Do
đâu chúng tôi căn cứ mà biết Ba Mươi Bảy Pháp Môn này là của đức Phật Thích Ca
Mâu Ni thuyết giảng, do từ các kinh sách Nguyên Thủy, xin quý vị hãy nghiên cứu
tạng kinh Nikaya do HT Minh Châu dịch từ tiếng PALI sang Việt ngữ.
Nhất là chúng tôi căn cứ vào bài pháp “THỨC ĂN” trong kinh
Nikayađể giải nghĩa rõ ràng. Vậy chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Minh Giải Thoát (Tam
Minh)? Bảy Giác Chi, cần phải trả lời như vậy”.
Minh Giải thoát tức là Ba Minh:
1- Túc Mạng Minh
2- Thiên Nhãn Minh
3- Lậu Tận Minh
Túc Mạng Minh là một trí tuệ siêu việt của Phật giáo. Ai tu hành
có được trí tuệ này thì nhìn về quá khứ biết rõ nhiều đời nhiều kiếp của mình
và của những người khác. Biết kiếp trước chúng ta sinh ở nước nào, làng nào, xã
nào, huyện nào, tỉnh nào, tên gì họ gì, nghèo giàu đều biết rất rõ, nhờ trí tuệ
này mới biết người chết đây sinh kia chứ không có linh hồn đi đầu thai xuống địa
ngục hay lên thiên đàng hay sống theo con cháu bốn mươi chín ngày để làm tuần,
làm tự rồi mới tái sanh kiếp khác. Đó là sự tưởng tượng của các tôn giáo còn lạc
hậu mê tín.
Thiên Nhãn Minh là một trí tuệ thứ hai, nó quan sát không gian
vũ trụ không chỗ nào là không thấy. Không có một vật gì trong không gian vũ trụ
mà nó bỏ sót dù vật ấy rất nhỏ như hạt vi trần. Xưa đức Phật dùng Thiên Nhãn
Minh nhìn vào một ly nước và tuyên bố rằng trong ly nước có vô lượng trùng. Thời
gian đó ít ai tin nhưng thời đại khoa học có kính hiển vi và thiên văn kính họ
bảo rằng đức Phật nói không sai.
Lậu Tận Minh là một trí tuệ thứ ba thấu suốt mọi vật, mọi pháp
trên thế gian này không có pháp nào thường còn toàn là vô thường, không có pháp
nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta chỉ là theo các duyên hợp mà thành ra vạn
vật, vạn pháp rồi cũng theo các duyên tan mà vạn vật, vạn pháp hoại diệt, chứ
không có một đấng Vạn Năng nào sinh thành và cũng không có một đấng Sa Tăng nào
diệt vạn vật.
Cho nên, không ai làm khổ mình và mình cũng không làm khổ ai, chỉ
có 12 duyên tan hợp mà khổ đau trùng trùng diễn tiếp khổ này đến khổ khác. Do
trí tuệ Lậu Tận Minh mà đức Phật thấy con người sống trong lậu hoặc nên chịu
đau khổ vô vàn.
Người tu hành muốn có được ba trí tuệ này thì phải thực hiện TÂM
BẤT ĐỘNG trên Tứ Niệm Xứ bảy ngày đêm. Khi sống được bảy ngày đêm TÂM BẤT ĐỘNG
thì Bảy Năng Lực Giác Chi lần lược xuất hiện:
Thất giác chi
1- Niệm Giác Chi
2- Tinh Tấn Giác Chi
3- Khinh An Giác Chi
4- Hỷ Giác Chi
5- Định Giác Chi
6- Xả Giác Chi
7- Trạch pháp Giác Chi
Khi Bảy Giác Chi xuất hiện đầy đủ thì chúng ta có đủ Tứ Thần
Túc:
1- Tinh Tấn Như Ý Túc
2- Định Như Ý Túc
3- Tuệ Như Ý Túc
4- Dục Như Ý Túc
Khi có Bốn Như Ý Túc thì mới nhập được Tứ Thánh Định, còn chưa
có Bốn Như ý Túc thì không bao giờ nhập Tứ Thánh Định được, do đó ai nói nhập
thiền định bảy tám ngày hay sáu bảy tháng là nhập thiền định tưởng.
Cho nên khi người nào nói về thiền mà nói không đúng lời dạy của
Phật là biết ngay họ là những người chịu ảnh hưởng pháp thiền của ngoại đạo,
còn không là những người nghiên cứu kinh sách rồi nói ra thì chúng ta cũng biết
ngay họ là những người sống trong kiến giải tưởng chớ không biết cách thức nhập
thiền định nào cả.
Như đức Phật dạy khi nào chúng ta tu chứng thì mới dám dạy người
tu, còn chưa chứng thì đừng dạy, nếu dạy sẽ đưa người ta vào con đường thiền tưởng
như hiện giờ các sư các thầy từ Nam Tông đến Bắc Tông tu chưa xong mà dạy người
tu nên thầy trò tu thiền mà vào bệnh viện trị bệnh, thật là xấu hổ vô cùng.
Nếu người nào tu theo đúng pháp của Phật tâm Bất Động trên Tứ Niệm
Xứ như trên đã dạy thì nhập từ Sơ thiền đến Tứ thiền thì tất cả bệnh đau trên
thân đều đuổi ra khỏi thân. Và chính Tứ thiền là pháp môn làm chủ sự sống chết,
có nghĩa hành giả nhập được Tứ thiền thì tịnh chỉ được hơi thở, nhờ đó muốn sống
chết hồi nào thì cũng rất tự tại, chết là chết ngay liền. Thiền định như vậy mới
thật sự là thiền định của Phật giáo.
Nhìn lại từ Đông sang Tây biết bao nhiêu là thiền sư. Ông thì bị
xe đụng chết, ông thì đi nằm bệnh viện rồi chết, những bệnh của quý vị thiền sư
đều thuộc về loại bệnh nan y.
Khi được làm thiền sư dạy đạo thì phật tử dâng cúng những thực
phẩm ngon bổ, càng ngon bổ thì càng độc, do đó “thích” ăn ngon bổ nên không có
vị nào thoát khỏi những bệnh nan y.
Đạo Phật ly dục ly bất thiện pháp thế mà thiền sư còn thích ăn
ngon bổ vậy xưng là thiền của Phật giáo thì thiền của Phật giáo làm sao có thiền
như vậy được.
Tu hành chưa nhiếp được tâm bao nhiêu mà đi dạy người khác tu thật
là những người đang “háo danh” muốn mình làm thầy thiên hạ. Thật đáng chê
trách.
Muốn làm thầy dạy người tu tập thì phải có đủ Bảy Năng Lực Giác
Chi, nếu chưa có thì nên im hơi, lặng tiếng để lo tu tập cứu mình ra khỏi biển
khổ. Đó là điều duy nhất quý vị nên làm, đừng nghĩ đến ai cả mà hãy nghĩ đến
mình.
Muốn tu tập có Bảy Năng Lực Giác Chi thì phải tìm hiểu pháp nào
tu tập mà có Bảy Năng Lực Giác Chi, chớ không phải từ trên pháp môn Bảy Giác
Chi tu tập mà có Bảy Giác Chi, quý vị nên nhớ kỹ bài pháp các “THỨC ĂN”. Nếu
quý vị không biết pháp nào tu tập có Bảy Năng Lực Giác Chi thì hãy lắng nghe đức
Phật dạy:“Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức
ăn cho Năng Lực Bảy Giác Chi? Bốn Niệm Xứ, cần phải trả lời như vậy”.
Theo như lời dạy trên đây của đức Phật thì Bốn Niệm Xứ là pháp
môn tu hành sinh ra Bảy Năng Lực Giác Chi. Vậy cách thức tu tập Bốn Niệm Xứ như
nào?
Như trong kinh Bốn Niệm Xứ đức Phật đã dạy tu tập như sau:
Tứ niệm xứ
1- Trên thân quán thân
2- Trên thọ quán thọ
3- Trên tâm quán tâm
4- Trên pháp quán pháp
Vậy trên thân quán thân như thế nào?
Trên thân quán thân có
nghĩa là dùng mắt nhìn thấy, tai lắng nghe, cảm nhận xúc chạm và ý thức quan
sát ngay trên thân, nếu thân có đau nhức chỗ nào liền biết ngay, thân đi biết
thân đi, thân ngồi biết thân ngồi, thân nằm biết thân nằm, thân đứng biết thân
đứng v.v...
Bất cứ thân làm điều gì đều biết, thân ăn biết thân ăn, thân ngủ
biết thân ngủ, thân quét sân biết quét sân, thân lặt rau đều biết thân lặt rau.
Thân ngồi yên biết thân ngồi yên và khi thân ngồi yên bất động thì biết hơi thở
ra hơi thở vô trên thân. Tất cả hành động đều được xem là trên thân quán thân. Dù quán hơi thở ra hơi thở vô cũng
chính là trên thân quán thân.
Tuy
nói trên thân
quán thân nhưng thật sự là đang quán bốn chỗ: thân, thọ, tâm, pháp. Vì biết thân là biết thọ, biết thọ là biết tâm, biết tâm là biết
pháp, biết pháp là biết thân.Cho nên trên TỨ NIỆM XỨ biết chỗ này thì liền
biết chỗ khác. Bốn chỗ này như một khối tuy nói bốn nhưng mà một.
Quán thân trên thân tức là tâm tỉnh thức trên thân, nên thân xảy
ra một điều gì dù lớn lao hay nhỏ nhặt tâm đều biết rất rõ. Cho nên nói trên
thân quán thân chớ kỳ thực là quán TÂM BẤT ĐỘNG, nếu tâm TÂM BẤT ĐỘNG suốt bảy
ngày đêm là tu tập chứng đạo, nhưng trong suốt bảy ngày đêm tâm thường bị hôn
trầm thùy miên vô ký và loạn tưởng thì nên dùng pháp ngăn ác diệt ác để mà diệt
các ác pháp này. Nếu muốn rõ pháp tu hành thì nên lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Bốn Niệm Xứ? Ba Thiện
Hành, cần phải trả lời như vậy”. Đúng vậy
chỉ có lấy thiện diệt ác pháp mới không bị ức chế tâm. Theo như lời Phật dạy: “Ba thiện hạnh nghĩa là gì?”
Ba thiện hạnh là ba hành động thiện trong thân của mọi người
như:
Ba thiện hạnh
1- Nói lời êm dịu, nhẹ nhàng, ôn tồn nhã nhặn, thường nói lời ái
ngữ khiến cho người nghe không buồn khổ, không tức giận được an vui và hạnh
phúc. Không được nói lời hung dữ, không được nạt nộ người khác, không được mắng
chửi người khác, không được nói lời thô tục, tục tĩu, không được chửi thề,
không được xỉa xói vào mặt người khác, không được đánh đập người khác.
2- Làm những điều thiện tức làm mọi việc không làm khổ
mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh.
3- Suy nghĩ những điều thiện tức là nghĩ ngợi những điều không
làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sinh.
Khi thân hành, khẩu hành và ý hành không làm khổ mình, khổ người
và khổ tất cả chúng sinh thì tâm sẽ BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ.
Cho nên, muốn tâm được BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC, VÔ SỰ thì
TRÊN THÂN QUÁN THÂN thường xem xét THÂN HÀNH, KHẨU HÀNH và Ý HÀNH, nếu mỗi hành
động đều đem lại sự bình an cho mình cho người thì hãy làm, còn không đem lại sự
an vui cho mình cho người và cho tất cả chúng sinh thì mình nhất định không
làm.
Tuy trên thân quán thân như vậy chưa đủ sức diệt các ác pháp, vì
sáu ác pháp bên ngoài thường theo sáu căn mà vào thân tâm làm cho thân tâm bất
an, như vậy chúng ta tu tập như thế nào để hộ trợ cho pháp môn trên thân quán
thân đạt được viên mãn. Vậy chúng ta hãy nghe đức Phật dạy:“Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Ba Thiện
Hành? Các Căn Được Chế Ngự, cần phải trả lời như vậy”.
Thầy xin nhắc lại, nếu chúng ta tu tập pháp môn TỨ NIỆM XỨ trên
thân quán thân mà không thực hiện BA THIỆN HẠNH thì không bao giờ chứng được trạng
thái TỨ NIỆM XỨ, cũng như chúng ta tu tập BA THIỆN HẠNH mà CÁC CĂN không chế ngự
tức là không ĐỘC CƯ thì BA THIỆN HẠNH không thành công có nghĩa là không bao giờ
diệt hết ác pháp.
Cho nên CHẾ NGỰ CÁC CĂN là một vấn đề quan trọng trong việc tu tập
BA THIỆN HẠNH. Vậy chế ngự các căn là chế ngự như thế nào?
Trong thân con người có sáu căn:
1- Nhãn căn (hai con mắt)
2- Nhĩ căn (hai lỗ tai)
3- Tỹ căn (hai lỗ mũi)
4- Thiệt căn (lưỡi)
5- Thân căn (cơ thể)
Chế ngự các căn là làm cho căn không chạy theo các trần bên
ngoài, không bị các trần bên ngoài lôi cuốn các căn. Căn và trần không lôi cuốn,
không chạy theo thì tâm BẤT ĐỘNG hiện tiền quý vị có thấy không?
Rất tiếc quý vị về đây tu tập người nào cũng mong muốn chứng đạo
nhưng luôn luôn để CĂN và TRẦN tìm nhau thì làm sau chứng đạo hỡi quý vị?
Đời thì khổ vô vàn, các pháp vô thường nay còn, mai mất không chờ
đợi một ai. Cớ sao quý vị lại xem thường, có gì vui mà ham nói chuyện; có gì
vui mà ham nhìn ngó người khác làm gì?
Muốn tu chứng đạo hãy siêng năng CHẾ NGỰ CÁC CĂN, nhờ đó mới
mong chứng đạo quý vị ạ!
Muốn chế ngự các căn có kết quả vậy chúng ta hãy tu tập các pháp
môn nào?
Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Các Căn Được Chế Ngự?
Chánh Niệm Tỉnh Giác, cần phải trả lời như vậy”.
Đức Phật đã dạy rõ ràng: “CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC” là pháp môn tu tập
“CHẾ NGỰ CÁC CĂN”. Chánh Niệm Tỉnh Giác là một pháp môn tu tập trên THÂN HÀNH
NGOẠI và THÂN HÀNH NỘI tức là nương vào THÂN HÀNH tu tập như:
Pháp Thân hành
1- Đi kinh hành 10 bước hoặc 20 bước rồi đứng lại nghỉ. Trong thời
gian đứng nghỉ phải tập trung tâm vào hơi thở, nghĩa là biết hơi thở ra và hơi
thở vào.
Khi thở ra thở vào đếm 1 kế tiếp thở ra thở vào đếm 2 và cứ như
vậy nương theo hơi thở đếm đến 20 hơi thở, nhưng phải nhớ khi nhiếp tâm trong
hơi thở không để một niệm nào xen vào, còn có niệm xen vào trong hơi thở thì tu
tập bớt hơi thở lại, khi nào không có niệm khởi rồi lần lượt tăng dần hơi thở
lên cũng như đi kinh hành vậy rồi chuyển tiếp tục đi kinh hành lại và cứ tu tập
như từ 5 phút đến 30 phút rồi sau này lần lượt tăng lên dần đến 1 giờ.
Nên lưu ý khi bước đi phải tập trung tâm chỉ biết bước đi không
có một niệm nào sinh khởi vào thì mới tăng dần lên đến 1 giờ, còn có niệm khởi
thì phải lui lại đúng thời gian chỉ còn biết bước đi mà thôi. Đó là cách thức
tu tập CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC giai đoạn đầu.
2- Đi kinh hành cũng 10 bước hoặc 20 bước rồi ngồi xuống nghỉ.
Trong thời gian ngồi xuống nghỉ phải tập trung tâm vào hơi thở, nghĩa là biết
hơi thở ra và hơi thở vào.
Khi thở ra thở vào cũng đếm 1 kế tiếp thở ra thở vào đếm 2 và cứ
như vậy nương theo hơi thở đếm đến 20 hơi thở, nhưng phải nhớ khi nhiếp tâm
trong hơi thở không để một niệm vọng nào xen vào, còn có niệm vọng xen vào
trong hơi thở thì tu tập bớt hơi thở lại, khi nào không có niệm khởi rồi lần lượt
tăng dần hơi thở lên cũng như đi kinh hành vậy. Ở đây chỉ có khác ở phần đi
kinh hành 1 là tu tập hơi thở là phải phải ngồi. Khi tu tập xong hơi thở thì lại
tiếp tục đi kinh hành và cứ tu tập như vậy từ 5 phút đến 30 phút rồi sau này lần
lượt tăng lên dần đến 1 giờ.
Nên lưu ý khi bước đi phải tập trung tâm chỉ biết bước đi không
có một niệm nào sinh khởi vào thì mới tăng dần lên đến 1 giờ, còn có niệm khởi
thì phải lui lại đúng thời gian chỉ còn biết bước đi mà thôi. Đó là cách thức
tu tập CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC THÂN HÀNH NIỆM NỘI VÀ THÂN HÀNH NIỆM NGOẠI, đây là ở
giai đoạn kinh hành thứ nhất.
Muốn tu tập CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC như trên đã dạy tu tập THÂN
HÀNH NIỆM NỘI và THÂN HÀNH NIỆM NGOẠI, nhưng khi tu tập hai pháp môn này mà
không có PHÁP DẪN TÂM thì tập không mang đến kết quả tốt đẹp được. Vậy PHÁP DẪN
TÂM như thế nào?
Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Chánh Niệm Tỉnh Giác? Như
Lý Tác Ý, cần phải trả lời như vậy”.
Pháp Như lý tác ý
Đúng vậy, pháp NHƯ LÝ TÁC Ý là PHÁP MÔN DẪN TÂM. Đến lời dạy này
chúng ta thấy đức Phật dạy từ pháp môn này kế tiếp pháp môn khác, pháp thấp đến
pháp cao cụ thể rõ ràng như hai bàn tay của chúng ta có 10 ngón là 10 ngón
không sai một ngón nào cả. Còn nói về pháp cơ bản cho đến pháp chứng đạo nó giống
như chương trình giáo dục đào tạo văn hóa của Bộ Giáo Dục. Nếu một người tu
theo Phật giáo mà tu không chứng đạo là lại tu lấy hình thức chứ không quyết
tâm thật sự.
Chúng tôi xin bảo đảm, nếu ai quyết tâm tu tập thật sự đúng như
lời dạy của Phật trên đây thì một trăm người sẽ chứng đạt 100 người không bỏ
sót một người nào cả. Qua những bài pháp này chúng ta mới rõ Phật pháp là pháp
cứu loài người thoát khổ với tầm sức và khả năng của con người. Cho nên là con
người bất cứ ai học và tu tập đều đạt kết quả làm chủ sanh tử dễ dàng không có
khó khăn, không có mệt nhọc. Chỉ có những người mới đầu thì hăng hái tu tập,
nhưng chỉ được một tuần lễ hay nửa tháng là mở cửa thất đi tìm người khác nói
chuyện giả vờ giúp bạn đồng tu hoặc xin phép để gặp Thầy hỏi điều này, thế kia
hay viết thư thưa hỏi đúng sai v.v... Đó là những người không quyết tâm giải
thoát mà chỉ tu danh tu lợi khoe khoang sự tu tập của mình để làm thầy mọi người.
Đó chính là hành động tự giết mình trong sự tu tập. Một khi Thầy
đã dạy cũng như đức Phật đã dạy BA MƯƠI BẢY PHÁP MÔN vào cửa giải thoát là đầy
đủ giáo pháp của đức Phật. Không còn thiếu một pháp nào cả. Nếu bảo rằng BA
MƯƠI BẢY PHÁP MÔN này còn thiếu là người ấy chưa hiểu Phật giáo, họ bị ảnh hưởng
của tà giáo ngoại đạo TÁM MƯƠI BỐN NGÀN PHÁP MÔN. Bài pháp trên đây đức Phật dạy
rất cặn kẻ, nếu người nào đọc xong mà không biết cách tu tập thì thật là tối
tăm và trí óc mất bình thường.
Học qua bài pháp BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO trên đây, chỉ còn có theo
thứ lớp các pháp tu tập thì sự chứng đạo sẽ ở trong tầm tay quý vị, không còn
phải tu tập thêm một pháp môn nào nữa cả và cũng không cần phải thưa hỏi với một
vị thầy nào. Trong bài dạy rất kỹ dù có một trạng thái tưởng hay một hiện tượng
nào xảy ra thì trong bài pháp này cũng chỉ rõ ràng, nên những ai cứ theo bài
pháp này tu tập dù bất cứ nơi đâu cũng không sợ điên khùng loạn trí hay bị tẩu
hỏa nhập ma.
Nếu chúng ta sợ hãi thì nên lắng nghe đức Phật dạy thì quý vị
càng vững lòng tin hơn: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Như Lý
Tác Ý? Lòng Tin, cần phải trả lời như vậy.”
Lòng tin
Những lời chúng tôi khuyên quý vị trên đây cũng là ý này, nếu có
lòng tin chúng ta mới nhiệt tâm tu tập, tu thật sự, còn không có lòng tin thì
dù có tu tập cũng chỉ tu lấy có hình thức làm vừa lòng người khác.
Lời đức Phật xác định trên đây chúng tôi tin rằng mọi người sẽ
tin tưởng hơn nhiều. Người tu theo đạo Phật mà không tin Phật thì còn tin ai.
Phải không quý vị?
Nhưng trong cuộc đời con người có quá nhiều sự gian dối,
khi họ theo một tôn giáo nào thì dựa vào đó làm nghề buôn thần bán thánh, dựa
vào đó chia phe chia nhóm để mình làm bá chủ lãnh đạo một gốc trời chẳng thua
kém một ai. Đó là danh đã làm cho họ lạc lối tu hành. Rồi đây sinh tử luân hồi
đến họ biết lấy gì bảo vệ.
Đức Phật thường dạy: “Được thân người là khó mà gặp được chánh pháp
còn khó hơn”. Vậy hôm
nay quý vị đã gặp hai thứ khó thế mà quý vị lại xem thường không lo tu tập.
Chánh pháp của Phật là một phương thuốc cứu người, nhưng ai có uống thì mới hết
bệnh còn ai không tin, không uống thì cũng đành chịu mà thôi.
Khi nói về chánh pháp của Phật chúng tôi hết sức giảng dạy để
làm cho mọi người dễ hiểu và thấy kết quả ngay liền, nhưng không đủ duyên nên họ
tu tập lơ là không nghiêm chỉnh thường phá hạnh độc cư thích tụm ba tụm bảy nói
chuyện. Dù pháp có hay đến cở nào mà thấy mọi người dụm ba dụm bảy nói chuyện
thì pháp hay cũng thành pháp dở.
Những người dụm ba dụm bảy nói chuyện là những người không có
lòng tin chánh pháp của Phật. Không có lòng tin chánh pháp của Phật thì tu tập
theo Phật giáo để làm gì?
Đối với đạo Phật, pháp môn thứ nhất là LÒNG TIN, nhờ có LÒNG TIN
chúng ta mới tu tập đến nơi đến chốn.
Trên đời người ta sinh sống làm ăn được giàu sang hay
nghèo khổ là nhờ vào LÒNG TIN khả năng của mình và chọn lựa nghề nghiệp,
nếu không có LÒNG TIN vào khả năng của mình và sự lựa chọn nghề nghiệp thì luôn
luôn sẽ gặp thất bại.
Cho nên LÒNG TIN rất quan trọng trong cuộc sống đời người, vì thế
nó còn quan trọng gấp trăm ngàn lần trong việc tu hành theo Phật giáo.
Trong pháp môn NGŨ LỰC của Phật giáo, LÒNG TIN đứng hàng đầu gọi
là TÍN LỰC. Trong tất cả Pháp môn tu tập của Phật giáo, pháp tu tập thứ nhất là
LÒNG TIN, quý vị có LÒNG TIN này không? Nếu quý vị chưa có LÒNG TIN thì hãy lắng
nghe đức Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Lòng Tin? Nghe Diệu Pháp
(chân pháp của Phật), cần phải trả lời như vậy”.
mời xem tiếp: * Tâm Bất Động - Thanh Thản - An Lạc
mời xem tiếp: * Tâm Bất Động - Thanh Thản - An Lạc
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Có viết cho nhau cả vạn lời,
Rằng thương rằng nhớ để rồi thôi,
Chi bằng trên đường đời vạn nẻo,
Sống Để Yêu Thương thế đủ rồi...