng, dầm sương, ngồi trên than hồng, đứng bằng tay, tréo
chân lên cổ, nhịn đói, nhịn khát, lấy gươm xiên vào da thịt, .v..v…
Để
chứng minh quyền năng ý chí, họ đem trò này ra biễu diễn cho quần chúng để tìm
cách vừa kiếm tiền, vừa hưởng sự kính trọng của đám dân chúng khờ khạo. Mục
đích của Yoga đâu phải làm trò lạ mắt cho người đời kính phục.
Giáo
sư Spalding ngắt lời:
-
Nhưng ta có nên trách họ không? Nếu các đạo sĩ chân tu dấu kín các phép tu chân
truyền thì sự hiểu lầm làm sao tránh khỏi.
Đạo
sĩ mỉm cười thong thả giải thích:
-
Một ông vua có khi nào phơi bày ngọc ngà, châu báu cho mọi người coi chơi. Ông
ta cất dấu cẩn thận có phải thế chăng? Pháp môn Yoga còn gì quý bằng nên người
tu chân chính không khi nào đem rao bán ngoài chợ. Kẻ nào thành tâm muốn học hỏi
phải ra công tìm kiếm và đó là phương pháp duy nhất. Một danh sư không cần quảng
cáo rầm rộ vì không cần các đệ tử xúm vào xưng tụng. Trái lại, ông tuyển chọn đệ
tử gắt gao và chỉ truyền dạy các giáo lý bí truyền khi người đệ tử tỏ ra xứng
đáng. Khoa Yoga bí mật vì cách luyện tập rất nguy hiểm đối với người non kém,
chưa đủ khả năng. Khai mở các bí huyệt đâu phải trò chơi tầm thường .
Có
rất nhiều môn Yoga khác nhau, nhưng tôi tu luyện theo môn Hatha Yoga, nhắm việc
chủ trị xác thân trước khi chủ trị tinh thần. Lúc đầu ta phải luyện tập bắp thịt
và bộ máy hô hấp cho thật thuần thục, sau đó mới đi vào thần kinh, não tuỷ. Nếu
tập đúng cách, sức khoẻ sẽ tăng cường, sống lâu và có ý chí mạnh mẽ. Đó chỉ là
giai đoạn nhập môn, nó đòi hỏi ít nhất từ một đến bốn năm mới đáng kể. Thân thể
có cường tráng, tinh thần có dũng mãnh mới có thể tiếp tục bước vào giai đoạn kế
tiếp.
Giáo
sư Spalding gật gù:
-
Như thế môn này khác phương pháp thể dục của người Âu Mỹ thế nào? Chúng tôi
cũng có các cách khiến thân thể khoẻ mạnh.
Đạo
sĩ bật cười lớn:
-
Người Âu Mỹ biết cách làm thân thể nẩy nở trên bộ da, bắp thịt, làm sao so với
lối luyện tập của người Á châu, vốn chú trọng từ bên trong ra đến bên ngoài.
Trước hết có bốn cách thức căn bản : Nghỉ ngơi làm xoa dịu thần kinh, cân não.
Tĩnh toạ để tập trung ý chí. Điều tức để tẩy uế thân thể, khu trục các chất cặn
bã, và Khí công để kiểm soát hơi thở. Hãy lấy một thí dụ giản dị như việc nghỉ
ngơi, hãy quan sát con mèo khi nó nằm yên hay rình bên lỗ chuột. Con mèo biết
cách dưỡng sức, bảo tồn sinh lực không hao phí chút nào. Mọi cử động tư thế là
cả một sự suy nghĩ, kiểm soát để thoải mái tối đa. Người Âu các ông tưởng mình
biết nghỉ ngơi, nhưng thật ra các ông không biết gì cả. Các ông ngồi trên ghế một
lúc rồi quay bên này, ngả bên nọ. Khi thì tréo chân, lúc lại dang tay, coi thì
thoải mái nhưng trí óc các ông hoạt động liên miên từ việc này đến việc nọ. Như
thế chỉ là hoạt động ầm thầm chứ đâu phải nghỉ ngơi. Loài vật biết cách dưỡng sức
bởi vì chúng có bản năng dìu dắt mà bản năng là tiếng nói tự nhiên. Loài người
được hướng dẫn bằng lý trí, nhưng thay vì làm chủ lý trí, họ đã không kiểm soát
được bộ óc của họ, nên hậu quả là cả hệ thống thần kinh thể xác thể đều bị ảnh
hưởng. Sự nghỉ ngơi hoàn toàn gần như không có.
Giáo
sư Spalding thở dài thú nhận:
-
Đó là điều chúng tôi không bao giờ nghĩ đến, nhưng liệu ông có thể nói rõ hơn về
khái niệm sơ đẳng môn Hatha Yoga không?
-
Tôi chỉ có thể nói một vài tư thế giúp con người tăng cường sức khoẻ thôi. Có
hai mươi tư thế (Asana), mà ai cũng có thể tập luyện để tăng cường sinh lực.
Các tư thế này có ảnh hưởng đến một số bí huyệt khiến nó tác động lên các cơ
quan suy yếu, giúp nó hoạt động trở lại mạnh mẽ hơn. Khoa học Tây phương đã chứng
minh rằng ngoài các mạch máu chính, thân thể con người còn có hàng triệu các vi
ti mạch chạy khắp nơi để đưa dưỡng khí nuôi cơ thể. Nếu một cơ quan hay bắp thịt
ít hoạt động hay suy yếu, thì số lượng các vi ti mạch (capillaries) cũng giảm bớt
đi. Tập thể thao hay bơi lội có thể làm các mạch máu nhỏ này gia tăng hoạt động,
khiến cơ quan phục hồi. Cũng như thế, tập các tư thế Yoga sẽ làm luồng hoả hầu
(Prana) lưu chuyển, kích động các cơ quan từ trong khiến nó hoạt động nhưng tập
Yoga làm nó hoạt động đúng với hiệu năng sẵn có. Do đó, nó mang lại nhiều hiệu
quả thần diệu hơn. Con người không có lo gì bệnh tật nữa, nếu có bệnh cũng sẽ
khỏi hoàn toàn.
Giáo
sư Spalding lắc đầu:
-
Tôi không tin người Âu Mỹ sẽ chấp nhận việc tập Yoga chữa được hết bệnh tật.
Đạo
sĩ mỉm cười:
-
Một thân thể khoẻ mạnh, cường tráng làm sao có thể bị bệnh được? Bệnh tật là do
sự mất quân bình trong cơ thể. Người Âu Mỹ các ông chỉ biết hoạt động chứ đâu
biết nghỉ ngơi, thế đã là lý do gây nên các bệnh thần kinh rồi.
-
Thôi được, xin ông nói thêm về cách tập luyện ra sao?
Đạo
sĩ thong thả giải thích:
-
Việc đầu tiên là phải ngồi cho thoải mái, ngồi trên ghế, nhất là các ghế bành
êm ái rất có hại cho xương sống, con đường vận hà chính của luồng hoả hầu
(Prana), và là nguyên nhân gây nên các chứng đau lưng, bại xuội, phong thấp.
Phép ngồi thật ra rất dễ, chỉ cần ngồi xếp bằng dưới đất, không dựa vào đâu,
không nghiêng ngả bên nào, giữ cơ thể thật thăng bằng, xương sống phải thật thẳng
và thở nhẹ, đều đặn. Ai cũng có thể thở nhẹ trong vài phút nhưng sau đó sẽ lại
thở loạn xạ ngay. Đó là vì bộ óc quen hoạt động, quen náo nhiệt. Hãy giữ cho
lòng yên tĩnh, vắng lặng không bận rộn vào mọi chuyện vớ vẩn. Lúc đầu chưa quen
chủ trị tư tưởng thì hãy nghĩ đến một cái gì đẹp đẽ, mỹ lệ như bông hoa, giòng
suối. Đó là bước đầu cho việc nghĩ ngơi.
Giáo
sư Spalding buột miệng:
-
Như thế đâu có gì khó khăn lắm.
Đạo
sĩ bật cười:
-
Nghỉ ngơi cần gì phải khó khăn, phiền phức. Khi giữ được xương sống thẳng và thở
hít đều đặn, thì luồng chân khí sẽ lưu thông khắp cơ thể và từ đó sẽ điều chỉnh
các chỗ bế tắc, ứ đọng trong châu thân. Cách thứ hai là nằm ngửa trên mặt đất,
chân duỗi thẳng, đưa hai ngón chân cái ra ngoài. Hai tay buông xuôi bên thân
mình, mắt nhắm lại để sức nặng toàn thân phân phối đều trên sàn gạch. Nên nhớ
phải nằm trên sàn chứ không phải trên giường, nhất là giường nệm, vì giường mềm
mại khiến thân thể lệch lạc không đều. Hãy nằm cho thoải mái, không nên cố gắng
thái quá, đầu óc phải thảnh thơi, chớ suy nghĩ hay mong mỏi điều gì. Tư thế này
sẽ xoa dịu bộ thần kinh khiến nó lấy lại trạng thái quân bình. Nên nhớ nền tảng
chính của Hatha Yoga dựa trên sự nghỉ ngơi, dưỡng sức chứ không phải hành xác với
các tư thế vặn vẹo kỳ cục.
-
Nhưng Yoga có các tư thế đó cơ mà?
-
Vấn đề đứng ngồi với một tư thế đặc biệt trong một khoảng thời gian không quan
trọng, nhưng sự tập trung ý chí để thi hành tư thế đó một cách đứng đắn sẽ thúc
đẩy các mãnh lực tiềm tàng trong cơ thể con người. Những mãnh lực này là bí mật
của thiên nhiên, nó chỉ phát triển khi người luyện tập phải kèm theo một phương
pháp thở (Khí công). Tư thế giúp con người chủ trị giác quan, hơi thở giúp con
người mở cửa vào thế giới tinh thần. Nên nhớ tinh thần và thể xác luôn đi song
đôi. Không thể có một tinh thần bạc nhược trong một thể xác tráng kiện, hay
tinh thần minh mẫn trong một thể xác bệnh hoạn. Trong giai đoạn cao của Hatha
Yoga, thì hành giả sẽ phải tham thiền nhập định rất lâu, thế ngồi của thể xác
là điều quan trọng vì nó giúp sự tập trung tư tưởng được dễ dàng, giúp hành giả
tinh tấn, tăng cường ý chí….
-
Nhưng tôi vẫn thắc mắc về các tư thế kỳ lạ, vặn vẹo thân hình của Yoga như chổng
ngược đầu, vắt chân lên cổ.
-
Bạn nên nhớ, trung tâm bí mật của hệ thần kinh rải rác nhiều chỗ trong cơ thể.
Mọi tư thế có công dụng riêng, ảnh hưởng đến một bí huyệt nhất định. Nhờ kích động
các bí huyệt đó mà ta có thể ảnh hưởng các bộ phận trong cơ thể, cũng như hoạt
động trí não. Các tư thế lạ lùng chỉ dùng để kích động các bí huyệt mà thôi.
Ngoài ra không còn gì khác nữa. Bạn phải nhớ kỹ rằng ngoài các tư thế còn có
phương pháp khí công nữa, chứ không phải chỉ vận động các bắp thịt thôi. Người
Tây phương tập thể thao, vận động thể xác mạnh mẽ, tiêu phí sức lực để làm nẩy
nở bắp thịt. Người Á châu tin rằng chính cái sức mạnh ở trong mới điều khiển và
chỉ huy các bắp thịt. Bạn cho rằng phương pháp chổng ngược chân lên trời (trồng
cây chuối) là lố bịch ư? Tư thế này dồn máu xuống bộ óc do trọng lượng của nó.
Bình thường máu được đưa lên óc do sức vận động của tim. Sự khác biệt ở chỗ để
máu tự nhiên dồn xuống óc xoa dịu cân não rất có lợi cho ai làm việc nhiều bằng
trí óc và giúp quả tim ngơi nghỉ không phải cố gắng để đưa máu lên óc. Nhờ tim
được nghỉ mà tránh được các chứng đau tim. Khi thực hành các tư thế này phải cẩn
thận, làm chậm rãi, từ từ, có ý thức, giữ vững tư thế trong một thời gian,
không nên cố gắng thái quá. Nên nhớ chìa khoá là ở sự nghỉ ngơi thong thả, chứ
không phải hùng hục. Môn Yoga giúp thân thể tự động điều hoà trong sự yên tĩnh,
thăng bằng, khác hẳn các lối tập thể thao co tay, múa chân ào ạt của người Âu.
Làm thế tuy bắp thịt cơ thể nẩy nở, nhưng thân thể náo động, có hại cho thần
kinh.
Giáo
sư Spalding im lặng không thốt nên lời nào, tất cả những gì người đạo sĩ này
nói ra đều hợp lý, rất khoa học, không hề có tính chất mê tín dị đoan như ông
đã nghe các tu sĩ khác thần thánh hoá. Một người Âu trung bình vốn coi rẻ dân tộc
Á châu như loại người chậm tiến, di sản một miền nóng bức, thiếu ăn, chắc phải
ngạc nhiên khi thấy từ thời xưa người Ấn đã được giáo dục một cách tập thể dục
tối tân, tinh vi, và khoa học như thế.
Đạo
sĩ Ấn nhìn ông mỉm cười như đoán được ý nghĩ:
-
Yoga là khoa học của vũ trụ, nó không những chỉ áp dụng riêng đối với dân Á
châu, mà là khắp nơi. Tôi không thể đi sâu vào chi tiết nhưng dù sao duyên hội
ngộ lần này cũng tốt đẹp. Tôi giúp ông bạn một chìa khoá bí truyền này. Luật
thiên nhiên định rằng trung bình con người thở với số nhịp là 21.600 lần mỗi
ngày. Sự hô hấp quá nhanh làm gia tăng nhịp điệu nói trên và thu ngắn sự sống.
Sự hô hấp chậm rãi, kéo dài, đều đặn là tiết kiệm sinh lực và kéo dài sự sống,
đó là bí quyết khoa Khí công. Mỗi hơi thở tiết kiệm sẽ tích tụ lại thành một số
dự trữ giúp ta kéo dài sự sống. Các đồ ăn có chất kích thích hay hút thuốc làm
cho hơi thở dồn dập, giảm số lượng dưỡng khí vào phổi , tất nhiên làm ta giảm
thọ nhanh. Có lẽ ông bạn còn nghi ngờ? Khoa Yoga ý thức rất rõ sự liên quan chặt
chẽ giữa cơ quan hô hấp và tuần hoàn. Cả hai cơ quan này liên hệ mật thiết với
hệ thần kinh. Bộ thần kinh là chìa khoá vào cánh cửa tâm linh, do đó, hơi thở
chính là lối vào tinh thần. Nhưng hơi thở chỉ là sự biểu lộ trên địa hạt vật chất
của một sức mạnh tế nhị hơn. Sức mạnh này mới là cột trụ sinh hoạt xác thể, và
chính cái sức mạnh vô hình, vô ảnh ẩn tàng trong cơ thể chúng ta mới thực sự điều
khiển đời sống. Khi nó rời xác thân thì hơi thở ngừng lại và sự chết đến. Sự kiểm
soát hơi thở giúp ta làm chủ một phần nào luồng sinh lực vô hình này. Khi sự chủ
trị thân xác được thực hiện đến mức cao siêu, con người sẽ kiểm soát được sự vận
động các cơ quan trong thân thể như tim, gan ,bao tử, phổi…
-
Làm sao có thể được, tim ngừng đập là chết rồi còn gì? – Giáo sư Spalding kêu lớn.
-
Bạn không tin ư, được bạn hãy để tay lên ngực tôi.
Giáo
sư Spalding để tay lên ngực đạo sĩ và tay kia bắt mạch. Một sự rung động lạ
lùng xảy ra, nhịp tim đập của đạo sĩ từ từ chậm dần và ngưng hẳn. Đây là một ảo
tưởng ? Giáo sư vội đưa tay xem đồng hồ, đúng một phút im lặng, rồi quả tim bỗng
bắt đầu đập trở lại. Đạo sĩ mỉm cười giải thích:
-
Bây giờ thì ông tin rồi chứ? Có lẽ ông nghĩ rằng điều này phản khoa học, tôi
xin lấy thí dụ sau mà ông có thể kiểm chứng được. Con voi thở chậm hơn con khỉ
do đó nó sống lâu hơn. Quan sát lối hô hấp loài vật như con rắn chẳng hạn, nó
thở rất chậm nên sống lâu hơn con chó. Nếu nghiên cứu kỹ, bạn sẽ thấy sự liên hệ
mầu nhiệm giữa hơi thở và sự sống lâu. Một kẻ sống đời êm đềm, sống lâu hơn người
có đời sống vội vã, náo nhiệt. Có các giống dơi ngủ suốt mùa đông. Chúng treo cẳng
trên vách đá ngưng thở nhiều tháng, và chỉ tỉnh giấc khi xuân đến. Con gấu cũng
ngủ suốt mùa đông như thế. Tại sao loài vật làm được mà loài người lại không
làm được? Đó đâu phải phản khoa học hay phản thiên nhiên. Vì các khoa học gia kết
luận rằng điều này không thể xảy ra nên không bao giờ họ nhìn thêm điều gì nữa.
Đối với người Á châu, bất cứ việc gì cũng có thể xảy ra và thiên nhiên là ông
thầy rất tốt.
-
Nhưng như thế đâu có lợi gì, sống lâu thêm vài tháng, vài giờ…
Đạo
sĩ mỉm cười một cách bí mật trả lời:
-
Một ngày nào đó, bạn sẽ hiểu lời tôi nói. Tôi không thể giải thích gì thêm lúc
này. Bạn có tin rằng nếu luyện tập pháp môn này đến mức cao siêu, ta có thể thắng
đoạt tử thần không ? Bạn đồng ý rằng ngưng thở là chết, và nếu ta giữ được hơi
thở thì ta bảo tồn sự sống có đúng không?
-
Dĩ nhiên là như thế.
-
Bạn thân mến, một đạo sư có thể cầm giữ hơi thở không những trong nhiều tuần,
nhiều tháng, nhiều năm và nhiều thế kỷ, tức là họ có thể kéo dài sự sống theo ý
muốn có đúng không? Ông bạn đã đồng ý rằng hơi thở ở đâu tức là sự sống ở đó
kia mà.
-
Nhưng làm sao có ai giữ được lâu như thế?
-
Khi bạn lên dãy Hy Mã Lạp Sơn, bạn sẽ gặp những người này và điều này không lạ
lùng như bạn nghĩ. Khoa Yoga chân truyền
có thể đem lại nhiều quyền năng bất ngờ, lạ lùng, nhưng đã mấy ai khổ công tập
luyện. Trong thời buổi điên đảo hiện nay, con người mê mải trong danh lợi, phù
phiếm, các ảo ảnh cuộc đời, làm gì có thì giờ suy nghĩ đến sinh hoạt tâm linh.
Đó cũng là lý do những người thực sự mong muốn một trạng thái tâm linh thường ẩn
mình nơi hoang vắng, các bậc đó không bao giờ phải đi tìm đồ đệ mà người tìm đạo
phải đi kiếm các ngài…
Giáo
sư Spalding thắc mắc:
-
Nhưng sống lâu trong hoang vắng để làm gì chứ?
-
Hiện giờ đầu óc bạn vẫn còn suy nghĩ như người Âu, nghĩa là lý luận theo một
chiều. Muốn học hỏi bạn phải cởi bỏ các thành kiến sẵn có, thì mới mong học hỏi
những điều mới lạ. Một thời gian nữa bạn sẽ hiểu điều tôi muốn nói . Dĩ nhiên, các
bậc chân sư kéo dài đời sống vì những lý do chính đáng, cao cả chứ đâu tham sống
sợ chết như người thường. Trên dẫy tuyết sơn có những vị đã sống cả trăm năm,
có vị sống đến cả ngàn năm. Tất cả đều có những sứ mạng riêng nên họ giữ nguyên
thể xác. Một đạo sĩ thấp kém như tôi không đủ kiến thức để có ý kiến. Tôi cho bạn
biết trước một điều, bạn sẽ cầm về Anh móng tay của một vị Lạt Ma đã sống hơn bốn
trăm năm.
-
Liệu ông có thể cho chúng tôi biết làm cách nào để kéo dài đời sống như thế được?
-
Có ba phương pháp kéo dài sự sống. Phương pháp thứ nhất là luyện tập tất cả các
tư thế (asana) cùng với môn khí công bí truyền cho thật thuần thục tuyệt hảo.
Phương pháp này chỉ có thể thực hiện dưới sự chỉ dẫn của một vị danh sư đã có
kinh nghiệm vì sai một ly đi một dặm, đó là chưa kể người tập phải có một nếp sống
tinh khiết, trong sạch hoàn toàn. Một ý niệm xấu khi thiền định có thể làm loạn
động hơi thở đưa đến tình trạng “tẩu hoả nhập ma”, điên loạn hoặc chết ngay.
Phương pháp thứ hai là sử dụng dược chất, pha chế các loại thuốc đặc biệt các
loại cây cỏ hiếm hoi, phương pháp này cũng chỉ một thiểu số biết cách bào chế
và chỉ truyền lại cho các đệ tử riêng. Phương pháp luyện đơn này chỉ được dùng
trong trường hợp đặc biệt vì nó có các hiệu quả không thể lường được. Phương
pháp thứ ba là lối mở các kinh kỳ bát mạch, sinh tử huyền quan rất khó giải
thích theo khoa học thực nghiệm. Tôi chỉ có thế nói như thế còn tin hay không
là quyền của ông. Trong óc con người có một lỗ trống rất nhỏ nằm sâu bên trong,
và có một nắp đậy bên ngoài . Nơi cuối cùng của đốt xương sống là sào huyệt của
luồng hoả hầu Kundalini. Sự truỵ lạc, trác táng làm tiêu hao sinh lực, khiến
con người trở nên già nua, cằn cỗi. Trái lại, nếu biết kiểm soát ta có thể tiết
kiệm sinh lực. Khi một người làm chủ toàn xác thân, y sẽ kiểm soát được luồng
hoả hầu này. Chỉ những đạo sĩ Yogi thượng thặng mới dám luyện tập đến luồng hoả
hầu, khiến nó thức tỉnh đi ngược lên trên theo xương sống khai mở các bí huyệt,
các trung tâm quan trọng nằm dọc theo lộ trình. Khi mở được nắp đậy lỗ hổng
ngay trong óc để luồng hoả hầu Kundalini chui vào cư ngụ nơi đây, ta sẽ khai mở
nhiều quyền năng, cải lão hoàn đồng kéo dài sự sống. Sự khó khăn nhất là việc mở
được cái nắp đậy trên óc, việc này có khi cần sự trợ giúp của một danh sư sử dụng
nội lực giúp y đả thông kinh kỳ bách mạch. Việc này rất khó vì kẻ táo bạo luyện
công dễ mất mạng như chơi. Người thành công có thể kéo dài sự sống như ý muốn
và khi chết thể xác họ vẫn tươi tốt như khi còn sống, và không hề hư hại…
Giáo
sư Spalding im lặng, tất cả những điều vị đạo sĩ tiết lộ, thật lạ lùng, ngoài tầm
hiểu biết của khoa học. Chắc chắn khoa sinh lý học không thể chấp nhận luồng
sinh lực vô hình này. Có lẽ nó xuất phát từ trí tưởng tượng của các đạo sĩ chất
phác, mê tín chăng? Có nên tin hay không?
Như
đọc được tư tưởng của giáo sư, đạo sĩ mỉm cười:
-
Tôi biết ông bạn nghi ngờ vì các điều đó hoàn toàn trái với lý thuyết khoa học
nhưng bạn hỡi, minh triết bao trùm mọi khoa học, nó là khoa học vũ trụ, so với
môn khoa học thực nghiệm thì môn này chỉ là một mãnh vụn.
-
Một ngày nào đó, khoa học sẽ tiến đến vấn đề tôi vừa trình bày, lúc đó tình trạng
hiểu biết của nhân loại đã tiến hoá cao hơn bây giờ, nên có thể hiểu biết một
cách chính xác hơn. Bạn nên hiểu luật vũ trụ định rằng khoa học thực nghiệm phải
luôn luôn đi song song với sự tiến hoá của nhân loại. Vài trăm năm trước có phải
khoa học lúc đó thật là ấu trĩ so với bây giờ hay không? Nếu đi ngược dòng lịch
sử, bạn có thấy rõ mực tiến hoá của khoa học và nhân loại luôn luôn bổ túc cho
nhau không? Thời tiền sử, nói về nguyên tử lực là điều vô lý và có nói cũng chả
ai hiểu. Thời Trung Cổ, nếu có giảng giải về không gian sẽ bị kết án là phù thuỷ.
Lịch sử Âu châu đã chứng minh rằng những người thông minh quá đều bị chế nhạo,
là điên khùng rồi bị thiêu sống. Đó cũng là lý do các bậc danh sư không hề xuất
hiện và các phương pháp tu hành được gìn giữ cẩn thận, bí mật, chỉ những người
thành tâm mới được dạy bảo.
-
Nhưng có cách nào một người Âu như tôi được truyền dạy các điều này không?
-
Được lắm chứ, nhưng liệu bạn có sẵn sàng từ bỏ chốn phồn hoa đô hội để ẩn mình
nơi hoang vu, tịch mịch tu học không?
-
Điều này…cũng được, nhưng tôi phải thu xếp công việc đã….
-
Bạn có sẵn sàng từ bỏ mọi hoạt động vui thú phàm thục để hoàn toàn dành cho việc
thực hành pháp môn Yoga – không phải vài ngày, vài giờ, mà trọn đời.
-
Nhưng chẳng lẽ trọn đời chỉ có làm thế thôi…có lẽ khi tôi già đã…
Đạo
sĩ bật cười:
-
Bạn mến, Yoga không phải một trò tiêu khiển trong lúc nhàn rỗi hoặc khi tuổi
già bóng xế. Người Âu các ông sao ham hoạt động và tham lam quá vậy?
Giáo
sư Spalding đỏ mặt cãi:
-
Nhưng tập Yoga để làm gì? Kéo dài đời sống khổ hạnh thêm vài năm có ích lợi gì
đâu?
Đạo
sĩ nghiêm mặt:
-
Ai bảo mục đích Yoga là cầu sống lâu? Sống khổ hạnh mà không có ý nghĩa để làm
gì? Phần lớn các đạo sĩ luyện thân thể cường tráng sống lâu hơn người khác chưa
thấu hiểu được mục đích tối hậu. Bạn nghĩ các bậc chân sư chỉ lo sống thêm ít
lâu thôi hay sao? Người đời thường chỉ hiểu một chiều, và đi ngay đến kết luận.
Chinh phục thể xác chỉ là bước đầu đưa con người đến việc chinh phục tinh thần.
Giữ cho mình không hành động xấu thì dễ nhưng giữ cho tâm không nghĩ xấu mới
khó khăn gấp bội, và đòi hỏi nổ lực phi thường. Đời người quá ngắn, việc tập
luyện kiểm soát thể xác đã đòi hỏi nhiều năm, không đủ để tu tập tinh thần. Do
đó, các đạo sĩ mới kéo dài thêm đời sống. Môn Hatha Yoga như tôi nói chỉ nhắm mục
đích chủ trị xác thân, khi thành công phải tu tập thêm Raja Yoga nhắm chủ trị
tinh thần nữa chứ. Hatha Yoga dọn đường cho Raja Yoga…
-
Thế tại sao ta không tập Raja Yoga ngay có hơn không?
Đạo
sĩ lại bật cười:
-
Người Âu thật hấp tấp, muốn đi xa phải đi từ từ, phải tập đi trước khi tập chạy
chứ. Đốt giai đoạn là bảo đảm thất bại. Khi thể xác chưa làm chủ nổi thì làm
sao đã đòi làm chủ tinh thần…
Giáo
sư Spalding nôn nóng:
-
Nhưng làm sao tôi có thể học môn Raja Yoga, bạn có thể chỉ cho tôi thêm về môn
này không?
-
Này ông bạn, việc gì cũng có duyên phận, nếu đủ duyên bạn sẽ gặp thầy hay bạn
giỏi. Hãy có một lòng khao khát chân lý rồi định mệnh sẽ dẫn dắt bạn.
-
Nhưng tôi đâu quen biết ai, các bậc chân sư đâu có tên trong điện thoại niên
giám – tôi làm sao gặp các ngài?
Đạo
sĩ mỉm cười một cách bí mật:
-
Hãy vững niềm tin, lòng khao khát cầu đạo có một tư tưởng mạnh mẽ và chắc chắn
sẽ được đáp ứng. “Hãy gõ cửa rồi cửa sẽ mở, hãy tìm rồi sẽ gặp”, bạn quên rồi
sao?
Giáo
sư Spalding giật mình, một lần nữa câu nói quen thuộc trong Kinh thánh lại được
nhắc nhở bởi một đạo sĩ xứ Ấn. Ông bối rối không biết nói gì. Đạo sĩ mỉm cười
nói tiếp:
-
Người Âu có tính tò mò, cái gì cũng muốn biết. Thực hành mới là quan trọng, chứ
biết suông để làm gì? Phương pháp rèn luyện tinh thần cũng giống như thể xác
thôi. Nếu tập luyện thể thao đều đặn thì bắp thịt sẽ nảy nở, rắn chắc; thì rèn
luyện tinh thần cũng vậy. Nhiều người có các tính xấu như ích kỷ, tham lam, hà
tiện, đa nghi… Do đó, họ hành động không tốt với người khác. Đa số cho rằng đó
là bản tính tự nhiên, không đổi được. Thật ra, nếu muốn ta có thể sửa đổi mọi
tính tình. Nếu một tập luyện đúng cách làm bắp thịt nở nang thì sự kiểm soát
thích nghi sẽ tạo các đức hạnh cần thiết. Kinh RigVeda đã ghi rõ: “Kẻ nào quan
niệm sự tiến hoá một cách rõ ràng chính xác sẽ ý thức được quyền lợi và hạnh
phúc của mình. Muốn trở nên một bậc toàn thiện ta phải có các đức hạnh và can đảm.
Người nào muốn cải thiện xã hội phải biết cải thiện mình trước đã. Phải biết
quên quyền lợi riêng để chú tâm vào phận sự chung. Phải hiểu rằng các cơ hội tiếp
xúc với mọi người đều tạo cho ta cơ hội phụng sự. Phụng sự mọi người chính là
phụng sự thượng đế. Những người nhiệt tâm sửa mình phải ý thức quyền năng vô hạn
của tư tưởng vì hành động phát sinh từ tư tưởng. Người tìm đạo phải biết kiểm
soát tư tưởng của mình và sử dụng chúng một cách hợp lý và bác ái. Kiểm soát tư
tưởng là mục đích của môn Raja Yoga. Trở ngại lớn nhất của những người luyện
tâm, rèn chí là sự kiêu ngạo và óc chỉ trích. Với óc chỉ trích, con người công
kích tất cả họ sẵn sàng bôi nhọ mọi đức hạnh, tìm sự sai quấy ở khắp mọi người.
Người tu pháp Raja Yoga phải có thái độ ngược lại, phải tìm thấy điều thiện ở tất
cả mọi người và nhìn thấy mọi sự đều có cái lý riêng của nó. Có thế họ mới giúp
mình và người khác được. Trở ngại thứ hai là sự nông nổi, làm điều này chưa
xong, đã nhảy sang việc khác. Vừa bắt tay vào việc đã mong thấy kết quả và nếu
kết quả chưa như ý muốn liền bỏ điều theo đuổi, để nhảy sang một điều khác. Rốt
cuộc không có điều gì xong cả. Thái độ này không thể chấp nhận được. Sự bền tâm
kiên chí là điều cần thiết để chủ trị tư tưởng. Dĩ nhiên, kiếp người ngắn ngủi
không ai có thể trừ hết thói hư, tật xấu trong một kiếp, do đó, việc tu hành
cũng kéo dài trong nhiều kiếp sống. Khi đó họ sẽ ý thức các sự kiện vĩ đại của
sự sống vô cùng và rời bỏ cái bản ngã để hoà mình vào dòng tiến hoá của vũ trụ,
hoà nhập với Chân Ngã bất diệt.
-
Như thế môn này sẽ giúp ta trở nên một vị thánh?
-
Này ông bạn, đừng nên kết luận vội vàng. Con đường dẫn đến quả vị tiên thánh
đâu phải chỉ có một. Có nhiều con đường đưa đến chân lý và không đường nào hơn
đường nào. Đây là một điều vô cùng quan trọng mà bạn phải ghi nhớ mãi mãi.
Không một con đường nào hơn đường nào dù là Hatha Yoga hay Raja Yoga hay là môn
gì chăng nữa. Tại sao ta cứ nghĩ pháp môn này mới hay, tôn giáo kia mới tốt?
Không một đường nào có thể là duy nhất được. Tốt hơn cả hãy tự biết mình. Thay
vì tìm một chân lý tuyệt đối, hãy tìm sự tuyệt đối nơi mình vì chân lý để sống
chứ không phải để dạy.
Giáo
sư Spalding im lặng không thốt lên câu nào. Lời nói của đạo sĩ như có một sức mạnh
vang dội trong lòng ông. Các thành kiến từ trước bỗng tan biến hết và ông cảm
thấy xúc động vô cùng.
Đạo sĩ mỉm cười:
Đạo sĩ mỉm cười:
-
Này ông bạn, không một vị thánh nào vỗ ngực xưng danh mà chỉ có các kẻ còn u mê
trong bản ngã mới tha thiết đến danh vọng, địa vị. Khi họ đeo đầy mình những chức
tước, thì làm sao họ giải thoát được ? Thượng đế ban cho ta trí thông minh để
nhận xét thì ta phải biết phân biệt chứ. Hãy nhìn thành Benares với cả trăm đền
thờ khác nhau, hàng ngàn giáo sĩ, tông phái. Ai cũng tự nhận rằng phe mình gần
thượng đế nhất. Tại sao suốt hai năm nay phái đoàn các ông đã đi khắp nơi, thăm
viếng mọi chỗ mà vẫn không thoả mãn Phải
chăng vì sự hiểu biết phân biệt của các ông đã cao, không chấp nhận sự mê tín,
mù quáng nữa. Kinh Gita nói rõ: “Thầy nào, trò nấy. Một tu sĩ chân chính không
có đệ tử bất hảo, và một đệ tử thông minh không tìm thầy bất lương”. Luật thiên
nhiên đã dạy “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Một người sáng suốt
đâu thể đi theo kẻ u mê… Một tu sĩ hiểu biết phải lo làm chủ chính mình để cầu
giải thoát chứ đâu phải lo lôi kéo đệ tử cho đông, xây cất các đền đài cho đẹp,
để tự hào về các thành quả này. Như thế là phô trương bản ngã, kiêu căng, ngã mạn
làm sao còn giải thoát được. Bạn hãy sử dụng lý trí và trực giác để phân biệt
những người này, nếu bạn tha thiết mong cầu chân lý thì chắc chắn điều mong ước
sẽ thành sự thật. Chúng ta gặp nhau thế này cũng đã quá đủ, đã đến lúc tôi phải
trở về am thất.
-
Nhưng làm sao tôi sẽ gặp lại ông… tôi chưa biết tên ông.
-
Hãy gọi tôi là Bramananda.
Giáo
sư Spalding yên lặng nhìn vị đạo sĩ khuất dần qua hàng cây rậm rạp. Bóng chiều
từ từ rơi xuống trên sông Hằng.
xem tiếp: * Chương III: Khoa học thực nghiệm và Khoa học chiêm tinh bí truyền
xem tiếp: * Chương III: Khoa học thực nghiệm và Khoa học chiêm tinh bí truyền
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...