Vào
tháng 4.1996, trường Đại Học Los Angeles long trọng tổ chức kỷ niệm Lễ Phục
Sinh năm nay bằng một Hội Nghị Khoa Học với chủ đề "CHÚA JESUS TRÒN 2000
TUỔI".
Theo sách World Facts and Dates thì Chúa Jesus sinh vào năm thứ
tư trước Công Nguyên, vì vậy năm 1996 Chúa vừa tròn hai ngàn tuổi. Nhân loại
không cần phải đợi tới năm 2000 mới làm lễ kỷ niệm ngày sinh nhật số một này.
Ngoài ra, Tòa Thánh cũng tổ chức một Hội Nghị Thượng Đỉnh bàn về
Phục Sinh (The Surrection Summit) tại một chủng viện ở New York, qui tụ các
giáo sư thần học, các học giả về ngành triết học , sử học, và khảo cổ để tất cả
hãy cùng nhau "Suy nghĩ lại về sự phục sinh của Chúa Kitô".
Cuộc họp này kéo dài 4 ngày, từ 8 đến 11.4.1996, dưới sự chủ tọa
của LM Gerald O ' Coollins, giáo sư thần học tại Đại Học Jesuits ' Gregorian ở
Rome. Tất cả các tham dự viên đều là những giới chức trí thức cao cấp trong
Giáo Hội Công Giáo, chỉ có một người duy nhất là Alan Ségal, theo đạo Do Thái,
giáo sư đại học Bernard ở New York. Hội nghị xác định: Niềm tin vào sự Phục
Sinh của Chúa Jesus-Kitô là căn bản của giáo lý Kitô. Đúng như sự khẳng định của
Thánh Phaolô trong thư Ngài viết cho giáo dân ở Corinth: "Nếu
Chúa Jesus không sống lại từ cõi chết thì đức tin của chúng ta đều trở thành vô
ích". Quả vậy, niềm tin Kitô là niềm tin được sống lại sau khi chết. Nếu
Chúa đã không sống lại thì Chúa không còn là đấng linh thiêng vượt trên tất cả
mọi người. Nói cách khác, Chúa không còn là Chúa nữa. Thánh Phao lô còn nhấn mạnh
thêm là sự Phục Sinh của Chúa là trung tâm tín lý vì nếu không có chuyện Phục
Sinh thì đã không có Giáo Hội Ki Tô !
Câu chuyện kể việc Chúa chết 3 ngày sống lại đã là một chuyện
đàm tiếu số một trong nhiều giới xã hội ngay từ buổi sơ khai của đạo Kitô. Người
Do Thái ở Jerusalem cho đó là chuyện bịa đặt để tôn vinh một tên tội
phạm chính trị lên thành một "Ông Con Trời" (Son of God). Giới trí thức
Hy Lạp thời đó cũng tin xác loài người sau này sẽ sống lại, nhưng đó là sự sống
lại tập thể của toàn nhân loại chứ không solo độc diễn như trường hợp của Chúa.
Họ gọi sự sống lại của Chúa là chuyện nhảm nhí của bọn cố chấp.
Trải qua 2000 năm lịch sử, mọi người đều phải công nhận là câu
chuyện Phục Sinh của Chúa Jesus quả có sức thu hút thật mãnh liệt. Triết gia Đức
Ernt Block nhận định: "Chính cái Huyền Thoại Phục Sinh của Chúa, chứ
không phải Bài Giảng Trên Núi (Sermons on the Mount) của Ngài, đã chinh phục đế
quốc La Mã".
Ngày nay, cứ đến dịp lễ Phục Sinh, hơn một tỷ tín đồ Kitô Giáo
khắp thế giới qui tụ thật đông đảo tại các thánh đường để tưởng niệm cái chết
đau thương của Ngài vào Chiều Thứ Sáu Tuần Thánh (Good Friday). Hôm sau, thứ bảy
là cả một ngày các thánh đường đượm mùi tử khí của nhà mồ với lễ Hôn Chân Chúa
(Holy Saturday). Sáng hôm sau, chủ nhật, bỗng nhiên cả đất trời bừng sáng hẳn
lên với Tin Mừng Chúa đã chiến thắng sự chết để Sống Lại Hiển Vinh (Easter
Sunday) !
Tất cả chỉ là những màn hoạt cảnh được diễn đi diễn lại tại các
nước có đạo Kitô trong 2000 năm qua. Nhưng lạ một điều, sau khi Cộng Sản Nga và
Đông Âu sụp đổ vào các năm 1989 - 91, đạo Kitô đã bị lâm vào một tình trạng bất
ổn. Dường như đạo Kitô đã trở nên không còn cần thiết cho mục tiêu chiến lược
Chống Cộng của quyền lực quốc tế nữa. Một phong trào xét lại toàn bộ giá trị của
đạo Kitô đã được "bật đèn xanh" và đột nhiên bùng lên dữ dội trong
các giới trí thức học giả trên toàn thế giới.
Chỉ trong 5 năm, từ 1990 đến 1995, có tới dăm chục cuốn sách và
mấy trăm bài báo mổ xẻ đủ khía cạnh chung quanh đề tài Phục Sinh của Chúa. Các
học giả khơi lại không khí bài bác Kitô của Phong Trào Enlightenment thế kỷ 18 ở
Âu Châu. Họ bươi móc đủ thứ chứng cớ lấy ra từ những kho sách cổ, khoa học thực
nghiệm hay khoa khảo cổ học để tấn công Chúa Jesus của sự thờ phượng (the
Cultic Jesus).
Thực ra, cách đây 150 năm, triết gia Đức David Strauss đã nêu
lên vấn đề này trong tác phẩm "The life of Jesus critically examined"
với lập luận cho rằng: Các tín đồ đầu tiên của đạo Ki Tô đã cố tìm mọi cách để
gán cho Jesus đủ thứ huyền thoại về một Đấng Cứu Thế mà mọi người mong đợi.
Ngày nay chúng ta phải tìm cho ra một "Jesus thật" ẩn núp đàng sau
"Jesus của những huyền thoại" đó.
Tới thế kỷ 20, người ta mới ra sức đi tìm "Jesus thật"
(the Real Jesus) mà cựu linh mục tiến sĩ John Dominic Crossan gọi là
"Jesus của lịch sử" (The Historical Jesus). Jesus thật hoặc Jesus của
lịch sử hoàn toàn khác với Jesus của huyền thoại hiện đang được các tín đồ tôn
thờ.
Đặc biệt trong mùa Phục Sinh năm 1996, cả ba tờ tuần báo lớn nhất
nước Mỹ là Time, Newsweek và U.S News and World Report đều đồng loạt ra ngày
8.4.96 với hình bìa in ảnh Chúa sống lại và những bài báo nẩy lửa tố cáo chuyện
Phục Sinh của Chúa như một chuyện bịp lớn nhất trong lịch sử nhân loại.
Hầu hết các sách và các hội nghị khoa học về Chúa Kitô đều phủ
nhận sự phục sinh của Ngài. Ngay những nhà truyền giáo của đạo Tin Lành cũng phải
nhìn nhận sự phục sinh của Chúa đã trở thành một gánh nặng (a burden) cho tín
lý đạo Kitô, vì nó đã là một trở ngại lớn nhất cho việc truyền giáo trong giới
trí thức hiện nay.
Nhiều nhà truyền giáo cấp tiến đề nghị hủy bỏ tín điều Phục Sinh
để dễ dàng nhận rõ cái vai trò đích thực của Chúa là một nhà cải cách xã hội (a
social reformer) hơn là nhìn về Ngài qua lăng kính sai lầm của huyền thoại.
Theo kết quả điều tra của Viện Harris thì trong thời đại hiện
nay, cái huyền thoại phục sinh của Chúa đã làm cho số tín đồ Kitô Giáo giảm sút
mau lẹ. Chỉ riêng trong năm 1994, số tín đồ Kitô Giáo Hoa Kỳ đã giảm mất 13%.
Theo cuộc điều tra của một tổ chức Công Giáo tại Glendale (California) vào
tháng 3.1996, có tới 30% tín đồ Kitô Giáo Hoa Kỳ không còn tin chuyện sống lại
của Chúa nữa.
Học giả Đức Gerd Luderman, chuyên gia khảo cứu Kinh Thánh, tuyên
bố: "Phục Sinh là công thức rỗng tuếch cần phải được gạt bỏ bởi bất cứ ai
có cái nhìn của thời đại khoa học ngày nay."
Trong cuốn What really happened to Jesus? (Westminter John Knox
Press), Luderman viết: "Thân xác Jesus đã thối rữa trong mồ". Người đặc
biệt nhất là giáo sư John Dominic Crossan, cựu linh mục Công Giáo, giáo sư lâu
năm tại Đại Học De Paul Chicago, đã từng đoạt nhiều giải thưởng của Hàn Lâm Viện
Mỹ về các công trình nghiên cứu lịch sử của đạo Kitô của ông. Trong tác phẩm
Who killed Jesus (Harper Collins), giáo sư Crossan nhận định: "Ngôi mộ trống
rỗng không phải là bằng chứng của sự Phục Sinh mà chỉ có nghĩa là xác Chúa
không còn ở trong đó nữa, càng không có nghĩa là Chúa đã "bay lên trời",
vì lúc đó xác Chúa đã bị chó hoang vào ăn mất tiêu rồi !". Theo luật La
Mã, xác của các tử tội bị đóng đinh đều bị lính La Mã đem vứt cho thú hoang hoặc
kên kên ăn thịt, không một thân nhân tử tội nào được phép đặc cách lãnh xác về
chôn cả !.
Năm 1947, các nhà khảo cổ đã phát giác một kho sách cổ gồm trên
một trăm cuốn viết trên da lừa, trên các thanh gỗ hoặc thanh đồng, được viết
vào thế kỷ IV trước Công Nguyên đến thế kỷ I đầu Công Nguyên. Kho sách quí này
được tìm thấy tại Qumran thuộc vùng sa mạc gần Biển Chết nên được mệnh danh là
"The Dead Sea Scrolls". Sự khám phá này của ngành khảo cổ
đã đem lại cho các học giả nghiên cứu tôn giáo cơ hội tìm hiểu nhiều bí mật của
đạo Do Thái và đạo Kitô.
Nữ học giả Úc Barbara Thiering đã căn cứ vào các tài liệu trên để
hoàn thành tác phẩm rất nổi tiếng "Jesus and the riddle of the Dead
Sea Scrolls" (Harper Collins). Báo Newsweek ra ngày 8.4.96 cho biết
cuốn sách này là cuốn sách bán chạy nhất thế giới trong năm. Theo sự nghiên cứu
của tác giả thì Chúa Jesus không chết trên thập giá, Ngài chỉ "có vẻ như
chết" mà thôi. Lúc đang bị treo trên thập giá, Jesus kêu khát nước. Một sĩ
quan La Mã đã dùng cây giáo đưa miếng bọt bể (sponge) có thấm một thứ thuốc độc
phản ứng chậm (a slow-acting poison) cho Jesus nhắp. Liều thuốc độc có phản ứng
chậm này do một tín đồ của Jesus tên Simon Magus đã chế ra. Kinh Thánh gọi đó
là "chén đắng" hoặc "dấm". Sau khi uống chất "dấm"
hóa học này, Jesus có vẻ như chết nhưng thực sự chưa chết mà chỉ ở trong tình
trạng hôn mê (coma). Viên sĩ quan trưởng toán hành hình là Longinus lấy chiếc
giáo quệt nhẹ (không đâm) vào cạnh sườn Jesus tạo thành một vết trầy cốt để thử
xem Jesus phản ứng ra sao. Sau khi thấy Jesus không giật mình cựa quậy gì cả, mọi
người tưởng Jesus đã chết rồi. Longinus có lý do chính đáng để tha không đập gẫy
hai xương ống chân của Jesus. Trong khi đó, hai người cùng bị đóng đinh một lượt
với Jesus lúc đó còn sống đều bị lính La Mã đập gẫy ống xương chân. (Xin chú ý
một điều đây là một biệt lệ chưa từng có và là một đặc ân khác thường mà trưởng
toán hành hình Longinus cố ý dành riêng cho Jesus vì viên sĩ quan này là đệ tử
bí mật của Ngài). Hai tử tội kia, sau khi bị đập gãy ống xương chân, sức nặng
thân xác làm toàn thân họ bị chùng xuống vì không còn chân đỡ và sự quá đau đớn
làm họ ngất xỉu, đầu họ rũ xuống ngực khiến cho cổ bị nghẹt không thở được, nạn
nhân chết ngộp trong khoảnh khắc. Nếu lính La Mã đập gẫy hai ống xương chân của
Jesus thì lịch sử nhân loại đã thay đổi và có thể thế giới đã trở nên tốt đẹp hạnh
phúc hơn ngày nay bội phần vì ít nhất đã không bị Công Giáo La Mã làm cho nền
văn minh nhân loại bị lùi lại 15 thế kỷ!.
Chỉ vài giờ sau khi uống thuốc đắng độc chất hóa học, Jesus đã
được đồ đệ tháo xác và đem đi cấp cứu. Vài ngày sau Ngài phục hồi sức khỏe và gặp
người vợ yêu quí của Ngài là bà Magdelene. Bà Magdelene nguyên là một cô gái điếm
nhưng rất mực yêu thương Jesus. Bà không được Kinh Thánh nhắc nhở nhiều vì sợ
làm mất đi sự tôn nghiêm của "Thiên Chúa Hóa Thân" và vì thế bà không
được Vatican phong thánh! Bà đã có 3 đứa con với Jesus nhưng sau đó
Jesus đã bỏ bà để lấy cô gái Lydia trẻ đẹp. Nhiều học giả nghiên cứu
Thánh Kinh không tin những chuyện nói trên nhưng họ cho rằng những chuyện trong
Thánh Kinh kể về sự phục sinh của Chúa cũng chẳng có giá trị gì hơn.
Tuần báo U.S News and World Report số ra ngày 8.4.96 đã viết:
"Áp dụng phương sách phân tích văn bản và các qui luật xác định chứng liệu,
50 giáo sư chuyên khoa tôn giáo của hội nghị * đã kết luận cho rằng chưa tới
20% những lời nói và hành động của Jesus trong Thánh Kinh là đúng sự thật. Nhất
là những lời cầu nguyện hoặc lời nói của Jesus trên thập giá và những điều ám
chỉ Jesus là Thiên Chúa, là được sinh ra bởi bà mẹ đồng trinh, là đấng làm phép
lạ, là đấng đã sống lại từ cái chết". (Applying some conventional methods
of textual analysis and other disputed rules of evidence, the seminar made up
of about 50 religion professors conclude that no more than 20 percent of the
sayings and even fewer of the deeds attributed to Jesus are authentic. Among
the castoffs: the Lord's prayers, the sayings on the cross and any claims of Jesus
to divinity, the virgin birth, most of his miracles and his body resurrection)
Kinh Thánh không đưa ra được một nhân chứng nào về sự phục sinh
của Chúa Kitô. Đến nỗi vị thánh nổi tiếng về thần học là Thánh Ignatius cũng
còn phải than: "Chúa Jesus đã sống lại trong sự im lặng hững hờ của Thượng
Đế !". Các cuốn Tân Ước viết về phục sinh, mỗi cuốn nói một kiểu và
mâu thuẫn nhau. Matthew nói người Chúa gặp đầu tiên sau khi sống lại (hay tỉnh
dậy?) là bà Magdelene tại vườn cây của Joseph Arimathea. Luke thì lại kể rằng
người Chúa gặp đầu tiên là thủ lãnh các tông đồ, tức Phêrô, tại Jerusalem!
Còn Mark thì xác định sau khi sống lại, Chúa chẳng gặp ai cả. Cả ba cuốn sách của
chân lý tuyệt đối nói về ba chân lý khác nhau khiến cho chúng ta ngày nay phải
bối rối và nghĩ rằng phải có một chân lý thứ tư: Các cuốn Thánh Kinh Tân Ước là
những cuốn sách gồm những chuyện bịa đặt về Jesus nhằm Ki-tô-hóa nhân vật phàm
tục này. Những chuyện bịa về phục sinh đã làm cho ngay chính môn đệ ruột của
Jesus là Thomas cũng phải nghi ngờ.
Phúc âm của John (20: 24-27) kể rằng: Thomas là một trong 12 môn
đệ của Chúa. Sau khi sống lại, Chúa đến thăm các môn đệ của Ngài thì Thomas bữa
đó lại đi vắng. Lúc trở về nhà, Thomas nghe các tông đồ khác thuật chuyện Chúa
đã sống lại rồi, Thomas không tin. Thomas nói: "Chỉ khi nào tôi thấy tận mắt
các lỗ đinh trên tay chân ngài và được thọc tay vào lỗ giáo đâm trên cạnh sườn
Ngài thì tôi mới tin". Tám ngày sau, Jesus trở lại căn nhà của các tông đồ,
lúc đó mọi người đều đã qui tụ đông đủ để chờ đón Ngài. Cửa ra vào và các cửa sổ
đều được đóng chặt, nhưng Chúa đã xuất hiện ở trong nhà như một hồn ma và đứng
giữa đám họ. Chúa nói với Thomas: "Con hãy đặt tay lên lỗ đinh trên tay
chân ta và hãy cho tay vào lỗ giáo đâm trên cạnh sườn ta. Con đừng nghi ngờ gì
nữa. Phúc cho kẻ nào không thấy mà tin."
Vì quá tin vào Lời Chúa trong Phúc âm của John, hầu hết tín đồ
Ki Tô Giáo thường ít thắc mắc về những điều vô lý trong tín điều Phục-sinh cũng
như trong các tín điều khác, bởi vì không thấy mà vẫn cứ tin bừa thì mới có
phúc thật. Câu nói: "Phúc cho kẻ nào không thấy mà tin" đã trở thành
nền tảng trong hai ngàn năm qua cho một thứ Đức Tin Mù (The Blind Faith) - một
thứ đức tin của loài người bán khai vì nó hoàn toàn không cần sử dụng tới cái dụng
cụ quý giá nhất ở con người thông minh là lý trí - Số báo đặc biệt nhân dịp lễ
Phục Sinh năm 1996, với chủ đề in trên trang bìa "Rethinking of the
Resurrection of Christ", tờ tuần báo nhiều độc giả nhất thế giới là
Newsweek đã kêu gọi các tín đồ Kitô Giáo hãy suy xét lại niềm tin tôn giáo của
mình xem có phải là đức tin mù hay không.
mời xem tiếp: Thiên Chúa Allah của Đạo Hồi
mời xem tiếp: Thiên Chúa Allah của Đạo Hồi
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...